CHÚA NHẬT
2 THƯỜNG NIÊN B
CHÚA GỌI
CON NGƯỜI HỢP TÁC
+++
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc hôm nay đều nói đến ơn gọi.
Chúa kêu gọi mọi người và từng người một : Chúa đã gọi Samuel làm tiên tri, Chúa
đã gọi các tông đồ đi theo Chúa để rao giảng Tin mừng, và qua lời khuyên nhủ của
thánh Phaolô tông đồ, Chúa kêu gọi mọi tín hữu hãy tránh xa thói dâm ô, hãy giữ
thân xác cho trong sạch để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải đáp trả lại tiếng Chúa gọi
như Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa:
”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang
lắng nghe”, và tìm gặp Chúa :”Hãy đến
mà xem” để theo Chúa :”Hãy theo Ta”.
Sau khi đã theo Chúa, chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho những
người khác như ông Anrê đã làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 1Sm 3,3b-10.19.
Theo tác giả sách này, Samuel được Thiên
Chúa gọi làm tiên tri ngay từ nhỏ và thuộc loại tiên tri đầu tiên. Lúc ấy
Samuel là cậu bé giúp lễ, hầu việc Chúa tại đền thờ Silô bên cạnh thầy cả Hêli
già nua, và chính cậu sẽ thay thế vai trò của Hêli.
Bài đọc 1 cho biết : một đêm cậu
Samuel đang ngủ bên cạnh hòm Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi cậu 3 lần. Lần nào
cậu cũng tưởng thầy Hêli gọi và đã đến trình diện. Nhưng sau cùng, thầy Hêli cho
biết đó là tiếng Chúa gọi và Samuel đã mau mắn thưa lại với Chúa như thầy Hêli đã
dạy :”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa
đang lắng nghe”. Thế là Chúa gọi Samuel làm thủ lãnh dân Do thái thay thế
cho thầy cả Hêli.
+. Bài đọc 2 : 1 Cr 6,13-15,
17-20.
Côrintô là một đô thị hỗn tạp. Nằm trên
trục lộ giao thông, nó là nơi tấp nập để trao đổi hàng hoá, tư tưởng và cả thân
xác nữa... Cuộc sống phóng túng, sắc dục được coi như là tự do và tự nhiên. Vì
thế, thánh Phaolô cảnh giác những độc giả của Ngài. Ngài dạy họ rằng đối với những
Kitô hữu đã trở nên thân thể của Chúa Kitô do phép rửa tội, họ không được làm ô
uế thân thể họ vì họ đã được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Những lời căn dặn của thánh Phaolôâ vẫn
không mất tính cách thời sự của nó:
- Thân xác con người là đền thờ của Chúa
Thánh Thần.
- Thân xác đã được cứu chuộc bằng máu
của Đức Kitô.
- Vì thế, chúng ta không được dùng thân
xác để phạm tội dâm ô, nhưng phải dùng nó để
tôn vinh Thiên Chúa.
+. Bài Tin mừng : Ga 1,35-42.
Khi Gioan Tẩy giả đang đứng ở bờ sông
Giorđan giảng đạo và làm phép rửa, trông thấy Đức Giêsu đi qua, ông đã chỉ tay
vào Chúa Giêsu giới thiệu cho hai môn đệ của ông là Anrê và Gioan :”Đây là con chiên Thiên Chúa”, kiểu nói đó
có nghĩa Đức Giêsu là Đấng Messia. Nghe nói thế, Anrê và Gioan đã đi theo Đức
Giêsu, đến xem chỗ ở của Ngài và ở lại đàm đạo với Ngài một ngày. Thế là từ môn
đệ của Gioan, hai ông đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu.
Sau đó, Anrê lại giới thiệu Đức Giêsu
cho em mình là Simon. Chúa cũng đã nhận Simon làm môn đệ và còn đổi tên ông là
Kêpha, nghĩa là đá, cho ta đoán được trước vai trò tương lai của ông.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Lời
gọi và đáp trả
I. LẮNG NGHE TIẾNG
CHÚA GỌI.
1. Phải biết lắng nghe.
Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta mọi nơi
mọi lúc, vì thế tâm trí chúng ta cần phải tập trung mới nghe được tiếng nói của
Chúa. Ngài nói với chúng ta trong sự thinh lặng, trong sự kín đáo, trong tâm hồn
tĩnh lặng không để cho ngoại cảnh làm xáo trộn tâm hồn.
Chúa đã gọi Samuel trong đêm thanh vắng
và Samuel đã nghe ra được tiếng Chúa nên đã mau mắn thưa :”Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Nếu ta đang bận rộn về những nỗi lo vật chất,
si mê những của phù du, đầy những dục vọng, thì ta sẽ không nghe được tiếng Chúa
gọi. Tiếng nói của chúng lớn quá làm át cả tiếng Chúa vì Chúa nói nhỏ nhẹ, âm
thầm, phải có đôi tai thính của tâm hồn mới có thể nghe thấy.
Truyện : Dòng suối vọng từ xa.
Một nhà thám hiểm nọ, lạc mất giữa sa
mạc, đi từ đụn cát này sang cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu
cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ, chân ông vấp
phải một cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi trên gốc cây, ông không còn đủ sức để đứng
lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và ông cũng không còn chút hy vọng sống
sót nào.
Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm
bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc : bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình
lình, ông ngẩng đầu lên, trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng
nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng
lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức : đó là tiếng róc
rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết, ông định
hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố
gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối.
(Cử
hành phụng vụ Chúa nhật, tr 109)
Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào,
khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa. Có
thinh lặng từ cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa
trong từng giây phút của cuộc sống.
2. Phải tìm gặp gỡ Chúa.
Chúng ta tin rằng Chúa ở khắp nơi mà
chẳng ở nơi nào cả, nhưng nếu chúng ta tìm thì sẽ gặp được Ngài. Thực ra, Ngài đang
ở giữa chúng ta, cùng đi với chúng ta, nhưng chỉ có người thiện chí mới nhận ra
sự hiện diện của Ngài.
Hãy tìm gặp gỡ Chúa như ba tông đồ Anrê,
Gioan và Phêrô. Rõ ràng đây là cuộc gặp gỡ tuyệt vời bởi vì rất nhiều năm sau,
khi Gioan viết Tin mừng, ông vẫn còn nhớ chính xác thời giờ lúc đó :”Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (nghĩa là
khoảng 4 giờ chiều). Ngày nay chúng ta không thể gặp Ngài một cách cụ thể như
ba tông đồ xưa, nhưng chúng ta có thể tìm gặp Ngài trong các biến cố xẩy ra từng
ngày : lời khuyên của một người bạn, của một người khôn ngoan, của một đoạn Thánh
kinh, một sự thử thách, một sự thất bại, một tư tưởng đột xuất nào đó, đều là
những dấu chỉ của Thiên Chúa, lời kêu gọi của Chúa Kitô.
Truyện : Thánh Phanxicô Borgia.
Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử
tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến
chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác
nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào
dòng Tên, trở nên vị thánh. Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói :”Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”!
Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.
Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường
trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Ngài đi ngang qua giữa
chúng ta, như xưa Ngài đãõ “đi ngang qua”
giữa các môn đệ bên bờ sông Giorđan.
Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không
bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Ngài chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê
hoặc dụ dỗ người nào. Nguời ta vẫn có thể
đi sát bên Ngài mà không hay biết, vẫn có thể thấy Ngài mà không buồn nhìn
theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của
ai đó thì thầm bên tai “Đây là chiên Thiên Chúa”. Tuy nhiên chỉ có người nào biết
tìm kiếm và khát khao chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể
lay động và lắng nghe (Fiches dominicales B, tr 66).
II. ĐÁP TRẢ TIẾNG CHÚA
GỌI.
Trong đêm tối, Chúa đã gọi Samuel và
muốn ông làm tiên tri và thay thế vai trò của thầy cả Hêli, Samuel đã mau mắn đáp
trả lời mời gọi ấy :”Lạy Chúa, xin hãy phán
vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Đáp
lại tiếng gọi của Chúa đòi phải có sự can đảm và liều mạng vì nhiều lúc Chúa
trao cho ta sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, đau khổ, gian nan thử thách, có khi
phải hy sinh cả mạng sống nữa. Sự đáp trả lại tiếng gọi của Chúa nơi Abraham đã
nói lên đức tin của ông và nói lên ông đã tỏ ra can đảm thế nào trước tiếng gọi
của Chúa.
Truyện
: Thomas Merton.
Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi,
năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những
sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia, khi đang ở trong một khách sạn,
tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến
nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton qùi gối
xuống và cầu nguyện :”Lạy Chúa, từ trước
tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay
bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin
Ngài hãy kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy
nhụa của đời tôi hiện tại”. Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện.
Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó, ông đi tu dòng
Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.
Phải có thiện chí đi tìm Chúa trong cuộc
sống. Mặc dầu Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, muốn làm gì cũng được, nhưng
Ngài không thích làm một mình, mà muốn kêu mời con người chúng ta cùng làm với
Ngài. Thánh Augustinô đã viết :”Khi tạo dựng con,Chúa không cần hỏi ý con.
Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần sự hợp tác của con”. Cứ nỗ lục tìm Chúa
thì sẽ gặp được Ngài vì Chúa đã nói :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy”.
Vậy nếu ta đi tìm Chúa mà Chúa lại không muốn cho chúng ta gặp được Ngài sao? Điều đó hoàn toàn
mâu thuẫn. Và khi đã gặp được Ngài ta phải tin theo.
Truyện : Phim Ben Hur.
Nhiều người đã được xem cuốn phim Ben
Hur, một cuốn phim hoành tráng. Nội dung câu chuyện rút trong tiểu thuyết nhan đề
Ben Hur của đại tướng Lew Wallace.
Cuốn sách thành hình có lẽ do một sự
ngẫu nhiên. Hai sĩ quan cao cấp, là bạn thân với nhau gặp nhau trên một chuyến
xe lửa. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, hai ông cùng giống nhau trong
quan niệm vô thần. Đó là đại tướng Lew
Wallace và đại tá Robert Ingersoll. Nhất là đại tá Robert Ingersoll người vô thần
nổi tiếng ở Mỹ quốc.
Trong câu chuyện hai ông đề cập đến vấn
đề tôn giáo, vấn đề vai trò Chúa Giêsu trong tôn giáo. Một người nói :Tôi rất bất
bình khi người ta dị đoan mê tín mà đem thần thánh hóa con người Giêsu lịch sử,
và coi như là con của Thượng đế.
Rốt cuộc, vị đại tướng đề nghị : Tôi
thấy nên có một người nào đứng ra viết một bộ tiểu thuyết về con người Giêsu bằng
xương bằng thịt thực sự. – Thưa đại tướng, tôi rất tán thành ý kiến ấy và đại tướng
nên đảm nhận việc này.
Đại tướng ưng nhận và bắt đầu tìm tài liệu nghiên cứu. Ông bỏ ra
khá nhiều thì giờ và công phu để nghiên cứu kỹ lưỡng về đời sống Chúa Giêsu. Ông
cố gắng chứng minh Chúa Giêsu chỉ là người chứ không phải thần thánh hay con Thượng
Đế gì hết.
Sau cùng, bộ tiểu thuyết được tung ra
cho dân chúng, sách bán chạy như tôm tươi, vào số cuốn sách bán chạy nhất. Người
ta đã đem câu chuyện đóng thành phim và cuốn phim thu hút nhiều khán giả nhất.
Nhưng một điều đặc biệt đáng chú ý là
trong khi lao công khổ cực để khám phá sự thật thì đại tướng Wallace đã tìm thấy
chân lý. Chân lý đảo lộn quan niệm cả cuộc đời của vị đại tướng đó là: Chúa Giêsu không phải chỉ là người không mà
Ngài còn là Con Thiên Chúa nữa.
Đại tướng Wallace đã trở thành môn đệ
của Chúa vậy.
Wallace đã thành tâm tìm hiểu Chúa nên
đã tìm thấy sự thật. Đây cũng là thiện chí tối thiểu Chúa đòi để gặp được Chúa
vậy.
(Trần văn Khả, Phúc
âm Chúa nhật năm B, tr 139)
III. GIỚI THIỆU CHÚA
CHO NGƯỜI KHÁC.
Chúng ta đã được hân hạnh biết Chúa và
tin theo Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Nếu Chúa
Giêsu đã dạy :”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không” thì
chúng ta cũng phải chia sẻ hồng ân ấy cho người khác để họ tin theo Chúa mà được
hưởng nhờ ơn cứu độ.
Hôm nay Anrê giới thiệu Phêrô em mình
cho Chúa Giêsu :”Chúng tôi đã gặp Đức
Messia”(Ga 1,41). Rồi dẫn em mình đến
gặp Chúa Giêsu. Anrê là người luôn đứng ra giới thiệu người khác cho Chúa Giêsu.
Trong Tin mừng, ba lần nhắc đến Anrê, là ba lần ông dẫn người khác đến với Chúa
Giêsu : ở đây ông dẫn Phêrô đến với Chúa, thứ đến ông dẫn em bé có 5 chiếc bánh
và 2 con cá nhỏ, cuối cùng ông đưa những người Hy lạp thắc mắc đến với Chúa.
Anrê rất vui đưa được người khác đến với Chúa. Ông nổi bật như là một người chỉ
có mong muốn là chia sẻ vinh quang, ông là người có tâm tình truyền giáo. Sau
khi chính mình đã được ở gần Chúa, ông dành trọn đời mình để dẫn đưa người khác
bước vào tình yêu thương đó.
Khi Anrê đưa Phêrô đến với Chúa Giêsu,
Ngài nhìn ông, đó là một cái nhìn tập trung chăm chú, chẳng những thấy mặt bên
ngoài mà còn đọc được cả tâm trí bên trong nữa.
Khi nhìn Simon, tên của ông lúc bấy giờ, Ngài bảo :”Ngươi là Simon, ngươi sẽ được gọi là Kê-pha “(nghĩa là đá). Khi một
người có mối liên hệ mới đối với Chúa, cuộc đời người ấy như được bắt đầu lại, trở
thành một người mới, nên cần một tên mới...
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Chúa
Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Phêrô đá tảng của Hội thánh. Nếu Anrê
không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có
phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi trong Thánh kinh.
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta
xem xét kỹ lưỡng lý do tại sao chúng ta còn miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức
tin của mình với kẻ khác ? Nếu chúng ta tin Phúc âm là Tin mừng và nếu chúng ta
tin Đức Giêsu là kho báu to lớn nhất mà con người có thể chiếm hữu, thì tại sao
chúng ta lại miễn cưỡng không muốn chia sẻ đức tin của mình với con cái chúng
ta, với bạn bè chúng ta và với những kẻ mà chúng ta biết đang tìm kiếm một niềm
tin ?
Chúng ta có nhiều cách giới thiệu Chúa
cho người khác, tùy theo sáng kiến mà Chúa soi sáng cho mỗi người. Nhưng giới
thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là bằng
chính đời sống gương mẫu, đời sống tốt đẹp của chúng ta. Thực tế đã chứng minh
: nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy đời sống gương mẫu, bác ái của các tín hữu.
Chính nếp sống đạo đức, thánh thiện, ngay thẳng, chân thành của chúng ta là một
tấm gương trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn nhiều bài
giảng hùng hồn.
Người ta thường nói :”Trăm nghe không bằng một thấy”, chính cái
hình ảnh tốt đẹp in sâu vào tâm hồn người ta, khiến họ phải suy nghĩ và có một
sức lôi kéo mãnh liệt khiến họ không thể chống lại được. Vì thế, người ta cũng
thường nói :
Lời nói như gió lung lay,
Gương
bày như tay lôi kéo.
Truyện : Gương sáng của một Linh mục.
Chuyện kể rằng : một hôm, trên đường
trở về nhà xứ, một linh mục kia vừa đi vừa cầm trí đọc kinh. Có hai thanh niên
cùng về chung đường. Khi đã đi cách linh mục kia một đoạn khá xa, họ gặp một người
hành khất ngồi bên lề đường giơ tay xin họ. Một anh cho ông ấy mấy đồng lẻ
trong khi anh kia nảy ra một ý tưởng, anh nói với bạn :
- Ông cha hồi nãy thế nào cũng đi qua đây.
Tôi cá với anh là ông ta chẳng bố thí
cho người ăn mày này đâu, chúng ta thử rình xem.
Cả hai trốn vào bụi cây gần đó. Ít phút
sau, vị linh mục kia đi tới. Ngài đứng lại nhìn người ăn mày, đưa tay lục hết túi
trên túi dưới, rồi nói với người ăn mày :
- Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc tôi
chẳng có đồng nào giúp ông.
Hai thanh niên nghe thấy thế thì khúc
khích cười nói :
- Anh thấy chưa, tôi nói có sai đâu.
Lúc ấy người ăn mày lại tiếp tục nài
xin. Vị linh mục nhìn người ăn mày rồi bảo ông ta :
- Ông đợi tôi một chút.
Ngài nhìn trước nhìn sau, rồi chui vào
bụi cây gần đó, loay hoay một hồi rồi bước ra, tay cầm một chiếc quần dài đã cuộn
gọn lại. Ngài đưa cho người ăn mày và ân cần nói :
- Đây, ông bạn cầm đỡ chiếc quần này,
tuy nó hơi cũ lại đang mặc dở dang, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn.
Nhớ đừng kể cho ai nghe đấy. Thôi tôi đi nhé.
Hôm sau, có hai người khách lạ đến bấm
chuông nhà xứ rất sớm và xin xưng tội. Vị Linh mục nhận ngồi toà giải tội ngay.
Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được hai thanh niên thuật lại, lòng hối hận, dạ
chân thành ăn năn. Vị Linh mục ngẩn ngơ thốt lên :
- Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một
chiếc quần cũ thôi mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn. Tạ ơn Chúa.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện cùng
Chúa:
“Lạy Chúa, xin dạy cho mỗi người
trong chúng con biết rằng ngay ở đây, trên trái đất này, Chúa chỉ biết nhờ bàn
tay chúng con để giúp đỡ những người thiếu thốn ; Chúa chỉ biết dùng trái tim
chúng con để ôm ấp những kẻ cô đơn ; Chúa chỉ nhờ giọng nói của chúng con để
chia sẻ sứ điệp loan báo cuộc sống, nỗi khổ đau và cái chết Chúa đã chịu vì chúng
con”.
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết
rằng ở nơi đây, trên trái đất này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là
tiếng nói của Chúa, và chúng con là trái tim của Chúa” (M. Link).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt