CHÚA
NHẬT 3 PHỤC SINH C
HÃY
CHĂN DẮT CHIÊN CỦA THẦY
+++
A. DẪN NHẬP
Sau khi sống lại, Đức Giêsu tiếp tục
hiện ra với các môn đệ. Việc hiện ra với các môn đệ đều nhằm một mục đích nào đó
chứ không phải cứ hiện ra khơi khơi, thích hiện ra thì hiện. Theo bài Tin mừng
hôm nay, đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ sau ngày Phục sinh.
Trong khi các môn đệ còn ở trong tâm trạng hoang mang, vui buồn lẫn lộn thì Chúa
hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông, trao ban cho các ông một sứ vụ mới :
trao quyền lãnh đạo cho Phêrô và trao cho các ông sứ mạng đi truyền giáo.
Qua phép lạ mẻ lưới lạ lùng, Đức Giêsu
muốn báo cho các ông biết trước Giáo hội của Ngài sẽ được phổ biến khắp nơi dưới
quyền lãnh đạo của Phêrô và không quyền lực nào có thể làm cho tan rã vì Giáo hội
của Ngài được xây trên nền tảng vững chắc. Vì danh Chúa, các ông phải mạnh dạn
tuyên xưng đức tin và bảo vệ Giáo hội :”Phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm”(Cv 5,29).
Bài học mà Chúa dạy các môn đệ hôm nay
là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài, chứ không dựa vào
khả năng chuyên môn của mình. Trong việc thi hành chương trình cứu dộ, Chúa dùng
các ông như những dụng cụ tầm thường nhưng dụng cụ ấy lại hữu hiệu khi biết vâng
theo ý Chúa và nhiệt tình cộng tác dưới sự hướng dẫn của Ngài.
Ngoài ra, qua bí tích rửa tội, chúng
ta đã trở nên những thành viên trong Giáo hội, mỗi người đều được gọi để sống và
làm chứng cho đức tin trong gia đình, xóm làng và cộng đồng, tùy theo khả năng
và hoàn cảnh của từng người. Hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được
nhậïn thức rằng Chúa hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời mặc
dù chúng ta không cảm thấy.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Cv 5,27-32.40-41.
Sau khi chữa lành mộât số bệnh nhân, các
Tông đồ bị các vị thượng tế và hội đồng cố vấn bắt giam, nhưng được giải thoát
một cách lạ lùng. Phêrô cùng các Tông đồ khác lại xuất hiện và rao giảng cho dân
chúng trong Đền thờ. Các ngài lại bị điệu đến Thượng hội đồng để hạch hỏi và xét
xử. Phêrô trả lời cách quả quyết :”Phải vâng
lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Lời biện hộ của Phêrô có thể làm cho ngài bị kết án tử hình, nhưng
Gamaliel, một tiến sĩ luật, đã can thiệp và các ngài được tha sau khi bị đánh đòn.
Nhưng vị thủ lãnh các tông đồ luôn kiên
quyết bảo vệ quyền tự do của các Kitô hữu đối với quyền bính đời này, không gì
có thể ngăn cản các ngài giảng dạy và loan báo Tin mừng về Đức Giêsu ; các ngài
vui mừng vì được coi là xứng đáng bị khổ nhục vì danh Đức Kitô, xác tín về đời
sống chứng nhân của mình và trở nên mạnh mẽ vì Chúa Thánh Thần luôn ở với các
ngài.
+ Bài
đọc 2 : Kh 5,11-14.
Thánh Gioan kết thúc thị kiến thứ nhất
về Con Chiên Thiên Chúa, tượng trưng cho Đức Giêsu, bằng một nghi lễ phụng vụ,
trong đó vũ trụ hiệp cùng các thiên thần
ngợi khen tung hô quyền năng vô hạn của Con Chiên đã bị sát tế. Hình ảnh Con
Chiên cũng gợi lên con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông.
Bị sát tế, nhưng từ nay đã trỗi dậy, Con Chiên được vô số các thiên thần tung hô
như vị vua và Thiên Chúa : “Xin chúc tụng,
ngợi khen, tôn vinh và bái phục Đấng ngự trên ngai và Con Chiên đến muôn thở muôn
đời”.
+ Bài
Tin mừng : Ga 21,1-19.
Đoạn cuối của Tin mừng Gioan tập trung
kể lại câu chuyện thánh Phêrô nhận lãnh chức vụ thủ lãnh tối cao của các Tông đồ.
Lúc đó các môn đệ gồm 7 người sinh sống tại Galilê, nơi lao động thường xuyên của
các ông…. Sau mẻ cá lạ lùng, Đức Giêsu Phục sinh trao cho thánh Phêrô chức vụ
chủ chăn. Vì thánh Phêrô đã ba lần chối Thầy nên Đức Giêsu cũng ba lần đòi ông
tuyên xưng lòng yêu thương. Ba lần hỏi như thế để khẳng định một tình yêu mạnh
mẽ, dứt khoát (bù lại ba lần chối) để Đức Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm thật
cao quí và cũng thật nặng nề :”Lãnh đạo toàn thể Giáo hội” mà vị lãnh tụ tiên
khởi vềà sau đã phảiõ trả giá bằng cuộc tử đạo (+64) thời Néron để nên giống Thầy
mình.
Địa vị tối thượng trao cho Phêrô là một
thể chế chứng tỏ tình yêu của Đức Kitô đối với loài người, và nếu vị chủ chăn
thật sự yêu thương đoàn chiên của mình thì dấu chỉ tình yêu của Đức Kitô đối vớ
nhân loại sẽ được bầy tỏ cho thế giới.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sứ
mệnh làm chứng cho Chúa.
I. MỘT MẺ LƯỚI LẠ LÙNG.
1. Tâm trạng của các môn đệ.
Sau khi Đức Giêsu chịu tử nạn, các môn
đệ tỏ ra hoang mang lúng túng, có ông tỏ ra thất vọng trước ý đồ của mình như
hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng sau khi Đức Giêsu hiện ra với họ thì tâm trạng
của họ lúc này trở nên khó tả : buồn vì cuộc tử nạn của Thầy mình, vui vì thấy
Thầy mình đã sống lại, nhưng vẫn còn hoang mang vì sự hiện diện của Thầy sống lại
không còn thường xuyên như xưa nữa, mà có lúc ẩn lúc hiện. Trong cái tâm trạng
vui buồn và hoang mang lẫn lộn đó, các ông bèn rủ nhau đi đánh cá cho khuây khỏa
và để kiếm gì để ăn chứ ! Các ông theo Phêrô, xuống thuyền đánh cá, nhưng suốt đêm
mà chẳng bắt được con cá nào. Kinh nghiệm đánh cá của Phêrô cũng chẳng giải quyết
được gì.
2. Đức Giêsu hiện ra lần thứ ba.
Trong lúc hiện ra lần thứ nhất với các
môn đệ (Ga 19,23) các ông đều nhận lấy từ nơi Thầy những ơn là : sự bình an, sứ
mạng, ơn Thánh Thần, ơn “tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha”(Ga 19,23). Phêrô và
Gioan không có vai trò gì trổi vượt. Lần hiện ra thứ hai với các môn đệ (Ga
19,24-29), Tôma chứ không phải là Phêrô hoặc Gioan nhận được sự chú ý của Thầy.
Chính Tôma, tuyên xưng :”Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con”! mà Thầy Giêsu đã chúc lành cho những người không thấy
mà tin”(Ga 19,29). Rồi đến lần hiện ra thứ ba với các môn đệ (Ga 21,1-19), xem
ra hai ông Phêrô và Gioan tìm kiếm điều hai ông đã đạt được. Các ông được thấy
Thầy các ông trong sự sống và hoạt động hoàn toàn mới : tất cả qui về tập thể mà
các ông là thành viên và các ông chính là người đứng đầu điều khiển mọi sự
trong hậu trường.
3. Một mẻ lưới kỷ lục.
Sáng sớm, Đức Giêsu đứng trên bãi biển,
các ông từ thuyền trông thấy, nhưng không nhận ra Ngài. Ngài hỏi các ông câu hỏi thường thức như người ta quen hỏi các người đi đánh cá :
Có kiếm được gì ăn không ? Các ông đồng thanh trả lời :”Thưa không”. Ngài bảo họ
:”Cứ thả lưới bên phải thuyền thì sẽ có cá đấy”. Họ thả lưới, và kết quả là mẻ
lưới của các ông đầy cá. Lúc đó các ông mới nhận ra Ngài. Và do đó, các ông nhận
thức rằng mẻ lưới đầy cá là do quyền năng của Chúa, chứ không do sự chuyên nghiệp
của các ông vì các ông đã thất bại suốt
một đêm trắng.
Các ông kéo lưới vào bờ và đếm được
153 con cá lớn mà lưới vẫn không rách. Lưới không rách là hình ảnh Giáo hội, sự
hiệp nhất không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,47-50), những con cá là hình ảnh
giáo hữu đã chinh phục cho Chúa bằng lời
giảng dạy của các Tông đồ.
Còn về vấn đề 153 con cá lớn, theo thánh
Giêrônimô, một học giả Thánh Kinh, thì con số 153 có nghĩa là các nhà chuyên khảo cứu về cá lúc bấy giờ biết
được 153 loại cá khác nhau. Như vậy thì 153 có nghĩa là các tông đồ bắt được rất
nhiều cá chứ không nhất thiết là 153
con. Nếu con số 153 mang ý nghĩ như vậy, thì Chúa muốn các Tông đồ phải đi rao
giảng Tin mừng cứu độ cho cả thế giới và như vậy con số 153 là biểu tượng con số
đông đảo những tân tòng, những người lãnh nhận đức tin sau này.
II. PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH
GIÁO HỘI.
1. Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh.
Để qui tụ mọi dân tộc, mọi giống nòi về một Giáo hội duy nhất, điều
Đức Giêsu muốn là phải có một người dẫn
dắt đoàn chiên như lòng Chúa ước mong, người đó không ai khác, lại chính là Phêrô
– vị Tông đồ có không ít những lỗi lầm. Chúng ta thấy là, để được Đấng Phục
sinh long trọng xác nhận tư cách là thủ lãnh để lãnh nhận sứ mệnh tông đồ đặc
biệt thì tiên quyết không phải là “văn hay chữ tốt”, “tài đức
vẹn toàn” mà chỉ được gói gọn trong hai chữ “yêu mến” mà thôi :”Phêrô, con có yêu mến Thầy không” ? Thật ra đây chính là điều kiện nền tảng
để có thể chu toàn sứ mệnh mà Chúa trao phó, bởi không có lòng yêu mến, công việc
của người mục tử cũng như của tất cả chúng ta
dù thành công cũng chỉ điểm tô, đánh bóng cho cá nhân của mình; trái lại,
với lòng yêu mến, chúng ta sẽ thấy bất cứ công việc nào cũng mang đến một giá
trị cao cả không chỉ cho chính đương sự mà còn mưu ích cho nhiều người.
Chính vì thế, Đức Giêsu
đã phải hỏi Phêrô đến ba lần – có thể là sự gợi nhớ ba lần ông chối Thầy mà cũng có thể theo thói
quen thời đó, để chính thức ủy thác cho ông nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên. Với
nhiệm vụ này, Phêrô đã chu toàn. Phêrô đã đi theo Thầy của mình trong quãng đời
còn lại và đã lấy cái chết của mình để làm chứng về Thầy. Phêrô đã tham dự vào
sứ mệnh của Thầy tức là tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa, đồng thời
hiến dâng mạng sống mình cho anh em, cho đoàn chiên mà hôm nay chính Đức Giêsu -
Đấng Phục sinh, đã trao phó cho ngài.
2. Con người thủ lãnh Phêrô.
*
Yêu Chúa tận tình.
Ai cũng biết tính tình của Phêrô là nóng nảy, vụt chạc, nghĩ sao nói
vậy. Liên hệ đến tính tình nóng nảy của ông là sự cứng đầu của ông. Trong bài đọc
1 trích từ sách Công vụ tông đồ, chúng ta thấy rõ một hình ảnh khác của Phêrô,
không phải chỉ là một Phêrô đã ăn năn hối cải, nhưng còn là một con người mới,
một tạo vật mới, rất can trường. Ôâng rất cứng đầu vì tình yêu Chúa Kitô. Khi
Phêrô bị điệu ra trước thầy cả thượng phẩm để bị tra hỏi vì đã rao giảng nhân
danh Đức Giêsu, Phêrô không chút sợ hãi mà tuyên xưng rằng:”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người
phàm”(Cv 5,29). Sau này Phêrô đã xin được đóng đinh vào thập giá, nhưng để
khác với Thầy vì cảm thấy mình không xứng đáng, Phêrô đã xin treo ngược đầu xuống.
Có tình yêu nào sánh được với ngọn lửa tình yêu của Phêrô dành cho Đức Giêsu không
?
* Yếu đuối và gan dạ.
Chúng ta thấy trong con người Phêrô có
pha trộn sự yếu đuối và can đảm, gan dạ. Ôâng yếu đuối vì đã chối Chúa nhưng ông
trở nên gan dạ sau khi đã chỗi dậy.Tôi tin chắc rằng Phêrô không bao giờ quên sự
kiện ông đã chối Đức Giêsu. Tuy nhiên, tôi hồ nghi không biết lỗi lầm này có ảnh
hưởng ông hay không, giống như một số người đã bị ám ảnh vì những tội lỗi của họ.Ôâng
đã học được một bài học vĩ đại từ sự vấp ngã của mình. Ôâng nhận ra rằng ông không
được can đảm giống như ông đã nghĩ về mình. Khi học được một bài học, thì đó là
một điều tốt đẹp và bổ ích hơn, so với khi được dạy một bài học. Một khi chúng
ta rút ra được kinh nghiệm từ một lần vấp ngã, thì lúc nhắc lại sự vấp ngã này,
thì chắc chắn càng khơi gợi lòng biết ơn, hơn là tự buộc tội bản thân mình.
Và Phêrô cũng học hỏi được một sự thật
tuyệt vời về Đức Giêsu. Ôâng nhận ra rằng bất chấp những lần ông chối Ngài, Ngài
vẫn cứ yêu thương ông. Chính tình yêu đó đã dẫn đưa Phêrô quay trở lại với cuộc
đời. Thật là một kinh nghiệm tuyệt vời, khi vẫn được yêu thương ngay trong tình
trạng yếu đuối và tội lỗi. Khi người ta đươc yêu thương vì sự tốt lành của mình,
thì điều đó không có gì là vĩ đại cả. Nhưng khi được yêu thương trong tình trạng
xấu xa, đó mới quả thật là một tình yêu bao la. Và đó là một ân sủng
Phêrô có sự gan dạ, để lại chỗi dậy
sau khi vấp ngã. Chúng ta có thể hình dung ra rằng ông là một nhà lãnh đạo rất
tốt, một nhà lãnh đạo có ý thức về sự yếu đuối của bản thân mình. Kinh nghiệm này
đã loại trừ nơi ông thói tự hào và tin tưởng một cách mù quáng vào những năng
lực riêng của bản thân, đồng thời, làm cho ông có khả năng thấu hiểu được sự yếu
đuối của người khác (McCarthy).
3. Phêrô can đảm thi hành sứ mệnh.
Sau khi Đức Giêsu về trời, Phêrô sang
Rôma lãnh đạo giáo đoàn và thiết lập tòa thánh ở đó. Phêrô đến Rôma giữa lúc hoàng đế Néron đang
ra tay bách hại các tín hữu Chúa Kitô. Ôâng vua này sai thủ hạ đi đốt nhà dân
chúng sống trong các khu ổ chuột tồi tàn
để xây dựng nhà mới cho khang trang hơn. Khi dân chúng nổi lên chống đối, thì Néron
đổ tội đốt nhà ấy cho các Kitô hữu và ra lệnh bắr bớ những ai theo đạo, kết án
tử hình và xử tử tại khu hí trường ở thủ đô Rôma. Một số khá đông tín hữu đã trở thành miếng mồi ngon cho lũ sư tử đói khát vồ xé, một số khác thì bị chết trong các cuộc thi giác đấu, số còn lại thì bị
lên giàn hỏa thiêu hay bị đóng đinh chân tay vào thập giá… Trước tình thế nguy
hiểm ấy, công đoàn ở Rôma đã khuyên Phêrô cấp thời cải trang chạy trốn khỏi thành.
Nhưng khi ra được ngoài thành, Phêrô gặp
thấy một người mặc áo trắng đang đi ngược chiều vào thành. Ôâng nhận ra đó là Đức
Giêsu, ông lên tiếng hỏi :”Thầy đi đâu”
(Quo vadis) ? Đức Giêsu đáp :”Thầy đi vào
thành Rôma để chịu đóng đinh thêm một lần nữa”. Sau đó, Ngài biến mất. Phêrô
hiểu ý Chúa muốn ông quay vào thành để chịu chết vì danh Chúa, và ông đã làm
theo lời Chúa. Ôâng bị bắt, bị kết án tử hình và bị giam chung với các tín hữu
sắp bị hành hình. Ông đã động viên an ủi họ và giúp họ giữ vững đức tin. Sau cùng,
ông đã lãnh nhận lấy cái chết trên thập giá theo gương Thầy mình.
III. SỨ MỆNH LÀM CHỨNG
CHO CHÚA.
1. Phải biết nhận ra Chúa.
Thật là mâu thuẫn đến độ khó hiểu vì cùng
một Con Người Giêsu đã đến trong thế gian, đã sinh sống trên đất Galilê, đã chịu
khổ hình đến chết và nay đã sống lại, hiện ra nhiều lần với nhiều người đương
thời, thế thì tại sao xưa cũng như nay có kẻ tin người không, kẻ phục người chối
bỏ ? Dĩ nhiên, có sự trái ngược này không
do Chúa không hiện diện khắp mọi nơi, nhưng do nơi cách thức mà con người
sử dụng để tìm kiếm sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói khác đi, ai biết tìm Chúa đúng
cách thì dù Ngài có khuất dạng họ vẫn nhận ra, trái lại kẻ không biết cách tìm
Chúa dù Ngài có hiện ra một bên cũng chẳng thấy được Ngài…
Muốn nhận ra được Chúa hiện diện trong
đời mình, phải có một quả tim nhạy cảm trong tình yêu, một tâm hồn muốn thao thức
tìm Chúa. Nhưng trong thực tế, rất nhiều
người rất hững hờ với sự hiện diện của Chúa. Họ không tìm thấy sự hiện diện của
Chúa là vì họ hững hờ, không muốn tìm ra Chúa.
Truyện : Chỉ vì vô tình.
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm
một ẩn sĩ Aán giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bầy về tình trạng bi đát
của tu viện ông : Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành
hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong
tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hằng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây
giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ leo teo mấy người, cuộc
sống thật là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi ẩn sĩ Aán giáo cho biết nguyên do nào hay
lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng hiện nay. Tu sĩ Aán giáo ôn tồn bảo
:”Các tội đã và đang xẩy ra trong cộng đoàn
đó là tội vô tình”. Và ông giải thích :”Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người
trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Ngài”
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn
hở trở về tu viện. Ôâng tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế
đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát
nhau. Ai là Đấng Cứùu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã
cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với
nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống
và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để
tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn (Trích
trong Món quà Giáng sinh).
2. Làm cho nhiều người trở lại với Chúa.
Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống, Phêrô đứng lên cùng với mười một Tông đồ giảng cho dân chúng một bài rất
hùng hồn (x. Cv 2,14t). Nghe xong bài đó, dân chúng bị cảm kích đến cực độ nhao
nhao hỏi :”Chúng tôi phải làm gì” ?
Phêrô bảo :”Hãy hối cải và mỗi người hãy
chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các ngươi sẽ
được ơn Chúa Thánh Thần”.
Qua bí tích rửa tội, mỗi người công giáo
được gọi để sống và làm chứng cho đức tin trong gia đình, hàng xóm và cộng đồng.
Có nhiều hình thức để làm chứng cho đức tin bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng,
bằng cách sống đức tin, bằng việc từ thiện bác ái, bằng việc rao giảng Tin mừng…
Thiên Chúa hằng hiện diện giữa chúng ta. Chính những khi các Tông đồ cảm thấy
thất đảm sợ hãi sau cuộc tử nạn của Thầy mình, thì Chúa ở giữa họ: Chúa đồng hành
với họ trên đường đi Emmau, Chúa hiện ra
với họ khi họ không bắt được cá. Chúng ta cầu xin Chúa cho ta cảm nghiệm được sự
hiện diện của Chúa và được nhận thức rằng Chúa hiện diện với ta trong mọi hoàn
cảnh của cuộc đời mặc dù ta không cảm thấy.
Truyện : gương bày lôi kéo.
Một cô xướng ngôn viên đài phát thanh ở
tỉnh kia tự nhiên đến xin học đạo với một Linh mục. Nguyên nhân thúc đẩy cô
theo đạo, như cô kể, là nhờ sống gần gia đình công giáo tốt mà cô thấy hấp dẫn
và đánh động : họ sống đầm ấm yên vui, giữ đạo chân thành, thân thiện với hàng
xóm. Gia đình này không những đã tìm được hạnh phúc cho chính họ, cho vợ chồng
con cái an vui, mà còn làm chan hòa hạnh phúc đó sang người lối xóm. Không giảng
đạo mà cụ thể đã lôi kéo người khác đến với Chúa.
3. Phải dựa vào quyền năng Chúa.
Bài học mà Chúa muốn dạy các Tông đồ hôm
nay là các ông phải tùy thuộc vào ơn Chúa và quyền năng của Ngài. Các ông phải
nhận thức rằng dù mình là thuyền chài chuyên nghiệp cũng không nhất thiết bắt được
cá. Cái dụng cụ mà Chúa dùng để thi hành công cuộc cứu độ không tùy thuộc vào tài
năng và sự hiểu biết của con người, nhưng tùy thuộc vào sự cộng tác của loài người
với ơn Chúa. Quyền năng Chúa Phục sinh đã biến đổi các Tông đồ. Trước đó các ông
còn sợ hãi trốn tránh. Bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay ghi lại việc các ông
trả lời công nghị :”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv
5,29). Là chứng nhân, các Tông đồø phải nói lên sứ điệp đã lãnh nhận dù sứ điệp
đó không được hưởng ứng, mà còn bị đe dọa đến tính mạng.
Trong việc chọn Phêrô làm thủ lãnh các
Tông đồ, thủ lãnh Giáo hội, Đứùc Giêsu không dựa vào những điều kiện như “văn
hay chữ tốt” hoặc “tài đức vẹn toàn” mà chỉ dựa theo con người biết “yêu mến” và
tuân theo ý Chúa như những dụng cụ hữu hiệu. Do đó, trong khi tham gia vào
trong công cuộc rao giảng Tin mừng, chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình mà chỉ cậy
dựa vào ơn Chúa như những dụng cụ trung thành.
Trong toán học, chúng ta biết tầm quan
trọng của vị trí con số “không” trong
tương quan với dấu chấm thập phân : số “một”
càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó
càng thấp. Thí dụ : 000.0001.
Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó
càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ
: 1.000.000.
Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa
hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị
chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công
việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Frank Mihalic).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt