ĐỨC KITÔ LÀ CON
ĐƯỜNG, SỰ THẬT VÀ SỰ SỐNG
I. VẤN ĐỀ VÀ GIẢI ĐÁP
Khi suy nghĩ về Đức Kitô là Con Đường, Sự Thật và Sự Sống, có một vấn
đề được đặt ra, cách riêng trong thần học của thời kỳ cận đại : vấn đề về tính
đồng thời contemporanéité) của Ngài. Kể từ khi Đức Kitô sống ở trần gian đến
nay, đã nhiều thế kỷ trôi qua. Khoảng thời gian dài này được Lessing, một nhà
tư tưởng người Đức sống ở thế kỷ 18, gọi là “hố kinh khủng” chia cách ta với
Đức Kitô. Vậy làm sao mà một người đã sống trước ta quá lâu lại có thể là Con
Đường, Sự Thật và Sự Sống cho chúng ta hôm nay ?
Vấn đề phải tìm hiểu là chúng ta có thể có kinh nghiệm về Đức Kitô như
thế nào, làm sao biến cố cứu độ của Chúa lại trở thành kinh nghiệm của chúng ta
hôm nay.
Thời cận đại, vấn đề trên được giải đáp theo ba hướng.
Hướng thứ nhất coi Chúa như một gương mẫu cho cuộc đời. Emmanuel
Kant chẳng hạn, đi theo hướng này. Theo ông, Đức Kitô là gương mẫu tuyệt vời
của đời sống đạo đức, một con người đã thực hiện theo cách thức cao cả nhất
những đòi hỏi của vương quốc tình yêu, mà một người như chúng ta, tự sức riêng,
hầu như không kham nổi.
Quan điểm của Kant có tính chất điển hình của thời cận đại, coi Chúa
như một lý tưởng. Có thể bắt gặp quan điểm này trong những tác phẩm của nhóm
thần học tự do viết về cuộc đời của Chúa, chẳng hạn cuốn “Cuộc đời Đức Giêsu”
của Ernest Renan, một cuốn sách rất nổi tiếng. Đức Giêsu của Renan là con người
tinh tuyền, đẹp đẽ nhất trong số con cái loài người, vì Ngài đã biết thực hiện
cách tuyệt vời vương quốc tình yêu trong tâm khảm của mình.
Thần học của thời kỳ lãng mạn sau đó cũng coi Đức Giêsu như một gương
mẫu đạo đức.
Quan niệm trên hiển nhiên có nhiều giới hạn. Cho dù cao quý và gây xúc
động mấy đi nữa, gương mẫu vẫn chỉ có tính chất ngoại tại, không ăn nhập với
thực tế mà chúng ta đang sống. Đối chiếu với lời của Phaolô trong thư Galát
(2,20 : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi”), ta thấy rõ không thể nói về Đức Kitô như nói về một gương mẫu. Gương mẫu
và tôi ở bên ngoài nhau. Và như vậy, tôi vẫn không thể vượt qua được cái hố
ngăn cách rộng lớn và đáng sợ như Lessing nói.
Một giới hạn nữa là Đức Kitô được trình bày, trong một kiểu cách giảng
thuyết nào đó, không phải như một Đấng đang sống đã đi vào đời sống tôi, giúp
cho tôi sinh hoa trái đạt tới sự sống đời đời, nhưng đúng hơn như một thứ luật
lệ hay luân lý mà tôi phải phục tùng.
Chúng ta không chấp nhận quan niệm thu hẹp Đức Kitô vào một luật đạo
đức phải phục tùng, một kiểu mẫu thuần tuý bên ngoài phải noi theo. Chúng ta
muốn có kinh nghiệm sống động về Đức Kitô. Chỉ khi đó, Ngài mới có thể trở thành
Chúa của cuộc đới ta.
Hướng thứ hai là vĩnh cửu hoá hiện tại. Người đề nghị hướng này
là Soren Kierkegaard, một nhà triết học và thần học lớn của tiền bán thế kỷ 19.
Trước vấn nạn : Làm thế nào để Đức Kitô không phải là đối tượng hoá đá của
giảng thuyết đạo đức, nhưng thật sự là Chúa của đời sống tôi, ông đã trả lời :
Phải trở thành “đồng thời” với Đức Kitô bằng một nỗ lực khổ chế. Nỗ lực này
giải thoát ta khỏi sự vô thường của thời gian hiện tại, để đạt tới kinh nghiệm
sống động về Thiên Chúa.
Có thể tổng hợp ý tưởng cùa Kierkegaard về tính đồng thời của Đức Kitô
trong kiểu nói “vĩnh cửu hoá hiện tại”. Hiện tại của con người phải được vĩnh
cửu hoá nơi Thiên Chúa. Phải vượt qua sự vô thường của thực tại để trở về với
Thiên Chúa. Phải ra khỏi hiện hữu (existence bởi ex-sistere=ở ngoài), xa tránh
thế gian (fuga mundi) để trở lại với kinh nghiệm nguyên thuỷ về Ngài.
Theo Kierkegaard, biết và yêu Đức Kitô có nghĩa là trở thành người đồng
thời với Ngài. Không phải Ngài trở thành đồng thời với ta, nhưng chính ta gặp
lại vẻ đẹp của Thiên Chúa vĩnh cửu, nhờ khổ chế, nhờ quên đi thế giới với những
đau khổ và tội lỗi của nó.
Không thể chối cãi sự hấp dẫn của nhãn quan này. Nó đã được chấp nhận
không những nơi Giáo hội Luthêrô, mà Kierkegaard là thành viên, mà còn nơi
nhiều nhà giảng thuyết và nhà luân lý công giáo.
Mặc dù rất gợi ý, nhãn quan trên đây làm mất đi ý nghĩa của việc Thiên
Chúa nhập thể, Đấng đã muốn đi vào thế gian để đồng hành với nhân loại. Thiên
Chúa của người kitô hữu là Thiên Chúa đang sống trong thời gian của con người,
Thiên Chúa ẩn mình trong lịch sử của con người. Thế nên, để có thể nhận ra
Ngài, chúng ta không được ra khỏi thế gian, ngược lại, phải đi vào trong lịch
sử ấy.
Chúng ta không chấp nhận con đường khổ chế, nếu coi đó là con đường để gặp
Đức Kitô đang sống. Một kitô giáo xa tránh thế gian và lịch sử là một kitô giáo
phản bội lại việc nhập thể của Thiên Chúa. Đối với ta, vấn đề không phải là đưa
hiện tại vào trong vĩnh cửu, nhưng là để vĩnh cửu ùa vào trong thời gian, vì
Thiên Chúa đã đi vào lịch sử, Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
Hướng thứ ba là dựa vào Tân ước để đưa ra con đường Ba ngôi.
Con đường này cho thấy Đức Kitô là hồng ân của Chúa Cha được ban cho con người,
và hồng ân này đến với ta nhờ sức mạnh sống động của Thánh Thần.
Ngay từ thời sơ khai, Giáo Hội đã công bố rằng Đức Kitô vẫn sống trong
Thần Khí. Sau khi sống lại, Ngài không còn chết nữa. Trong Thần Khí, Ngài gặp
gỡ tôi ngày hôm nay và biến đổi cuộc cuộc đời hiện tại của tôi. Ngài làm cho
thời giờ hiện tại trở thành thời giờ của ân sủng, thành kinh nghiệm về Ngài.
Như vậy, cho dù có cả hai mươi thế kỷ chia cách Đức Kitô với ta, Ngài
vẫn đang sống và hiện diện nơi ta, đồng thời với chúng ta, nhờ hoạt động của
Chúa Thánh Thần.
Có một vấn đề liên hệ đến nhãn quan này cần được lưu ý : sự khác biệt
giữa ý tưởng kinh thánh về sự tưởng niệm (mémorial) và ý tưởng hy lạp về sự
tưởng nhớ (mémoire). Theo quan niệm hy lạp và tây phương, tưởng nhớ là một
chuyển động đi từ hiện tại tới quá khứ, tức là một công việc thuần tuý của trí
khôn gặp lại quá khứ. Còn tưởng niệm theo Kinh thánh là quá khứ trở thành hiện
tại. Trong tưởng niệm, biến cố cứu độ độc nhất và vĩnh viễn trở thành đồng thời
với ta, bắt gặp và biến đổi hiện tại của ta.
Thế nhưng ta không thể thật sự hiểu ý tưởng về tưởng niệm nếu không đi
vào chiều kích ba ngôi. Chính Chúa Cha, trong Thần Khí, làm cho Chúa Kitô hiện
diện. Chính Chúa Cha, khi cử Thần Khí đến, đã làm cho sự chết và sự sống lại
của Chúa Kitô trở thành kinh nghiệm của ta, hiện tại cho ta.
Vậy nhãn quan của Giáo Hội sơ khai về tính đồng thời của Đức Kitô là
một nhãn quan thánh thần học và ba ngôi. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Chúa
Kitô trở thành người đồng thời với ta. Chính trong Chúa Thánh Thần mà chúng ta
có thể nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi”. Chính hồng ân của Chúa Cha, trong Thần Khí, làm cho Chúa Con hiện diện
cho ta. Chúng ta không thể hiểu được Đức Giêsu là Con Đường, Sự Thật và Sự
Sống, nếu không có ý tưởng về sự trung gian của Ba Ngôi.
Chấp nhận nhãn quan ba ngôi, chúng ta không sống bằng một ý tưởng, một
khoa đạo đức, một giáo thuyết hoặc bằng cách xa tránh thế gian. Chúng ta sống
bằng kinh nghiệm về một Đấng đang sống, là Đấng đưa ta vào sâu trong diễn tiến
của lịch sử.
Do đó, chúng ta không bao giờ được coi kitô giáo như một hệ thống luân
lý, hoặc như một hình thức xa tránh thế gian. Kitô giáo loan báo một Đấng đang
sống. Đấng ấy đến thay đổi cuộc đời của con người, ở đây và lúc này.
B. SỨ ĐIỆP
Trong Phúc âm Gioan, Đức Giêsu tuyên bố mình là Con Đường, Sự Thật và
Sự Sống (Ga 14,6). Trong thư Galat, Phaolô viết: “Tôi sống, nhưng không còn
phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Có thể nói câu của thư
Galát xác định vấn đề, còn câu Chúa nói trong Phúc âm Gioan giúp ta hiểu phải
sống cách cụ thể vấn đề ấy như thế nào.
Tân ước trình bày Đức Kitô trong hoạt động của Ngài là mạc khải và cứu
độ. Mối bận tâm của các tác giả Tân ước không phải là khai triển một khoa siêu
hình học hay hữu thể học, nhưng đúng hơn, là sự rao giảng sơ khởi Tin Mừng. Tân
ước không tường thuật diễn tiến cuộc đời Chúa theo thời gian, nhưng loan báo
Đức Giêsu đã sống giữa ta và đang sống cho ta. Tân ước loan báo Đức Kitô, Đấng mạc khải Chúa Cha, cho ta chia sẻ kinh
nghiệm về Thiên Chúa, hướng dẫn ta trên những nẻo đường trần gian.
Cơ cấu nền tảng của việc loan báo này ăn khớp với mạc khải về một Đức
Kitô là Ngôn Sứ, là Sự Thật, là Vua. Chiều kích mạc khải này cũng là chiều kích
của kinh nghiệm cứu thế, vì trong Kinh Thánh, kiến thức không bao giờ trừu
tượng, nhưng luôn là một kinh nghiệm sống động về nội dung kiến thức. Do đó ta
hiểu vì sao Đấng là Ngôn Sứ và Sự Thật lại đồng thời là Con Đường, là Vua, tức
là Đấng hướng dẫn ta, và cũng là Tư Tế, là Sự Sống, tức là Đấng ban cho ta đầy
tràn sự sống.
Hầu như cả Tân ước đều trình bày nhãn quan này, minh nhiên hoặc mặc
nhiên. Nhãn quan này được thần học hệ thống hoá, nhất là từ thời Cải Cách và
thời Cận đại cho tới Cồng đồng Vatican II. Công đồng chủ yếu bàn về Đức Kitô và
Giáo hội, khởi đi từ ba chức năng của Đức Kitô : Ngôn Sứ, Tư Tế và Vương Đế.
Trong hai Hiến chế về Giáo Hội cũng như trong các văn kiện khác, lược đồ về Đức
Kitô Ngôn Sứ, Tư Tế và Vương Đế không ngừng được lặp đi lặp lại. Lược đồ này
dựa trên xác quyết Đức Kitô là Đấng mạc khải và cứu thế. Với tư cách là Đấng
mạc khải, Ngài là Ngôn Sứ và là Sự Thật. Với tư cách là Đấng cứu thế, Ngài là
Con Đường, Sự Sống, Vương Đế và Tư Tế.
Chính sự hiểu biết trên đây đưa đến quyết định và kinh nghiệm sống.
Cuộc gặp gỡ của người môn đệ với Đức Kitô thể hiện qua những hành vi nối tiếp
nhau : trí khôn biết Chúa là Sự Thật, ý muốn quyết định đi theo Ngài là Con
Đường, tâm hồn đón nhận Ngài là Sự Sống.
Qua diễn tiến trên, có thể đưa ra ba câu hỏi : Căn cứ vào Tân ước, Đức
Kitô là Con Đường, Sự Thật và Sự Sống theo nghĩa nào ? Đức Kitô Con Đường, Sự
Thật và Sự Sống hiện diện với ta như thế nào ? Đức Kitô Con Đường, Sự Thật và
Sự Sống từ đâu mà đến, để trở thành Đấng đang sống trong ta ?
1. Đức Kitô Sự Thật
Tân ước trình bày Đức Kitô như một Đấng loan báo Tin mừng. Trong Phúc
âm Nhất lãm, có tới 109 lần Đức Giêsu nói về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời.
Cuộc đời của Ngài hoàn toàn hướng về Nước Thiên Chúa. Theo nghĩa này, Ngài là
Đấng mạc khải, đồng thời cũng là chính mạc khải. Trong Ngài, Nước Thiên Chúa đã
trở thành hiện tại cho ta.
Nước Thiên Chúa là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đến cư
ngụ giữa nhân loại. Đó là lời loan báo vĩ đại nhất của Đức Giêsu : Thiên Chúa
Tình Yêu tường thuật lịch sử tình yêu của mình trong lịch sử con người. Và lịch
sử của Thiên Chúa, tự nền tảng, là lịch sử của lòng trung tín.
Trong tiếng hipri, không có từ “sự thật” theo nghĩa mà Tây phương quen
hiểu. Để diễn tả “sự thật”, người Do thái dùng từ “trung tín” (emet). Theo não
trạng hy lạp, sự thật có nghĩa là “cất tấm màn che phủ một cái gì đó”. Sự thật
là điều người ta có thể nắm được và làm chủ, khi tấm màn đã được vén lên. Theo
triết học kinh viện, sự thật là sự hoà hợp của một phát biểu với đối tượng được
biết và chủ thể biết. Một khi sự thật tỏ lộ, người ta làm chủ nó.
Nếu Đức Giêsu là Sự Thật theo nghĩa hy lạp, Ngài sẽ là một sự vật mà
người ta nắm được, chứ không phải là một Đấng mà người ta bắt gặp. Trong Kinh
Thánh, sự thật không phải là cái gì đó lộ ra hoặc được ban để người ta nắm
được, nhưng sự thật là sự trung tín, tức là mối liên hệ tình yêu, mối tương
quan giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người. Đối với người Do thái, sự thật là
sự trung tín trong tình yêu. Theo não trạng hy lạp, ngược với sự thật là sai
lầm, còn theo não trạng do thái, ngược với sự thật là bất trung, tội lỗi. Do
đó, một câu như “Sự thật sẽ giải thoát chúng ta” có nghĩa là “sự trung tín
trong tình yêu sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta”. Sự thật không phải là cái gì đó
mà người ta làm chủ, nhưng là Ai đó làm chủ ta.
Khi Đức Giêsu xưng mình là Sự Thật thì Ngài muốn nói rằng : Tôi là sự
trung tín của Thiên Chúa trong tình yêu.
Ngôn sứ không đơn thuần là một thày dạy truyền đạt những sự thật thuộc
phạm vi tri thức, nhưng là người mạc khải và truyền đạt sự thật tình yêu, giúp
người ta hiểu rằng ý nghĩa của cuộc đời là tin vào tình yêu Thiên Chúa và để
mình được Ngài yêu.
Ai trung tín với lời của Đức Kitô sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải
thoát người đó (Ga 8,32). Theo nghĩa này, Đức Kitô là Thày hoặc Thủ Lãnh của
ta: “Anh em đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh
đạo là Đức Kitô” (Mt 23,10). Chỉ mình Đức Kitô mạc khải cách tinh tuyền và hoàn
toàn sự trung tín của tình yêu Thiên Chúa.
Đức Giêsu Sự Thật, Ngôn Sứ, Thày, Thủ Lãnh có thể hiện diện với ta như
thế nào ? Hiện diện trong Thần Khí, Tân ước cho biết rõ như vậy. Chính Thần Khí
làm cho Đức Giêsu hiện diện bất cứ khi nào và nơi nào. Vì vậy, trong Tân ước,
nhất là trong Gioan, Thần Khí được gọi là “Thần Khí Sự Thật” (Ga 14,17; 26,26;
16,13). Thần Khí hiện tại hoá sự trung tín của Thiên Chúa được bày tỏ trong Đức
Giêsu. Tin vào Thần Khí Sự Thật là tin vào sự trung tín của Thiên Chúa.
Sự trung tín của Thiên Chúa hiện diện ở đâu ? Có thể nhận ra 3 nơi hiện
diện : lời Thiên Chúa, dấu chỉ thời đại và lịch sử tình yêu.
Trong tiếng hipri, lời là debar. Từ này không chỉ một âm thanh trống
rỗng (flatus vocis), nhưng có nghĩa là cái ở phía sau, ở trong, ở dưới, tức là
ở trung tâm, chủ tính của một sự vật. Nếu lời là trọng tâm của sự vật thì, đối
với người Do thái, lời Thiên Chúa có nghĩa là chính Thiên Chúa trong dấu chỉ
lời Ngài. Và đó cũng là ý tưởng của Kinh Thánh về lời Thiên Chúa : Lời Thiên
Chúa không phải là một sự gì đó, nhưng là một Ai đó, là Thiên Chúa hằng sống
trong dấu chỉ lời Ngài, là Thiên Chúa tỏ mình ra trong quyền năng của lời Ngài.
Vậy nơi đầu tiên cho thấy sự trung tín của Thiên Chúa là lời của Ngài.
Ai khám phá ra Đức Giêsu Sự Thật không thể không khám phá ra lời Thiên Chúa.
Lời Thiên Chúa là dấu chỉ sống động nói lên sự trung tín của Thiên Chúa. Nếu
mỗi gia đình có cuốn Kinh Thánh thì, một cách nào đó, sự trung tín của Thiên
Chúa đi vào trong mỗi gia đình và mỗi người.
Nhưng lời Thiên Chúa mà thôi chưa đủ. Còn phải lưu ý tới những dấu chỉ
của thời đại, như Đức Giêsu nói và mời gọi (x.Mt 16,2). Những dấu chỉ này là gì
? Là những biến cố, sự kiện, lời nói trong lịch sử cho thấy Thiên Chúa hiện
diện ngày hôm nay. Thiên Chúa trung tín qua lịch sử trong đó Ngài đối thoại với
con người, cho dù lịch sử có thể hàm hồ.
Để hiểu lịch sử cho đúng và rõ, phải luôn đọc lịch sử trong Phúc âm và
đọc Phúc âm trong lịch sử. Đọc lịch sử trong Phúc âm có nghĩa là giải thích sự
việc dựa vào ánh sáng của lời Chúa. Đọc Phúc âm trong lịch sử có nghĩa là giải
thích Phúc âm dựa vào ánh sáng của sự việc. Người chỉ đọc lịch sử dựa vào Phúc
âm có nguy cơ trở thành người bảo thủ cực đoan, muốn diễn dịch lịch sử từ lời
Chúa. Ngược lại, người đọc Phúc âm dựa vào lịch sử có nguy cơ giản lược Phúc âm
vào não trạng thế tục. Đó là cám dỗ của tinh thần thế tục. Để cân bằng hai khía
cạnh trên đây, phải luôn đọc lời Chúa trong lịch sử và đọc lịch sử trong lời
Chúa. Theo K. Barth, người kitô hữu phải mỗi ngày một tay cầm cuốn Kinh Thánh,
tay kia cầm tờ nhật báo.
Nơi hiện diện thứ ba là lịch sử tình yêu. Đọc trong Mt 25,35tt, ta thấy
khi xét xử ta, Chúa không xét xử điều gì khác hơn là hành vi bác ái hay không
bác ái của ta đối với người khác, nhất là những người nghèo khổ. Những người
này là “dấu chỉ” của chính Chúa đang hiện diện giữa ta, cần được ta yêu thương.
Nơi nào người ta yêu hay được yêu trong sự thật, nơi đó Thiên Chúa hiện diện.
2. Đức Kitô Con Đường
Chỉ mình Đức Giêsu là Con Đường. Chỉ mình Ngài là Cửa chuồng chiên. Chỉ
mình Ngài đưa ta tới Chúa Cha. Ngài là Con Đường đưa tới sự sống, là Con Đường
đua tới sự thật. Ngài là Con Đường vì là Mục Tử của ta. Đức Giêsu là Mục Tử đau
khổ, bị hành hạ vì yêu các con chiên của mình (Mc 14,27), Mục Tử xét xử (Mt
25,31), Mục Tử chăn chiên (Dt 13,20), Mục Tử tối cao (1Pr 5,4).
Ý tưởng về Con Đường bao hàm chiều kích ba ngôi. Đức Kitô là Con Đường,
vì trong Thần Khí, Ngài đưa ta tới Chúa Cha. Ân huệ của Chúa Cha đến với ta
cũng nhờ Đức Kitô. Không thể nói về Đức Kitô Con Đường mà không nói về mối
tương quan giữa Ngài với Chúa Cha.
Đức Kitô Con Đường hiện diện như thế nào ? Một lần nữa, Tân ước cho
biết rõ : hiện diện trong Chúa Thánh Thần. Thánh Thần đưa ta tới Chúa Cha nhờ
Đức Kitô. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm
8,9). “Không ai có thể nói rằng : Đức Giêsu là Chúa – tức là có thể tuyên xưng
Chúa là sự thật – nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12,3). “Chúa là
Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đấy có tự do” (2Cr 3,17). Vậy chính
trong Thần Khí mà ta được tự do, để đến với Chúa Cha, qua con đường là Đức Kitô.
Kiểu nói “con đường của Đức Kitô” là một kiểu nói kinh thánh (Cv 9,2;
18,25; 22,4 …). Con đường của Đức Kitô nhấn mạnh hơn chiều kích giáo hội học và
thánh thần học. Chính Thần Khí dẫn ta đi theo con đường của Đức Kitô.
Thần Khí làm cho Đức Kitô Con Đường hiện diện ở đâu ? Ở hai nơi cụ thể
: nơi Giáo Hội và nơi những nỗ lực giải thoát. Một nơi có tính chất giáo hội
điển hình, một nơi có tính chất thế tục.
Giáo Hội không phải là một thực thể tuyệt đối, vì Giáo Hội không phải
là Nước Thiên Chúa. Giáo Hội là “Nước Thiên Chúa hiện diện trong mầu nhiệm” (GH
3), là hạt giống của Nước Thiên Chúa, là Vương quốc đang hình thành. Thực sự
Giáo Hội chỉ là con đường chứ không phải quê hương. Chính vì vậy người kitô hữu
không thể chấp nhận thái độ đắc thắng. Giáo Hội không phải là một bà chủ cao
tuổi đã đạt tới đích, nhưng là một nữ tỳ trẻ trung như Đức Maria, đang trên
đường về quê trời. Giáo Hội hoàn toàn hướng tới tương lai của Thiên Chúa, là
dân gồm những người lữ hành. Cùng với những cơ cấu và định chế của mình, Giáo
Hội là con đường của Đức Kitô hiện diện cách cụ thể.
Đức Kitô còn hiện diện trong những nỗ lực nhằm giải thoát nhân loại.
Nếu quả đúng là ở đâu có Thần Khí của Chúa, ở đấy có tự do (2Cr 3,17), thì ở
bất cứ nơi nào người ta hoạt động nhằm “giải phóng sự tự do”, nơi đó Đức Kitô
Con Đường hiện diện, vì nơi đó Thần Khí hiện diện. Điều nói trên phải thúc đẩy
ta tái khám phá giá trị của những nỗ lực nhằm giải thoát con người, vì Đức Kitô
Con Đường hiện diện trong những nỗ lực này. Sự hiện diện này là thực, tuy có
thể không mấy người biết đến hoặc nhận ra.
3. Đức Kitô Sự Sống
Đức Kitô là Sự Sống. Đây là một đề tài điển hình của Phúc âm Gioan. Có
thể bắt gặp đề tài này ở nhiều chỗ, như Ga 1,4; 5,26; 6,35.57; 11,25; 14,6.
Chúng ta chỉ cần nhớ lại bản văn xác định sứ mệnh của Đức Giêsu: “Tôi đến để
cho chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), hoặc bản văn về Con Chiên
Thiên Chúa, vô tội, hy sinh mạng sống mình vì tội lỗi thế gian.
Theo Gioan, Đức Kitô là Sự Sống, dâng mình làm lễ hy sinh và ban sự
sống cho ta. Ngài dâng hy tế này trong chức vụ Thượng Tế (Dt 3,1). Đức Kitô là
Thượng Tế, là Đấng ban sự sống mình, hiến tế chính mình, để cho ta được sống.
Đức Kitô Sự Sống hiện diện cho ta như thế nào ? Đó là hiện diện trong
Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà ta nhận được sự sống của Đức Kitô.
Trong Kinh Tin Kính Nicêa-Constantinopoli, chúng ta tuyên xưng Thánh
Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống”. Thánh Thần ban cho ta sự sống của Đức
Kitô. Phaolô viết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho
Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi
chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác
anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Vậy Đức Kitô hiện diện cho ta trong Thần
Khí là Đấng ban sự sống.
Thần Khí ban cho ta Đức Kitô Sự Sống ở đâu ? Ở hai nơi : các bí tích và
những đau khổ. Một nơi có tính chất giáo hội hơn, một nơi có tính chất thế tục
hơn.
Trong quá khứ, người ta có khuynh hướng sự vật hoá bí tích. Bộ Giáo
luật 1917 bàn về bí tích trong đoạn “Về các sự vật”. Nhưng Công đồng Vatican II
đã coi các bí tích như những biến cố, biến cố của cuộc gặp gỡ giữa Đấng đang
sống và những con người sống, giữa Đấng Phục sinh và những con người đã được
sống lại, giữa vinh quang và lịch sử : vinh quang ẩn giấu dưới các dấu chỉ lịch
sử.
Lịch sử đi vào trong Ba Ngôi và Ba Ngôi đi vào trong lịch sử. Quả thực,
từ khởi thuỷ, ngay cả Thánh Thể cũng có cấu trúc ba ngôi sâu sắc, vì Thánh Thể
là việc tạ ơn Chúa Cha, khẩn cầu (épiclèse) Chúa Thánh Thần thánh hoá, tưởng
niệm Chúa Con. Thánh Thể hoàn toàn là trình thuật ba ngôi. Trong bí tích này,
chúng ta có kinh nghiệm về Đức Kitô, Đấng ban sự sống. Nhờ các bí tích, sự sống
của Ngài lưu chuyển trong ta.
Đức Kitô còn hiện diện nơi những đau khổ của nhân loại. Ngoài bản văn
Mt 25,31tt đã nói trên, cũng nên nhắc tới bản văn Cl 1,24: “Tôi vui mừng được
chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô phải chịu, tôi xin
mang lấy nó vào thân cho đủ mức vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”.
Đau khổ cũng là lúc mà người ta có thể có kinh nghiệm sống động về Đức Kitô.
Khi ấy, người ta vẫn cảm nhận được tình yêu của Chúa, sự sống của Chúa. Và ân
sủng của Ngài sẽ giúp người ta vượt qua đau khổ.
Đức Kitô là Sự Thật vì, trong Thần Khí, mạc khải cho ta Chúa Cha; là
Con Đường vì, trong Thần Khí, đưa ta tới Chúa Cha; là Sự Sống vì, trong Thần
Khí, chuyển đạt cho ta sự sống của Chúa Cha. Những khía cạnh trên cho thấy Đức
Kitô là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người (1Tm 2,5).
Nhờ Đức Kitô Trung Gian, chúng ta được ơn cứu độ là tham dự vào sự sống
Ba Ngôi, là sức mạnh trong yếu đuối, niềm vui trong đau khổ, an ủi trong cô
đơn, chiến thắng trong thử thách, sự sống trong sự chết. Ai đón nhận Đức Kitô,
đều trở thành con cái trong người Con, được hiệp thông với Thiên Chúa, học biết
cách yêu thương và hy vọng hài hoà với tấm lòng của Thiên Chúa, cho dù phải
nhọc nhằn trong nỗ lực giữ vững đức tin.
Thánh Thần phủ bóng trên người đó như đã phủ bóng trên Đức Maria. Cũng
như Đức Maria, kiểu mẫu đầu tiên của con người biết đón nhận ân sủng của Thiên
Chúa, người đó không xa tránh thế gian, nhưng được mời gọi bước đi trong tình
yêu, trong sự trung tín và hy vọng. Như Đức Maria, người đó mỗi ngày được gia
tăng về đức tin (Rm 1,17), vừa hoạt động vừa chiêm niệm, vừa vui mừng trong
kinh nghiệm về Thần Khí vừa đau khổ trong đời sống hiện tại.
Là lữ khách trên đường đời, sống nghèo giữa các người nghèo, người thâm
tín Đức Kitô đang hiện diện sẽ không ngừng biểu dương sức mạnh của sự sống lại
và sự sống của Ngài. Họ có sống là sống cho Ngài, và có chết cũng là chết cho
Ngài. Trong sự sống cũng như trong sự chết, họ chỉ muốn thuộc về Ngài. “Thật
vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho
chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho
Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Kitô đã chết và
sống lại chính là để làm Chúa kẻ sốg cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Là vì, chỉ
mình Đức Kitô là Con Đường, Sự Thật và Sự Sống.
Lm Micae Trần Đình Quảng
------------
(*) lấy ý trong Bruno Forte, Dans la mémoire du Sauveur,
Ed.
Paulines & Médiaspaul, 1991, tr. 169-190