50 NĂM SIMON HÒA –
HÀNH TRÌNH TÌM VỀ QÚA KHỨ
Trần Văn Đoàn
Cựu học sinh Lớp Giuse
1 (1961-1969)
À la recherche du temps perdu là bộ tiểu thuyết 7 tập dài lê thê của Marcel Proust, viết
vào những năm 1908,1909,1922; xuất bản năm 1913 và 1927. Dựa theo những tựa đề trong
sách, nhưng hoàn tòan khác với Proust, những dòng chữ sau phản ảnh phần nào tâm
tình của người con xa nhà đương tìm lại cái qúa khứ sống động - mà nhầm tưởng là
đã mất. Trí nhớ kéo ta trở lại thời xa xưa một cách vô thức. Óc tưởng tượng làm
quá khứ “phục sinh” và thay đổi hiện tại. Hồi tưởng an ủi cái tương lai gần với
lằn ranh cuối cùng của đời người. Kinh nghiệm sống luôn thay đổi, đáp ứng với
thực tại, nhưng cũng diễn giải thực tại theo trí nhớ vô thức này. Một vô thức
không thể cưỡng lại, và tự biến thành tiềm thức, và tiềm thức tự tác động thành
ký ức – điều nghịch lý khi vô thức được ý thức... Trong ký ức, những chi tiết xem
ra khách quan được diễn giải một cách rất chủ quan. Người thuật truyện phần nào
dựa theo tiêu đề của nhiều tập trong bộ tiểu thuyết này, để nói lên tâm tình của
chính mình. Nào, xin mời anh em trong gia đình Simon Hòa cùng khơi lên ngọn lửa
qúa khứ bị thực tại nhấn vùi trong đống tro tiềm thức.
1.
À la recherche…Đi tìm
Càng gần sinh nhật thứ
Háo hức xếp đặt chương
trình. Về được hay không lại là chuyện khác. Công việc, khả năng tài chánh, và
vấn đề “phép tắc”, đặc biệt cho những đứa con lang bạt giang hồ tại hải ngoại.
Chiếu khán từ cái đất nuớc mẹ tự xưng “độc lập, tự do, hạnh phúc” dành cho
chính người con của mình vốn là chuyện lạ đời. Nó “thách đố” làm nản chí cả những
người con hiếu thảo nhất. Rồi bộ máy hành chính “nô bộc” “vì dân, của dân, do
dân” làm người chủ nhân sợ cửa quan hơn cả thần chết.… Về được là cả một qúa
trình gian chuân, nhẫn nại và nhịn nhục. Riêng với mình thì có phần dễ chịu hơn,
vì “thành tích của giáo sư còn tốt lắm” – theo lời của một vị trung tướng công
an, một tổng cục trưởng một cục mà an toàn nhất là đừng nhắc tới.
Cả một năm trước, để có
thể “danh chính ngôn thuận”, mình đã phải sắp xếp thời gian. Trong niên khóa học,
không phải nói đi là đi được. Kỷ luật học đường chẳng kém kỷ luật của Simon Hòa
thủa xưa. Chỉ khác, đó là tính tự chủ, mình tự kỷ luật mà thôi. Thế nên, khi Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Truyền Giáo (Institute der
Missionswissenschaft und Religionswissenschaft) của Hội Đồng Giám Mục Công giáo
Đức tại Aachen cùng với Đại Học Quốc Gia Việt Nam tại Hà Nội muốn tổ chức một
cuộc hội thảo khoa học về tôn giáo, mình đã “lạm dụng uy thế” đề nghị Ban Tổ Chức
chọn đầu tháng 12. Nhất cử lưỡng tiện.
Thực ra, quyết định chọn
ngày về mái trường xưa cũng chẳng dễ tí nào. Ngoài việc phải hoãn lớp dậy, còn
phải từ chối cuộc hội nghị quốc tế tại ĐH Christ University (Bangalore, Ấn Độ)
và đại Hội Nghị Việt Học tại Hà Nội, và cả bài thuyết trình vào Ngày Triết Gia
(Philosopher Day) do UNESCO tổ chức tại Paris. Tất cả qúa gần với thời điểm về
lại Đà Lạt. Đặc biệt phải khước từ chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Kiểm Định, dự định sẽ
tới kiểm định chất lượng Viện Hàn Lâm Công Giáo (Academia Catholica) của ĐH Phụ
Nhân vào ngày 14 tháng 12.
3.
Du côté de chez Swan – Bên mái nhà Simon Hòa.
Nhưng quyết định về nhà
mẹ vẫn đúng. Không có hối tiếc. Tình vẫn trọng hơn lý. Mà tình nhà lại càng nặng
hơn. Mình đã từng bái viếng cha bề trên Nhượng, cha giáo Khẩn, cha bề trên Trần,
cha bề trên Thạch, cha giáo Đệ (Tân Thanh), những người thầy đã về nhà Cha; rồi
cha Duyên, cha Liễm, cha Tính và Đức cha Nhơn… nhưng vẫn chưa có cơ may gặp cha
giáo Huân. Được biết, ngài vẫn phốp pháp như xưa, thảng có gầy đi đôi chút tuy đã
trên cả “thất thập cổ lai hi”. Gặp lại
thầy là thấy lại cả một “vùng kỷ niệm” “hỉ nộ ái ố”.
Gặp lại đồng bạn, đầu
tóc đã biến sang mầu muối tiêu, hay “lơ thơ tơ liễu dương mành”, mới cảm thấy
cái khoảnh khắc của cuộc đời “phù du, ngắn ngủi”. “Sinh, lão, bệnh, tử“ không
phải chỉ lả “tứ khổ” căn nguyên của kiếp người mà Đức Phật khám phá. Chúng là “bản
chất” con người, y hệt như “tội nguyên tổ” cũng là bản chất con người. Không
còn tứ khổ, thì “con người là ai, mà Chúa phải bận tậm”?
Nhìn các bạn, để cùng
thấm thía tiếng thở dài não nuột của Thế Lữ qua chú hổ trong lồng: “Ôi, thời
oanh liệt nay còn đâu” ! (Nhớ lại lớp văn dạy về bài thơ “Hổ nhớ rừng” (Thế Lữ)
của Thầy cố Louis Nhượng, cha bề trên thứ hai nổi tiếng uyên thâm và… nghiêm khắc.
Nhiều chú bé thành người “nổi tiếng” vì được cha cố cho về “ad bovem”).[1]
Rồi sống lại với mái trường
thân yêu, hàn huyên trao đổi, kinh hạt nguyện cầu… làm sống lại không khí cả
trên 40 năm trước. Cảm giác quen thuộc vốn sẵn trong da thịt bộc phát ra như “trái
phá con tim” (không mù loà) (nhại theo Trịnh Công Sơn). Cái cảm giác “như biết
yêu lần đầu” (“Giọt mưa trên lá”, Phạm Duy) trong “lo âu” lẫn “vui mừng” (Hiến
chế Gaudium et Spes) khi bước chân
vào Simon Hòa trên 50 năm trước trở lại một cách “tự phát”. Cuộc trở về là một
cuộc đi tìm lại chính mình. Mùi thông, mùi đất, tình thầy, tình bạn, tình anh em…
những giờ khắc “ôi phút linh thiêng đã khởi đầu” (Hàn Mặc Tử) và “lo âu” đánh
thức lại tiềm thức chung của mọi “chú” khi vừa chân ướt chân ráo bước vào cổng
Simon Hòa.
4.
À l’ombre des jeunes filles en fleurs –
Trong lòng người Mẹ trẻ
Tới Hà Nội ngày 07
tháng 12. Tuy bận với hội thảo hai ngày 08-09, nhưng tâm trí thì đã nằm mãi tận
đâu đây nơi có dẫy Langbiang, nơi có anh đào, rừng vàng đặc với mimosa, với “Thung
lũng Tình yêu”... Từ chối hai bài thuyết trình tại Viện Tôn Giáo (Viện Hàn Lâm Khoa
Học Xã Hội) và Đại Học Sư Phạm vào ngày 10, đổi lại buổi làm việc với ban lãnh đạo
Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội vào buổi sáng ngày 10, mình đổi chuyến bay về
thành phố sương mù vào sau trưa cùng ngày, sớm hơn dự định một ngày. 16.30 tới Liên Khương, và về lại thành phố vào
lúc chạng vạng. Prenn vẫn ngoằn ngoèo, vẫn nhỏ bé giữa những rặng thông xanh thẫm.
Đường thì gập gềnh với nhiều ổ gà, ổ chuột hơn. Cảnh mờ mờ huyền ảo khơi lại ký
ức với bài hợp xướng “Đà Lạt Trăng Mờ" (Hải Linh) do Thầy Đinh Lập Liễm,
cha giáo nhạc, điều khiển. Ánh điện nhạt
nhòa biến hồ Xuân Hương thành Định Đồng Hồ trong Liêu Trai Chí Dị, mờ ảo và huyền
bí. Những con đường ngoằn ngoèo bò trên sườn dốc đưa mình trở lại thời niên thiếu,
ngờ ngệch, quê mùa, nhút nhát nhưng lại tò mò…
Thế nên vừa tới Hotel du Parc (Novotel cũ), tiềm
thức liền dẫn mình xuống bờ hồ; đôi chân tự động hướng về phía Hòa Bình. Tìm lại
dĩ vãng. Tìm lại tiệm sách; tìm tới quán phở Bằng năm xưa. Thất vọng và hối tiếc!
Đâu còn mà kiếm, mà tìm. Hình ảnh những chú bé, những cậu thiếu niên “choai
choai” háo hức vào những ngày “sorties libres”. Hòa Bình tràn ngập quần trắng, áo len lam đậm
(bleu marine), giầy ba ta trắng; những bộ mặt ngơ ngơ ngác ngác ngược xuôi mắt
dán chặt vào các cửa tiệm; những âm thanh hỗn độn chí cha chí choé, í a í ới trong
khu chợ. Gà mẹ (các thầy giám thị) hôm nay vắng bóng, nên những chú gà con “ngày
ba bữa vỗ bụng rau kêu bình bịch” (Nguyễn Khuyến?) tung tăng chạy nhảy; ríu rít
sì sụp bát phở Bằng với vài lát hành tây; vội vã ngấu nghiến vị ngọt miếng thịt
bò cả năm mới có vài lần; và suýt soa nhát ớt đỏ trong cơn gió lạnh. Ôi còn gì “tuyệt”
hơn nữa nhỉ! Bát phở và buổi tắm nước nóng trong cái gía lạnh mùa đông… cơn cám
dỗ chết người, không thể cưỡng lại. Cha cố bề trên Trần đáng kính chẳng từng huấn
đức về “nhân đức khó nghèo” như thế sao? Sự thánh thiện của cha bề trên hình như
vẫn không “thánh hóa” nổi những con tim “mù lòa” của các chú bé đương lớn như
thổi. Và các chú sẵn sàng lao vào phạm cái “tội lỗi ngọt ngào” (felix culpa, thánh
Augustine, lời tuyên xưng hãy vui lên (Exultet) trong đêm Phục Sinh). Những thiên
thần đương lột xác thành những chàng A-dong: sợ hãi, thèm thuồng những “trái cấm”
được các cha giáo “sáng tạo”: Một bát phở, một cốc kem, hay một chầu xinê Ngọc
Lan, ôi thiên đàng cũng chỉ đến thế mà thôi!
Những hình ảnh này dỗ mình ngủ “giấc ngủ Đà Lạt”
(co quắp trong chăn) sau gần 8 năm không trở lại (lần cuối cùng về thăm Đức Thầy
Nhơn, Thầy Nhượng, Thầy Thạch, Thầy Liễm... với sự chăm sóc của chú Hóa Trùng Dương).
Một giấc ngủ bình yên vốn dĩ đã hiếm của kẻ tha hương cầu thực. Giống hệt đứa
bé ngủ trong lòng mẹ, tương tự như chú bé tham ngủ trong giờ nguyện ngắm, và “gà
gật” trong giờ kinh tối sau một ngày mệt nhọc với học, với hành, với những lời
huấn đức thánh thiện của các cha giáo.
5.
Le Côté de Guermantes - Háo Hức
Ngày 11, ngày háo hức. Chiếc taxi đưa mình tới
Trung Tâm Mục Vụ khi trời đổi sang mầu xám. Tới con đường rẽ, đọc thấy bảng hiệu
của ĐH Yersin, mình đã tưởng nhẩm. Nhưng nhìn xa thấy mái nhà thờ sừng sững.
Yên tâm! À, đây là Trung Tâm Mục Vụ. Sân banh ngày xưa nay được thay bởi những
toà nhà kiến trúc đặc biệt theo văn hóa người dân tộc. Đẹp, hoành tráng… nhưng chỉ thiếu cái gì đây? Đúng rồi! Những gốc thông, nơi mà các chú bé
thích dựa vào mơ mộng hay đọc trộm tiểu thuyết cấm. À, thiếu những góc “tối” nơi
các “chú lớn” nấu trộm trứng gà, hay nồi cháo “cereal”, “vẹm” từ xe chở thực phẩm
của chú Giới. À, thiếu nơi mà các chú bé vừa lớn ngồi ngẩn ngơ ngắm những tà áo
dài trắng phất phới xa tít mù cách cả qủa đồi… Để rồi nghi hoặc cái triết lý của
đại thi hào họ Nguyễn: “tu là cỗi phúc, tình là giây oan”. Và rồi băn khoăn, có
phải đi tu là “Được cả đời này lẫn đời sau” không nhỉ?
6. Temps perdu - Những gương mặt gạch nối thời
gian…
Vừa bước xuống xe, đã
nhận ra chú Chính “Phở”, người con hiếu thảo về mãi tận từ
Và rồi, a, những bộ mặt
“lạ hoắc” nhưng không xa lạ, thân mật, vồn vã, vui tươi. Những bàn tay siết chặt
không muốn rời. Những chú em mà bọn “anh cả” chưa bao giờ gặp, hay cái trí nhớ
hao mòn đương đi ngược lại với con tim. Nhìn vào mặt, nhìn đầu tóc, nhìn những
bàn tay… những dấu ấn của quá khứ hằn lên bộ mặt của đủ các loại cuộc đời từ
nông dân cho tới nhà giáo, từ người thợ cho đến doanh nhân, từ kí gỉa cho đến
tu sĩ, nhưng vẫn phảng phất “mùi vị Simon Hòa”.
Qúa khứ, hiện tại… thật
rõ ràng. Chỉ có tương lai thì tuy mù mịt nhưng gần như đã an bài: người trẻ nhất
thì cũng đã gần với cái tuổi “tri thiên mệnh” rồi, chưa nói đến lớp mình thì đã
trên “nhĩ thuận” và đương tiến gần tới “cổ lai hi”.
Đăng ký. Sao thủ tục
nhanh thế. Các chú em trong ban tổ chức đặc biệt ưu ái, cũng chẳng thèm nhận lệ
phí hội của ông anh. Hình như các em đều nghe tiếng “chẳng mấy gương mẫu” về
ông anh “gần cuối đường đứt cánh” nên dành cái đồng cảm, và đặc quyền cho chăng.
Trông ai đó quen quen. Chú Võ Đức Trung làm mình nhớ lại người anh thứ ba thời
học ở Roma (anh cả là Đức cha Mỹ Tho, anh hai là cha Vượng, cha Sinh và mình là
nhừng người cầm cờ cuối đuôi xe), bây giờ là Giám mục Nha Trang: thân thiện, tận
tình, thông minh và hoạt bát. Chú Trần Ngọc Liên, cha giáo “kỳ cựu” nhất của
Minh Hòa, chỉ thua cha bề trên Quảng, xuất hiện. Chỉ thích ở nhà gỗ chứ không ở
nhà gạch, đúng là nhân đức khó nghèo.
Cảm giác, xem ra mình rất
“đặc quyền”. À thì ra mình là lớp anh cả. Đặc quyền đó xin bỏ ngay khi anh Sinh
(Thụy Sỹ) xuất hiện. Cùng lớp Giuse 1, và cùng được Đức Thầy Simon Hòa Hiền gửi
đi Roma, nhưng anh mới đúng là người đắc đạo theo đúng tôn chỉ đào tạo của
Simon Hòa. Vẫn vui vẻ, vẫn trẻ trung, nhưng vẫn không mất đi tính đạo mạo của
nhà chân tu. Hy vọng ngày (rất gần) nào đó anh sẽ là đấng “Vít vồ” đầu tiên của
gia đình. Chúng ta có quyền vui mừng sớm và hy vọng. Gaudium et spes!
Tuy tự động xin xếp hạng ba “nhất quỉ nhì ma
thứ ba chàng tu… xuất”, nhưng xem ra vẫn được ưu ái. Có lẽ vì mái tóc ngã mầu lại
“lơ thơ tơ liễu dương mành?” nên vẫn bị xem nhầm là loại “bề trên”. Thế nên vẫn
được sánh vai với những bậc vị vọng như chú Khiết, ngài chưởng ấn Giáo phận, thầy
Lăng (bây giờ là cha Nhi, phục vụ tại Mỹ), chú Hỷ (bây giờ là cha giáo Tiến sỹ hét
ra… “gió” (thần khí) của dòng Thánh Thể, và trong đại chủng viện). Nhiều ánh mắt, nhiều câu chào hỏi của nhiều
chú em mà ông anh cả “lú lẫn” không nhận ra, cũng chẳng nhớ tên. Xin lỗi các
em. Những câu chuyện “ôn cố tri tân” vô bổ cho tương lai nhưng lại rất qúy gía
cho tình người, rôm rang sưởi ấm mọi người trong cơn gía lạnh đầu tháng 12.
7. La prisionière – La fugitive – Vào, Ra và
Ra Vào.
Rồi giờ kinh nguyện, buổi lần hạt, và chầu
Thánh Thể lôi kéo mọi người (ít nhất là mình) trở lại dĩ vãng. Đã lâu năm không
qùy gối lâu, nhưng hình như lớp da đầu gối vẫn còn độ dày để không cảm thấy đau,
hay tê. “Có công mài sắt, có ngày lên kim”: cái công phu qùy hàng giờ (hay cả mấy
giờ bị cha bề trên Trần phạt qùy) đã luyện tập các cựu Simon Hòa thành những cao
thủ với món võ “qùy”. Công phu qùy “chiêm niệm” của chúng ta chẳng thua các vị
chân tu dòng Chiêm niệm. Đáng lẽ phải được ghi vào sách Guiness kỷ lục thế giới
mới đúng.
Nhưng chính những phút qùy trước Thánh Thể này
làm mình xúc động hơn cả: Chúa đã gọi, và chúng con đã “fiat voluntas tua”. Chỉ có điều Chúa gọi chúng ta làm cái việc mà
chúng ta lúc còn bé chưa biết (hay ngộ nhận) mà thôi: làm hạt muối nhỏ bé giữa đời,
hay làm thày tư tế; làm một người truyền giáo vô danh hay nhà truyền đạo chính
danh… Làm một cha “đời” (pater mundi) hay cố đạo. Đối với Chúa, chắc chẳng có gì khác biệt. Và
bây giờ chúng con đã hiểu và xin vâng: Nunc, credo ut intelligam.
8.
Sodome et Gomorrhe - Giữa Tu và Tục
Bữa tiệc tái ngộ đúng là kiểu tái ngộ của kẻ phàm
phu tục tử: Thịt… “thơm”, rượu đế (có phải quốc lũi không), và âm nhạc đệm bởi
những tiếng cười, những điệp khúc “dzô”, và những hò hét ầm ĩ khiến mọi người
quên hẳn cơn đau “mạt kiếp” trong những bữa tiệc ly vào những năm của “thiên đường
mới” sau 1975. Ồn ào vẫn không làm ta đánh mất ký ức. Chẳng ai quên được những
bữa cơm trong thinh lặng, với sách nguyện và tin tức. Và chẳng ai không cười
khi nhớ lại lúc nhồm nhoàm ngoác miệng ra thưa “Deo gratias!” Giờ mở miệng đã điểm!
Tự do là được mở miệng (hì hì, chủ tịch Minh (Hồ Chí) chẳng từng tuyên bố như vậy
hay sao).
Buổi văn nghệ cây nhà
lá vườn cả là một kinh ngạc… và kinh hãi, nhưng không kinh sợ. Kinh ngạc với những
nghệ sĩ đại tài, rất chuyên nghiệp không thua ban nhạc hát phòng trà, hay nghệ
sĩ trên TV. Giọng ca điêu luyện, ấm cúng, hấp dẫn người nghe. Không lấy làm lạ,
các em trong ca đoàn mê các thầy còn hơn điếu đổ. Thử thách có lẽ là chính “cái
tài liền với chữ tai một vần” (Nguyễn Du) : “Thầy yêu chúng con, lời ai nói cho
cùng”. Chữ “chúng con” thì lại đa nghĩa. Ha, ai hiểu sao thì hiểu, nhân tâm tùy
thích. Chú Sơn “sòi” (về từ Virgina xa cả vạn dặm) chắc hẳn đã làm bao trái tim
nghẹn ngào với giọng kèn “Saxo” mê hoặc. Trông Sơn ôm cây Saxo còn mê li hơn cả
Tổng thống
Và ôi, các cha, các thầy
cũng chẳng hề kém bọn “phá giới”. Hết guitar đến trống, đến “keyboard”. “Mỗi người
một sắc, mười phân vẹn mười”. Cha giám đốc TTMV trông giống nghệ sỹ chuyên nghiệp
nếu quên mặc bộ áo thầy tu. Vậy mà mấy “ông cố đạo” này vẫn đắc đạo. Phép lạ của
Chúa hay nền giáo dục Simon Hòa thành công. Có lẽ cả hai. Họ là những người thuộc
nhóm không ít bỏ được cả hai cái thành phố “hạnh phúc tạm thời” Sodome và
Gomorrhe, vào được trong thành
Nhưng từ kinh ngạc đến
ngay với kinh hãi. Kinh hãi vì cái trực giác “Bá Nha-Tử Kỳ” của anh em: Nghe cũng
như không nghe! Người nghe “hét” to hơn người hát. Tiếng cụng ly chan chát hơn
tiếng trồng đệm bầm bầm. Và tiếng cười “khúc khích” hấp dẫn hơn cả tiếng Saxo của
chú Sơn sòi. Thôi, lần tới đề nghị ban tổ chức thay đêm văn nghệ bằng đêm “hét-hò”…
vậy.
Nhưng tuy hét nhiều hơn nghe, anh em vẫn nhiệt
tâm vỗ rát tay khen nức nở người biểu diễn. Và quan trọng hơn cả, đó là bữa tiệc
với món “mực tồn” làm khai vị đã đưa anh em xích lại chặt với nhau sau bao năm
xa cách hay chưa bao giờ…quen. Nhớ lại một
vài lần vượt rào trốn sang Đa Thiện thưởng thức món “cẩu nhục” để tận hưởng cái
thú “sống trên đời ăn miếng dồi chó / xuống âm phủ biết có hay không?” Cảm giác
tuyệt vời khi phạm tội vượt rào mà không bị “tóm”. Rồi nhớ lại những ngày đợi
visa, anh em gặp nhau quây quần bên bàn nhậu, chờ đĩa dồi chó, và “chém gió” về
tương lai. Cái mộng “giáo sư đại học” được vun trồng bằng rựa mận và dồi… chó.
Cả một dĩ vãng “vàng son”. Nhớ vào năm 2001, cũng vào mùa đông, về lại toà Giám
Mục thăm Đức Thầy Phêrô, thầy Bề trên Louis và các thầy khác. Tuy Đức Thầy Phêrô
bận đi mục vụ, ngài vẫn không quên điện thoại cha quản lý Tính, dặn phải đãi
ông “giáo sư” món “cẩu nhục”.
Về tới khách sạn, mà đầu óc vẫn còn vấn vương.
Tiếc là cái lớp Giuse
Dĩ nhiên phải nghĩ tới những kẻ còn đương “đền
tội” như mình: các anh Vinh và Ngôn “làm dáng” (Arizona), “thánh” Giản và “công
tử” Tuấn (San Jose), Quyền “cáo” và Định “voi” (Áo), Châu (Sài Gòn), Hiếu (Bảo
Lộc), Dũng “Cam-địa” và các anh khác mà mình tạm thời chưa nhớ ra. Nhớ lại những
ngày tắm biển Bà Rịa, nhìn bộ mặt tiếu lâm nửa cười nửa mếu của anh Huấn “đỏ” ngụp
lặn đứng lì trong biển (vì tụt mất quần… tắm). Nhớ lại lần thăm anh chị Quyền “cáo”
(vì anh đứng sau nhiều kế hoạch… “chống” bề trên) ở Bregenz dịp mình trở lại dạy
tại ĐH
Phải đợi đến ngày
Trí
nhớ cùn chưa nghĩ ra hết thì đã đi vào giấc Nam Kha.
9.
Le temps retrouvé – Khi con tim vui trở lại
Ngày 12, cái ngày trọng
đại. 9 giờ sáng lấy xe taxi vào lại mái nhà xưa. Người người tấp nập. Hóa ra
mình thuộc loại muộn nhất. Ai cũng tay bắt mặt mừng, tíu tít với đồng bạn. Chú
Trung và chú Lâm (triết gia hiếm hoi của Simon Hòa) đưa mình xuống nhà nguyện.
Ghé qua nhà mặc áo bắt tay với các đấng làm thầy. Gặp lại các cha Liễm (vẫn uy nghi như xưa),
cha Duyên (tóc, râu đã bạc, nhưng vẫn còn tráng kiện, và trông rất nhân từ -
khác với hình ảnh giám thị 45 năm trước), cha Lê Minh Tính, vẫn trẻ trung. Với
mái tóc kim cương, ngài trông giống triết gia hơn là cha quản lý giáo phận. Và
cha bề trên Quảng (nhớ lại tiếng đàn của Thầy), vẫn chả khác gì lần đầu tiên
mình gặp khi ngài còn là thầy giáo giúp xứ Thanh Bình. Và đây là thầy Huân “mập”.
Đã trên bát thập, nhưng Thầy vẫn hồng hào, phốp pháp như xưa. Nhưng có lẽ mắt Thầy
đã mờ, nên thấy ai cũng cười và hỏi han giống nhau. Bình đẳng hình như không phải
là đức tính cao qúy nhất của Thầy khi làm cha giáo La-tinh, nhưng bây giờ thì
Thầy lại rất công bình. Không ai khác biệt. Trong đầu Thầy chắc cái tên Đoàn cũng
giống như bao tên của các chú học trò khác. Mình rất vui thấy Thầy vẫn khoẻ mạnh,
và bộ mặt toát ra sự hạnh phúc của kẻ tu hành. Phải nói là nhờ môn Latinh mà
mình rất “tự tin” khi đến học tại Roma. “Meum nomen Joannes Doan est. Ego sum
ex Dalat dioecese… nunc in primo anno philosophiae”: Đó là câu tự giới thiệu vào ngày đầu tiên
trong lớp Logica của Giáo sư Maximilian Jesernik tại ĐH Urbano tháng 10 năm
1969.
Thánh lễ trang nghiêm với
những bài thánh ca du dương và hùng tráng (toàn giọng nam). Quý thầy em tổ chức
thánh lễ xem ra linh động hơn chúng mình thuở xưa. Tự chủ có khác. Nhớ lại ngày
xưa, cái gì cũng phải xin phép thầy giám thị, cha bề trên, cha giáo nhạc… Nhớ một
lần làm liên đoàn trưởng (1967), với cả liên đoàn đến chúc mừng lễ quan thầy
cha bề trên Trần, vì không hát bài hát do cha Huân “gầy” tập, nên về tới nhà, được
cha bề trên Louis cho một trận quở mắng “chống đối quyền bính” nên thân. Súy nữa
đã bị đuổi “ad bovem”, mất cơ hội trở thành chàng cao-bồi chính hiệu. Bây giờ nằm
mơ vẫn còn toát mồ hôi.
Cả trăm thầy tư tế bước
vào đền thánh. Màu đỏ rực rỡ. Màu của hy sinh. Mầu của phục vụ. Mầu của máu và
nước mắt. Nhưng cũng là mầu của niềm hạnh phúc (theo quan niện của người Tầu). Thánh
Minh và Thánh Hòa, một thầy thuốc một thầy tu từng hy sinh vì Chúa, bây giờ làm
đại diện cho hai giới “thầy tu” và “bố đời”. Cả hai lên một. Đức Anh Võ Đức
Minh gợi lại ký ức ban đầu thời Chi Lăng, rồi thời sau 75 khiến biết bao người
hiểu và hãnh diện với cái lịch sử ngắn gọn, khiêm tốn nhưng không kém vinh
quang của gia đình. Sứ mệnh mà Đức cha Simon-Hòa đặt ra đã được tiếp nối và
phát huy: truyền giáo, sống với giới khó nghèo, nhận người dân tộc làm anh em… Phấn
đấu trong gian nan đã được người kế tiếp phát huy, và công lao của Đức cha Simon
Hòa đã được các đấng kế vị, Đức cha Bartholomeo, Đức Thầy Phêrô tiếp nối và đơm
hoa kết trái. Từ con số trên dưới 60 ngàn giáo dân, Giáo phận hiện đã có tới cả
300.000, mà trogn đó có trên 100.000 anh em dân tộc. Gia đình Minh Hòa bây giờ đã
có nhiều anh em dân tộc trong hàng tư tế. (Nhớ đã có lần kéo cha K’Brel đi ăn…
kem). Và truyền thống này sẽ tiếp tục với sự dẫn dắt của người mục tử từng học
tập tại Đà Lại, Đức cha Vũ Hoàng Chương. Chúng ta có quyền hy vọng, và chúng ta
có quyền vui mừng.
10.
Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng
Cuộc vui cũng sẽ tàn, hợp rồi cũng sẽ tan. Bữa
cơm trưa cũng là bữa tiệc “tạm ly” trong nhà cơm cũ. Dĩ nhiên là chật cứng cho hàng
trăm “quan khách”. Các “chú” tuy đã gìa, nhưng vẫn linh động như xưa: “xóm nhà
lá” chúng ta biến hành lang thành phòng ăn, biến vườn cỏ làm bàn nhậu. Mình kéo
các anh Định, Huấn, Trung ra ngồi quây quần bên hành lang. Không lâu, vì anh
nào cũng bận, nhưng ít nhất có vài ba phút hàn huyên. Tiếc không gặp anh Lợi.
Xem ra mình gần dòng Tên hơn là dòng Chúa Cứu Thế.
Từng lớp, từng nhóm hàn
huyên, chụp hình lưu niệm. Và rồi bịn rịn chia tay. Kẻ lên xe buýt, kẻ vời taxi,
kẻ thì vi vu trên những chiếc xe gắn máy, hưởng khí trời ấm áp buổi trưa. Lớp
Giuse ít qúa. Anh Sinh định mời Giuse
Năm giờ rưỡi chiều, anh
Sinh lái xe tới Hotel du Parc, đưa mình tớ trang trại của chú Chính (không phải
Chính phở), đồng lớp với chú Hỷ “Thánh Thể”. Chú Chính tổ chức bữa ăn “thanh đạm”
(thịt rượu ê hề) mừng sinh nhật cha Hỷ. Khác với bữa tiệc tối ngày 11, bữa ăn tối
nay thân mật nhưng không kém “trang trọng”. Có mặt đức Vít Vồ, thì ai mà chẳng “đạo
mạo”, tuy rằng cái tật “nói leo” của nhóm nhà giáo, lại được cổ võ bởi những
chai rượu vang đỏ (do chú Hỷ mang theo), vẫn đủ để làm bữa cơm nóng hổi. Chú
Khiết, chú Hỷ vốn giảng dạy trong đại chủng viện, còn mình dân tứ chiếng giang
hồ, ăn nói văng mạng, chưa bao giờ biết uốn lưỡi tới
Thay Lời Kết
Cuộc vui chóng tàn, ai
mà chẳng biết. Nhưng như hạt giống, rơi xuống đất “mầu mỡ”, mọc mầm, lớn lên,
trổ bông và đơm trái, buổi gặp gỡ cũng sẽ mọc rễ, trội lên… Và hoa trái thì ai
mà chẳng hy vọng, tuy chưa biết có hay không. Đã đến lúc phải trả lại hy vọng
cho mỗi anh em, và kết thúc bài tâm tình này. Lực bất tận tâm, ý bất tận ngôn,
nhưng thời gian có hạn. Lời nói sau cùng toát ra lòng mong đợi. Một hy vọng
mông lung nhưng vẫn tạo ra dược niềm vui.
Mình trở lại Sài Gòn
trên chuyến xe buýt từ 8 giờ sang tới 16 giờ chiều. 8 giờ dài bằng 2/3 chuyến
bay Sài Gòn – Paris, và gần gấp 3 chuyến bay Sài Gòn-Đài Bắc. Xin ghi lại bức
tranh “vân cẩu” thành hình từ qúa khứ, thôi thúc bởi tương lai, và đương biến đổi
với thực tại.
Chú bé 12 tuổi một mình với chiếc valise mới tinh trên chuyến
xe đi Bảo Lộc. Ngơ ngác, lạ lẫm, sợ sệt, lo âu nhưng đầy chờ đợi.
Cậu thiếu niên 16 tuổi trên chuyến xe về Đà Lạt, nét mặt lo
âu. Không biết sẽ ra sao nếu người của bên kia chặn bắt. Nhưng Chúa quan phòng.
Cậu thiếu niên xác quyết như thế.
Chàng thanh niên về lại Đà Lạt chào từ biệt qúy Thầy trước
khi đi du học. Anh toát mồ hôi, tim đập liên hồi, mắt nhắm lại cầu nguyện mỗi khi
chiếc xe đò bị kiểm soát. Nhưng chàng ta biết được là tai sẽ qua nạn sẽ khỏi. Tương
lai mình không phải ở nơi đây.
Người đàn ông tóc lơ thơ ngã mầu nửa trắng nửa xám, chứng
nhân của tuổi đời đã cao, trên chuyén xe từ Đà Lạt xuống Sài Gòn sau 43 năm. Không
lo âu, chẳng sợ hãi, nhưng mong đợi còm cõi và đầy tiếc nuối. Ray rứt, bất lực, hối tiếc. “Lực bất tòng tâm”hay “Mưu sự tại nhân thành
sự tại thiên” chỉ là những câu nói tự bào chữa thiếu hiệu qủa. Chỉ còn lại hy vọng.
Hy vọng là món qùa tuyệt vời nhất mà Chúa ban cho nhân loại.
Có lẽ mỗi người Simon Hòa chúng ta đi theo một qúa trình tương
tự: ngơ ngác, lo âu, sợ hãi, trưởng thành, và hy vọng trong sự quan phòng của
Chúa. Simon Hòa đã sống, đương phấn đấu, và không đánh mất niềm tin vào tương
lai – Câu nói của Caesar (47 BC)”Veni, vidi, vinci” xin đổi thành “Venimus,
vidimus, in spe vivimus”! Nào chúng ta cùng đến, chúng ta cùng thấy, và chúng
ta sống mãi trong niềm hy vọng.
Ad
multos annos – Simon Hòa mater mea! Chúc mừng Sinh Nhật thứ
Đài Bắc, 12.01.2013; Hoàn tất, Budapest 06.2013
[1] ‘Ad bovem” là “về chăn bò”. “Thuật ngữ chỉ những học sinh nào bị “loại” khỏi Simon Hòa. Câu chuyện của một kỹ sư nguyên tử làm việc ở Bỉ. Cựu Simon Hòa chính cống. Cuối thập niên 1990, anh trở lại Đà Lạt, vào Tòa Giám Mục thăm viếng qúy thầy giáo cũ. Gặp thầy Nhượng đương chăm sóc hoa trong khuôn vườn trước toà Giám Mục. Qùy, tên chàng kỹ sư tóc đương đổi mầu, lớp Phanxicô 1, hỏi thầy Louis: “Cha Bề trên có nhận ra con không?” – “Õ, anh làai vậy nhỉ? Tôi không nhận ra”. Chàng kỹ sư lễ phép: “Dạ, thưa cha, con là Qùy đây”. “Qùy nào nhỉ?”, Thầy ngước mắt nhìn anh. “Dạ, con là người bị cha cho về “ad bovem” khi mới lên Đa Thiện đó cha”. Thầy Louis, vẫn như xưa: “Ồ, tôi đuổi nhiều chú qúa, làm sao nhớ được”. Đây chỉ là câu chuyện truyền tai giữa các cựu Simon Hòa. Mình chưa gặp chú Qùy nên không biết thực hư. Cũng quên hỏi lại thầy Nhượng. Bây giờ thì qúa muộn. Chú Qùy thì đã bỏ ngành nguyên tử về nghiên cứu “hạt nhân” cho Chúa; còn thầy Louis thì chắc là đương bận việc giúp thánh Phêrô kiểm tra, phân loại “ơn kêu gọi” của các Thánh trên thiên đường. Không biết có thánh nào bị Thầy cho “ad bovem” không nhỉ.