Kỳ 10
Người thợ mộc thành Na-da-rét
Giu-se
nhìn mãi cho đến khi bóng con lạc đà cuối cùng khuất sau một ngọn đồi, chàng
mới quay vào nhà. Trời còn rất sớm. Giê-su vẫn còn ngon giấc trên chiếc giường
nhỏ trong khi Ma-ri-a đã dậy nhưng vẫn ngồi ở mép giường, như đang chờ Giu-se
vào để hỏi chuyện.
–
Họ đi xa chưa anh?
Giu-se
giật mình như kẻ đang làm điều gì vụng trộm mà bị bắt gặp. Chàng cứ nghĩ rằng,
ngoài chàng, chẳng có ai biết được việc gì đã xảy ra... Trong thinh lặng và
bóng tối của đêm sắp về sáng, tai chàng như bắt được một tiếng cào nhẹ vào cửa.
Chàng rời khỏi giường, cố gắng không gây một tiếng động nhỏ nào để khỏi làm mất
giấc ngủ của vợ con. Khi hé mở cánh cửa, chàng ngạc nhiên thấy một bóng người
đứng trước thềm. Nhìn ra ngoài đường, trong ánh sáng mờ mờ của hừng đông sắp
đến, chàng thấy còn mấy bóng người nữa đang ngồi trên lưng lạc đà. Cũng với thứ
tiếng a-ram thô sơ chàng đã nghe nói vào chiều hôm trước, bóng người lạ cho
Giu-se biết họ phải đi ngay khi trời chưa sáng để tránh sự đuổi bắt của vua
Hê-rô-đê, Nói xong người đó vội vã ra đường, trèo lên lưng con lạc đà đang quỳ
chờ sẵn và đoàn người lặng lẽ rời Bê-lem. Giu-se đứng nhìn theo và ngạc nhiên
thấy họ đi về hướng Nam. Chàng cứ nghĩ rằng hướng Đông mới đúng là hướng họ
phải theo...
Không
nghe tiếng Giu-se trả lời, Ma-ri-a đứng lên và bước tới gần chồng. Nàng hỏi
lại:
–
Chắc họ đã đi xa phải không anh?
–
Xin lỗi vì mãi suy nghĩ nên chưa trả lời cho mình. Vâng, họ đã đi khá xa, chắc
cũng được mươi dặm rồi... Vậy là mình đã biết hết?
Ma-ri-a
im lặng nhìn ra sân, tuy bóng đêm vẫn còn chưa tan hết. Nàng vừa thở dài vừa
nói:
–
Em lo quá. Lời người ấy nói có nghĩa là gì anh?
–
Thật sự là khó hiểu quá! Hay là...
Giu-se
bỏ lửng câu nói khiến Ma-ri-a bối rối. Chàng định quay sang làm gì đó nhưng
nàng nắm lấy tay chàng giữ lại. Nàng nói như rên:
–
Đừng làm em sợ. Anh đang nghĩ đến chuyện gì vậy?
Giu-se
đỡ Ma-ri-a ngồi xuống ghế. Chàng cũng kéo ghế ngồi xuống và nói:
–
Mình còn nhớ các nhà đạo sĩ đã nói gì khi họ đến đây không?
Tuy
hỏi thế, nhưng Giu-se quá biết rằng không có một điều gì, không có một lời nói
nào liên quan đến con của họ mà Ma-ri-a lại không ghi khắc trong lòng để mà suy
ngẫm. Trong giây phút im lặng bên nhau, họ nhớ lại toàn cảnh tượng đã diễn ra
vào xế trưa hôm trước...
***
Lúc
ấy Giu-se đang vắng nhà. Chàng đến sửa lại cái cánh cửa gỗ gãy mộng không đóng
lại được tại một nhà hàng xóm. Ma-ri-a đã nhờ một em bé ở cạnh nhà đi gọi chàng
về. Mới chạy đến gần cổng, Giu-se vội dừng lại khi thấy ba con lạc đà cao ngất
nghểu đứng trong sân. Nhìn vào trong nhà, chàng thấy có ba người đàn ông lạ
đang quỳ gối trước Giê-su, con chàng. Giu-se không tin vào mắt mình và phải đợi
một lúc lâu để định thần lại, chàng mới dám tiến vào nhà. Ba người lạ vì quỳ
xây lưng ra ngoài nên không thấy có người mới đến. Nhưng khi thấy Ma-ri-a mỉm
cười với Giu-se, họ liền quay lại và vội vàng đứng lên. Một trong ba người, có
lẽ là người độc nhất nói được tiếng a-ram, lên tiếng:
–
Chúng tôi xin lỗi vì đã gây sự sợ hãi cho ông bà. Chúng tôi là những người
không quen biết gì nhau nhưng cả ba đều đã nhìn thấy dấu lạ khi tìm hiểu sự
chuyển vần của các vì sao. Dấu lạ đó như muốn nói với chúng tôi rằng có một vị
vua cứu thế mới sinh ra và cũng chính dấu lạ đó hối thúc chúng tôi lên đường.
Không ai biết ai, vậy mà khi lên đường gặp nhau, chúng tôi nhận ra nhau là
người cùng đi tìm vị tân vương. Dấu lạ dẫn chúng tôi đến kinh thành
Giê-ru-xa-lem. Tại đó, nhà vua và các vị lãnh đạo tôn giáo sau khi tra cứu Kinh
Thánh đã chỉ lối cho chúng tôi đến đây, nơi thành Bê-lem bé nhỏ này. Chúng tôi
đã đến và nhận thấy rằng vị vua mà dấu lạ ở Đông phương đã báo cho chúng tôi
chính là hài nhi này, là con của ông bà đây.
Ma-ri-a
và Giu-se chăm chú nghe người lạ nói, và khó khăn lắm hai người mới hiểu được
phần nào những gì được nói ra bằng thứ tiếng a-ram thô sơ. Và những gì họ hiểu
được – dầu không phải là điều mới lạ hay bất ngờ đối với họ – cũng đã làm cho
họ ngỡ ngàng. Người con mà họ biết là ai đó, nay không còn là bí mật riêng của
họ nữa nhưng một cách nào đó, đã hiển linh cho loài người mà đại diện là ba vị
khách lạ đang ở trong nhà họ.
Trong
khi hai người vẫn giữ im lặng vì không biết phải nói hay làm gì thì ba vị khách
đã mở những tráp lễ vật ra. Họ đặt dưới chân hài nhi Giê-su một hộp đựng những
thoi vàng óng ánh, một hộp đựng những thanh trầm hương sẫm màu và hộp thứ ba
đựng một bình mộc dược quý giá. Rồi họ lại sụp lạy hài nhi một lần nữa. Giê-su
mở to đôi mắt nhìn họ, nét mặt không để lộ một cảm xúc nào, không lo sợ, không
ngạc nhiên cũng không hân hoan vui sướng như một em bé được tặng quà thường
làm.
Giu-se
đứng bên Ma-ri-a, cả hai như đang tìm hiểu ý nghĩa của những món quà quý giá mà
các vị khách đã dâng tặng con của họ. Điều mà họ chắc chắn là những quà tặng
này chỉ dành cho hài nhi Giê-su mà thôi. Và họ liên tưởng ngay đến những gì sứ
thần Gáp-ri-en đã cho họ biết về con trẻ. Tức thì mọi sự đã trở nên rõ ràng
trong đầu óc cũng như tâm hồn của đôi vợ chồng trẻ: Vàng kia, hương trầm kia
đâu xa lạ gì với những người đã thường lui tới đền thờ Thiên Chúa, đó chẳng
phải là những thứ cao quý nhất mà con người tìm được để dâng lên cho đấng tạo
thành mình sao? Bàn thờ Thiên Chúa, ngai Người ngự được làm bằng vàng khối,
trầm hương nghi ngút trước tôn nhan Người. Ma-ri- a và Giu-se xúc động nhìn
người con đã được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn thấp bé. Phải là Con
Thiên Chúa, là vua cai trị muôn dân mới đáng nhận những lễ vật cao quý này, mới
đáng nhận sự bái lạy của những người khách sang trọng này. Nhưng còn món quà
thứ ba thì sao? Đây là một loại thuốc thơm được dùng để ướp xác kẻ chết, chỉ
dành cho những bậc vua chúa hoặc người quý phái giàu sang mà thôi.
Trong
khi Giu-se còn đang phân vân về ý nghĩa của quà tặng này thì Ma-ri-a, với sự
nhạy bén của tâm hồn người mẹ, đã nhớ lại lời tiên tri của cụ già tại đền thờ
khi nàng cùng chồng đem con đến dâng cho Thiên Chúa. Bất giác nàng rùng mình và
đưa tay nắm chặt cánh tay của chồng. Giu-se quay sang nhìn vợ, chàng thấy mặt
nàng như tái đi trong chốc lát. Chàng hốt hoảng định đưa vợ bước ra sân nhưng
Ma-ri-a nhìn chàng rồi lắc dầu. Giu- se nhìn kỹ thì thấy màu hồng đã trở lại
trên đôi má của vợ. Chàng an tâm ,tiếp tục nhìn ba vị khách đang từ từ đứng
thẳng lên và chuẩn bị ra đi. Bấy giờ Giu-se mới lên tiếng:
–
Xin các ngài nán lại một lát để chúng tôi được vinh dự tiếp đãi các ngài vì
những gì các ngài đã làm cho chúng tôi.
Người
duy nhất nói được tiếng a-ram quay sang nhìn đôi vợ chồng và nói:
–
Không cần đâu! Cảm ơn ông bà đã có nhã ý đó. Những việc chúng tôi đã làm, từ
cuộc hành trình dài và vất vả, những món quà dâng cho hài nhi và những cử chỉ
tôn kính đối với em bé đây, chính dấu lạ chúng tôi đã nhìn thấy ở Đông phương
mách bảo chúng tôi làm chứ chẳng phải do tự ý của chúng tôi. Ngay cả việc chúng
tôi nhận ra vị ấu chúa nơi người con của ông bà đây để mà bái lạy Ngài, cũng do
dấu lạ ấy thúc đẩy; bản thân chúng tôi còn không kịp hiểu mình đã làm gì. Do
đó, ông bà đừng áy náy vì không tiếp đãi chúng tôi. Hơn nữa, trời đã về chiều,
chúng tôi còn phải đi tìm chỗ trọ qua đêm nay để sáng sớm ngày mai chúng tôi
lên đường trở lại quê quán, vì không thể xa nhà lâu hơn nữa...
Trời
đã sáng hẳn, nhưng đôi vợ chồng trẻ vẫn ngồi bên nhau, như đang chìm sâu trong
những hồi ức vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Bỗng từ phía sau lưng họ, tiếng con
trẻ vang lên: “Cha ơi, mẹ ơi, con đã dậy đây!” Hai người giật mình, vội đứng
dậy chạy đến bên giường con, ngây ngất sung sướng trước nụ cười đầu tiên trong
ngày mà Giê-su tặng cho cha mẹ...
(còn tiếp)