Lời giới thiệu
Như tin đã loan, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà
thơ Hàn Mạc Tử đã được các tác giả bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo đánh dấu bằng
buổi gặp gỡ chiều 21-9-2012, đêm thơ nhạc Hàn Mạc Tử tối hôm đó và cuộc hành hương
theo dấu chân Hàn Mạc Tử trong chính ngày 22-9-2012. Để bạn đọc khắp nơi cùng
hiệp thông, chúng tôi xin giới thiệu loạt 7 bài viết:
Bài 1: Có chở trăng về kịp tối nay
Bài 2: Bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo và những
triển vọng
Bài 3: Vài suy tư từ tình bạn của Hàn Mạc Tử
Bài 4: Hành hương kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn
Mạc Tử
Bài 5: Từ vườn thơ đến vườn văn
Bài 6: Cuộc tưởng niệm hướng về tương lai
Bài 7: Vườn thơ đạo nở hoa
Bài 8: Tiến tới một hệ thống phát hành sách đạo
Lm Trăng Thập Tự
CÓ CHỞ TRĂNG VỀ KỊP TỐI
NAY ?
BÀI CHIA SẺ TRONG THÁNH
LỄ KỶ NIỆM 100 NĂM SINH NHẬT THI SĨ HÀN MẶC TỬ[1]
tại TRUNG TÂM THÁNH THỂ THÁNH MẪU GHỀNH RÁNG, CHIỀU 22-9-2012
LM. Giuse
Trương Đình Hiền
Kính
thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Trong
bầu khí ấm cúng, thân thương của Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, thánh lễ dành kỷ
niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Hàn Mặc Tử, một nhà thơ Công Giáo, một vì sao
chói lọi trên vòm trời thi ca Việt Nam thế kỷ 20, quả thật chúng ta thấy gần
gũi dường nào và ấm cũng biết bao :
- Ấm cúng với nhau, bên nhau trong niềm
tin phục sinh - cõi vĩnh hằng và trong đồng cảm văn hóa, văn hóa của thi ca mà
người đón mời và nối kết hôm nay - thi sĩ Hàn Mặc Tử, đang hiện diện cách vô
hình.
- Gần gũi với cõi thiêng liêng, với Đấng Thiên
Chúa yêu thương và toàn năng, một sự gần gũi mà hình như chỉ có ngôn ngữ thi ca
của Hàn Mặc Tử mới diễn đạt cách tài tình và sống động :
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm. (Nguồn Thơm)
Hôm
nay chúng ta tưởng niệm một người đã khuất nhưng trong một "bàn tiệc của
sự sống" ; niềm tin đã nối kết kẻ sống và người đã ra đi trong niềm hoan
vui đoàn tụ và hy vọng phục sinh. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất chí lý khi diễn
tả cảm nhận nầy trong ca khúc "Nối vòng tay lớn" : "Người
chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi". Tôi tin chắc
rằng, nếu thi sĩ Hàn Mặc Tử mà sống lại và hiện diện như chúng ta và với chúng
ta trong bối cảnh nầy, chắc anh đã có một bài thơ khác về cái chết, về sự sống
bên kia sẽ đầy hy vọng, tươi sáng hơn những bài thơ mà anh đã sáng tác khi liên
tưởng tới cái chết của chính mình, một sự hiện hữu của thế giới bên kia mà anh
cảm nhận quá ư cô đơn, đen tối, lạnh lùng :
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?
Ai đem tôi bỏ dưới sông sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết ?
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ? (Những Giọt Lệ)
Hoặc :
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa .
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la ... (Hồn lìa khỏi xác)
Hoặc :
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương Anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn Anh và rửa vết thương tâm (Duyên kỳ
ngộ)
Mà quả thật, hôm nay, trên cõi vĩnh hằng, chắc chắn anh đã
cảm nhận khác rồi.
Đặc
biệt hôm nay, và trong suốt bao tháng năm qua, tưởng nhớ đến anh không chỉ là "bông
phượng nở trong màu huyết" để "Nhỏ
xuống lòng tôi những giọt châu", hay để "nàng tiên mô đến khóc " và hôn Anh và
rửa vết thương tâm" ...mà như nhận xét của Kiều Văn :
“Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp, mọi
trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể đong
được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa bạc mệnh
ấy"
(Trích trong bài khảo luận : "Hàn Mặc Tử Anh là ai ? của Hoàng Vũ Thuật)
Nhưng
cho dù anh thế nào và nhiều người ở đây đã biết về anh ra sao, thì trong ngày
kỷ niệm 100 năm anh mở mắt chào đời, 100 năm anh được Thượng Đế trao ban cuộc
sống làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng phải một lần sơ lượt cuộc
đời và sự nghiệp của anh, như nghĩa cử "đập cổ kính ra tìm lấy
bóng", một cái bóng vĩ đại trên thi đàn Việt Nam và trong vườn thơ
Công Giáo.
Hàn
Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử [2] tên thật là Nguyễn Trọng Trí.
Sinh ngày 22.9.1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc (nay là Đồng
Hới), tỉnh Quảng Bình. Được rửa tội ngày 25.9.1912 tại nhà thờ Tam Tòa với tên
thánh Phanxicô Assisi và 21 năm sau – 1933 - chịu phép Thêm Sức tại nhà thờ
Chính Tòa Qui Nhơn với tên thánh là Phanxicô Xavie.[3] Thân phụ và thân mẫu của thi
sĩ là Vinh Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và Maria Nguyễn thị Duy.
Nhà
thơ Hàn Mạc Tử là người con thứ tư trong một gia đình có 8 anh chị em: anh trai
là Nguyễn Bá Nhân, hai chị là Nguyễn Thị Như Nghĩa, Nguyễn Thị Như Lễ và bốn em
trai là Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn Văn Thảo. Vì là
một nhà nho học, ông Nguyễn Văn Toản đã chọn Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí
Tín) của Ðức Khổng Tử để đặt tên cho các con với ước mong chúng sẽ bước theo
vết chân của các bậc thánh hiền.[4]
Do
hoàn cảnh gia đình, thi sĩ phải di cư và sống nhiều nơi : Sa Kỳ Quảng Ngãi
(1924-1926), Qui Nhơn (1926-1928), Học Pellerin ở Huế (1928-1930), làm công
chức ở Qui Nhơn (1930-1933), sống và viết báo tại Sài Gòn (1934-1936), về lại
Qui Nhơn và tạm trú nhiều nơi khi trỗ bệnh hiểm nghèo (1937-1940). Ngày
20.09.1940 nhập trai phong Qui Hòa với số hiệu bệnh nhân 1134 để được các nữ tu
dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc.
Sau
52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình
săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn
Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ
45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.[5]
Sau
đây là “gia tài văn hóa” của Hàn Mặc Tử :
- Lệ thanh thi
tập
Thơ
- Gái
quê
Thơ
- Nắng
xuân
Giai phẩm
- Đau
thương
Thơ
- Xuân như
ý
Thơ
- Thượng thanh
khí
Thơ
- Cẩm châu
duyên
Thơ
- Duyên kỳ
ngộ
Kịch
- Quần tiên
hội
Kịch
- Chơi giữa mùa
trăng
Thơ văn xuôi
Sau
72 năm từ khi thi sĩ qua đời (1940), đã có không biết bao nhiêu phê bình, đánh
giá , nghiên cứu, mổ xẻ. Nhà phê bình Trần Văn Lý trong tiểu luận văn học tái
bản năm 2006, đã xếp Hàn Mặc Tử là một trong 4 thi sĩ tiêu biểu đáng nhớ nhất
của thế kỷ 20.[6]
Riêng
trong lãnh vực niềm tin và thi ca nơi hàn Mặc Tử, linh mục Trần Quý Thiện đã có
những nhận xét chí lý :
“Hàn Mặc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công
Giáo, một tâm hồn thuấn nhầm Niềm Tin Công Giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng
kinh nguyện, bằng đời sống nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được
những chiều kích mới lạ vượt qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải
qua. Càng đọc thi phẩm bất hủ Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền
nhiệm trong thế giới vô hình. Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong
sứ mệnh trình bày một nền Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu
đời của Á Châu. Ðem tôn giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo
phải chăng Hàn Mạc Tử đã đi đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo Hội Á Châu
đã trình bày. Ðây chính là một vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vì có
một người con đã đóng góp và khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt
Nhưng
có lẽ để tóm kết những gì đặc biệt nhất, thâm sâu nhất, tuyệt vời nhất về giá
trị thi ca nơi Hàn Mặc Tử, cả đạo lẫn đời, nhiều người có thể tâm đắc với nhận
xét của thi sĩ Chế Lan Viên, người bạn và nhà thơ đồng thời với Hàn Mặc Tử : “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường,
mực thước kia biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là
Hàn Mặc Tử”.
Kính
thưa cộng đoàn,
Trong
khung cảnh Phụng Vụ của thánh lễ tưởng niệm hôm nay, đặc biệt, qua gợi ý của
trích đoạn Tin Mừng Luca về “Dụ ngôn người gieo giống”, tôi chỉ xin chia sẻ đôi
điều về người thi sĩ mang danh “thi sĩ của đạo quân Thánh Giá” :
1. Hàn
Mặc Tử : người đã đem hạt giống Lời Chúa, hạt giống đức tin nhập thể vào đời
bằng ngôn ngữ thi ca.
Để
xác định ý nghĩa nầy chúng ta có thể đọc lại chính quan niệm của anh về thơ :
“Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho
người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một
cách say sưa, và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn.
Vì thế, trừ hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa
Trời phải cho ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những
bông hoa rất quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng:
Phải biết tận hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca
ngợi quyền phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc
đê mê, nhưng rất thơm tho tinh sạch…Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải qui
tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người
thường. Với một sứ mệnh của Trời thi sĩ phải biết đem cái tài năng ra ca ngợi
Đấng Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẽ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn
nhận và tận hưởng…” (Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).
Và
phải chăng đó chính dòng chảy bất tận thiên thu của công trình “hội nhập hạt
giống Lời Chúa” mà ngay từ thuở hồng hoang Cựu ước, các tác giá Thánh Kinh thể
hiện với “Diễm Tình Ca”, với “Thánh Vịnh”, với những hình ảnh thơ mộng nơi
Isaia, tình tứ nơi Hô-sê hay huyền ảo, mầu nhiệm với Ê-giê-ki-en, Đa-ni-en…
Chỉ
một đôi câu trong bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh”, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cho chúng
ta cái cảm nhận thật sống động về mầu nhiệm Nhập Thể-Giáng Sinh :
Hỡi Sứ
Thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người
xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có
nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có
nghe náo động cả muôn trờỉ
Người có
nghe thơ mầu nhiệm ra đời…(Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và
đó chính cuộc gặp gỡ, giao duyên của những con người đã từng có những cảm nhận
sâu xa về đức tin, về Lời Chúa để có thể “bật ra” những diễn cảm thâm thúy, hay
ho mà lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua các chứng nhân như Giáo phụ Augustinô,
các nhà thần bí như Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá...[8]
Riêng
Hội Thánh Việt
2. Hàn
Mặc Tử : Người đã biến cuộc đời thành mảnh đất tốt để hạt giống đức tin sinh
hoa kết trái phong phú.
Với
chỉ 28 năm trong cuộc đời tại thế mà trong đó là lao đao lận đận trong bể khổ
bến mê, thất bại trong đường tình, đớn đau vì bệnh tật. Thế nhưng, Hàn Mặc Tử
không vì thế mà để cuộc đời mình chìm đắm trong thất vọng nảo nề, thui chột trong
đầu hàng bế tắc. Anh đã sống hết mình và đã biến mình thành một “hạt giống chịu
mục nát với thời gian”, một “mảnh đất tốt để trỗ sinh nhiều hoa trái”. Anh đã
nói :
“Tôi đã
sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng
hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn
đến gần đứt cả Sự Sống”. (Lời tựa của tập Thơ Điên 1938)
Trong
ý nghĩa đó, quả Hàn Mặc Tử đã gia nhập những thế hệ nhân chứng mà thi sĩ đã tự
nhận đó là “đạo quân Thánh giá” :
"Đây
thi sĩ của đạo quân Thánh giá,
Nửa đêm nay
vùng dậy để tung hô,
Để sớt
cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến
yêu là lộc của lời thơ". (Nguồn Thơm)
Kính
thưa quý vị, trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, trong niềm tin vào sự Phục Sinh
của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng, Hàn Mặc Tử đang cùng chúng ta tham dự bàn
Tiệc Tạ Ơn nầy, đang cùng nhau dâng lời ca ngợi tạ ơn Chúa, tôn vinh Đức Mẹ
Đồng Trinh, lời tôn vinh ca ngợi vượt qua không gian và thời gian mà ngày xưa
chính thi sĩ đã từng cảm nhận :
Ngọc như
ý vô tri còn biết cả
Huống chi
tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa
nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu
cùng hết khắp ba ngàn thế giớị..
Sáng
nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm
dường bao cho miệng lưỡi khong khen. (Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và
có lẽ, nói về Hàn Mặc Tử sẽ không bao giờ ta nói hết, chia sẻ về người thi sĩ
mang tiếng “Điên” nầy sẽ không bao giờ cạn. Bởi chính anh ta cũng chỉ là một
nổi khát vọng vô bờ như hình ảnh con chim phượng hoàng bay cao, bay cao lên mãi
như lời thơ anh :
Phượng
Trì! Phượng Trì!Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi
bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi
bay đến bao giờ mới đậu.
Và như thế, để tưởng niệm 100 năm ngày
sinh của Hàn Mặc Tử hôm nay, chúng ta cũng chỉ như một khách sang sông mượn
chiếc thuyền chở trăng về quá khứ cho kịp tối nay :
Thuyền
ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có chở trăng
về kịp tối nay? (Đây thôn Vỹ Dạ)
Để
nói với Hàn Mặc Tử rằng : Yên tâm đi thi sĩ, chúng tôi ở đây, bây giờ vẫn dành
cho anh một tình cảm đậm đà, đậm đà như tim anh đã từng rung lên khi về thăm
thôn Vỹ :
Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết
tình ai có đậm đà? (Đây thôn Vỹ Dạ)
Và
như thế, chúng ta đã sẵn sàng cùng với anh tiến dâng cuộc đời làm hy lễ. Amen.
[1] Trong bài chia sẻ nầy, xin được dùng tên “Hàn Mặc Tử”, là bút hiệu sau cùng của thi sĩ Nguyễn Trọng Trí và cũng là tên được xã hội và công luận đang sử dụng (Sách vở, báo chí, bài viết, tên đường…). Để rộng đường dư luận về hai bút danh “Mạc” và “Mặc” xin tham khao 2 tài liệu sau : Tài liệu 1. Bài cuối trong loạt bài “Hàn Mặc Tử : Nhà thơ có số phận kỳ lạ” của Trần Việt Thu”. Nguồn http://vietbao.vn/tp/Han-Mac-Tu. tài liệu 2 : Tác phẩm : Có một vườn thơ đạo, tập 1. Phần ghi chú từ trang 21-22 của nhà thơ Trăng Thập Tự.
[3] Là một gia đình công giáo, theo luật Giáo Hội, sau khi sinh được 3 ngày, ngày 25 tháng 9, 1912, bé Nguyễn Trọng Trí được cha mẹ đưa đến nhà thờ Giáo xứ Tam Tòa, (thành lập năm 1885, sau biến cố Văn Thân), tỉnh Ðồng Hới, để được linh mục Phó xứ Giuse Trần Phan rửa tội, lấy tên thánh là Phanxicô Assisi, người đỡ đầu là ông Phanxicô Thông Hài, sổ rửa tội giáo xứ ghi số 437.- Nhưng mãi đến năm 1933, khi Hàn Mặc Tử lên 21 tuổi, mới được lãnh Thêm Sức tại nhà thờ Chánh Tòa Quy Nhơn với tên thánh Thêm Sức là Phanxicô Xaviê. “Tưởng niệm nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử của LM. Nguyễn Quý Thiện (16.10.2011) – Nguồn : Diễn đàn CLCGK (http://clcgk.forumotion.net)
[4] Theo bài viết “Tưởng niệm nhà thơ Công Giáo Hàn Mặc Tử của LM. Nguyễn Quý Thiện (16.10.2011) – Nguồn : Diễn đàn CLCGK (http://clcgk.forumotion.net)
[5] Đọc thêm tài liệu đã dẫn.
[6]
Trần Văn Lý.
[7] Có một vườn thơ đạo, Tập 1, trang 33-34
[8] Xin xem phần 9 : Từ góc nhìn huyền học Cát Minh của Trăng Thập Tự trong tác phẩm “Có một vườn thơ đạo”, tập 1. Từ trang 455-526.
[9]
Xem tác phẩm “Ở thượng nguồn thi ca Công Giáo Việt