Với bầu khí
hiệp thông với các đẳng linh hồn trong tháng 11, loạt bài bất ngờ được mang một
tên mới: “50 năm thờ cúng Ông Bà” để nhấn mạnh hơn tới cuộc kỷ niệm “Plane
compertum est” đang đến. Tuy nhiên, các bài chia sẻ vẫn tiếp tục được đánh số
thứ tự nối theo loạt bài trước để việc loan báo Tin mừng cho Dòng họ và việc
hội nhập Đạo Hiếu vào Tin mừng là một.
Sau khi đưa
lên mạng bài chia sẻ số 16, tôi nhận được bài viết của tác giả Mạc Tường tựa đề
“Như gấm thêm hoa”, trùng khít với những điều tôi đang viết. Do đó, đề tài chia
sẻ này xin được dành để giới thiệu cùng quí độc giả suy tư của anh Mạc Tường.
Thấm
thoát đã gần nửa thế kỷ từ ngày Tòa Thánh chấp thuận cho giáo dân
Việt Nam được thờ cúng ông bà, tổ tiên theo cung cách cổ truyền, miễn
là đừng thực hiện những hành vi mang tính dị đoan. Giáo Hội Công
giáo Việt Nam cũng đã cổ võ khuyến khích thực hiện việc thờ cúng
ông bà tổ tiên theo tinh thần trên. Riêng Giáo Phận Quy Nhơn, gần đây các
bài giáo huấn số 32 và 34 của lịch phụng vụ năm C được rao đọc trước
các thánh lễ Chúa Nhật đã nhấn mạnh tính quan trọng và cấp thiết
trong việc thiết lập bàn thờ gia tiên, thực hiện các nghi thức lễ
bái, nhất là những dịp giỗ, chạp, lễ tết, để nhờ đó có thể sớm xóa
tan được thành kiến “theo đạo bỏ ông bà”.
Sau gần
nửa thế kỷ, được khuyến khích hòa nhập với cộng đồng dân tộc, hầu
xóa sạch những hiểu lầm và hàn gắn những khoảng cách không đáng có
giữa người Công giáo và anh chị em lương dân, thử hỏi chúng ta đã hòa
nhập đến đâu?
Thật đau
lòng và đáng lo ngại! Hiện nay, trong các gia đình Công giáo, một số đã có
bàn thờ gia tiên, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bàn thờ được bài trí một
cách đàng hoàng, nghiêm cẩn như ở các gia đình lương dân?
Bước vào
nhà người Công giáo, trên bàn thờ Chúa cũng như trên bàn thờ gia tiên,
thật khó mà tìm thấy một cặp nến màu đỏ như ở các gia đình lương
dân. Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải dùng nến trắng trong khi nến
đỏ đã được dùng rất lâu ở Việt Nam trước khi có những cây nến màu
trắng lạ mắt có nguồn gốc từ Châu Âu?
Trong
những dịp lễ lớn chúng ta dâng lên bàn thờ Thiên Chúa, bàn thờ gia
tiên những thức ăn, thức uống, bánh mứt, rượu bia, nước ngọt… Nhưng
liệu chúng ta có quen với việc dâng lên một mâm cơm cúng như anh chị em
lương dân quen làm không?
Khi trong
gia đình Công giáo có tang sự, chúng ta thường rước đoàn kèn Tây
(“rất tốn kém và thổi những bản nhạc đời vô tội vạ”, như một Cha
sở đã nói). Chúng ta có đủ can
đảm rước một đoàn nhạc bát âm, với những nhạc cụ dân tộc (chỉ diễn
những bản nhạc thuộc về tang lễ) như anh chị em lương dân thường làm
không? Còn bao nhiêu điều tưởng chừng như nhỏ nhặt, thực ra lại là hố
sâu ngăn cách, khó bề gần gũi giữa người Công giáo và anh chị em
lương dân.
Nếu chúng
ta không quyết liệt về nguồn, không triệt để canh tân, loại bỏ những
cách biệt, thiết nghĩ việc xóa định kiến “theo đạo bỏ ông bà” chắc
chắn còn xa, xa vời lắm!
Mong rằng
tất cả nọi người Công giáo Việt Nam ý thức được tầm quan trọng và
cơ hội mà Hội Thánh đã trao cho chúng ta. Không lý gì chỉ vì màu của
cây nến; không lý gì chỉ vì chút ngại ngần trước mâm cơm cúng; không
lý gì chỉ vì không quen với dàn nhạc bát âm, và chỉ vì những tiểu tiết
tương tự mà công việc truyền giáo cứ phải mãi mãi bị ngáng trở!
Những hố
sâu, rào cản cần được dỡ bỏ, san bằng để mọi người Việt Nam dễ cảm
nhận Đạo Công giáo phù hợp với tấm lòng, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán của dân tộc Việt Nam. Được như thế, trong một viễn cảnh không xa ta
có thể thấy hình ảnh các thợ gặt rộn rã với những bó lúa vàng
trĩu nặng trên tay trên khắp cánh đồng truyền giáo Việt Nam bao la bát
ngát. Và ngày ấy Giáo Hội Công giáo Việt Nam sẽ “như gấm thêm hoa”.
MẠC
TƯỜNG
Thông cáo 1965 kết thúc: “Yêu cầu quý cha
phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo này không những trong các
nhà thờ mỗi khi có dịp, không những cho anh em giáo hữu mà cho cả người ngoài
Công giáo. Các vị phụ trách Công giáo Tiến hành cũng phải lấy thông cáo này làm
đề tài học tập cho các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện”.
Nói chung, các cha đều có trình bày trên tòa giảng, cả trong những
dịp tang lễ và hôn lễ, trong các lớp dự bị hôn nhân. Cũng có những người muốn thúc
đẩy cho việc tái hội nhập vào văn hóa dân tộc tiến nhanh nhưng hình như không
mấy ai hưởng ứng. Bài viết của anh Mạc
Tường tiêu biểu cho nỗi âu lo thao thức của những người quan tâm tới việc khai
mở con đường loan Tin mừng qua việc thờ cúng Tổ Tiên. Phải nói rằng, sau 50
năm, nếu để khai báo thành quả, hầu như chúng ta chưa làm được gì mấy. Lắm
người bảo việc áp dụng huấn thị “Plane compertum est” cách nửa vời càng dễ gây
phản tác dụng vì dễ khiến người lương nghĩ rằng người Công giáo không thật lòng
trong việc này.
Sau những năm tích cực nhập cuộc tôi nghĩ sự trì trệ có hai lý do.
Ngoài lý do tự nhiên là thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể, hẳn còn có một lý do
siêu nhiên khá bất ngờ là linh tính đức tin của người tín hữu chưa cho phép họ
mạnh dạn tiến xa. Ở chia sẻ sau, tôi sẽ nói tới lý do siêu nhiên, còn ở đây xin
trình bày lý do tự nhiên.
Thật ra, cho tới nay chưa có tài liệu hướng dẫn thực hành chính
thức nào đi xa hơn những nguyên tắc trong hai bản thông cáo 1965 và 1974. Nhiều
giáo dân muốn áp dụng nhưng có lẽ chỉ biết cách mơ hồ, không rõ phải làm gì
trong thực tế.
Đi tìm hiểu cách thực hành của anh chị em lương dân, tôi sớm nhận
ra rằng các truyền thống đạo hiếu được duy trì và phổ cập đồng bộ trong dân
chúng có lẽ là do sự góp phần rất lớn của một quyển sách mỏng tên là “Thọ Mai
gia lễ”. Cũng có một vài quyển gia lễ khác nhưng có lẽ quyển Thọ Mai thịnh hành
nhất và có ảnh hưởng rộng nhất. Nay nếu muốn cho việc áp dụng thông cáo của Hội
Đồng Giám Mục đi sâu vào tận các gia đình, cũng cần có một quyển “Gia lễ Công
giáo” với những chỉ dẫn cặn kẽ.
Đang khi tôi suy nghĩ tìm cách thực hiện thì Đức Cha Phaolô Nguyễn
Văn Hòa, giám mục Nha Trang, sau khi dự Thượng hội đồng Giám mục về gia đình,
đã giao cho tôi dịch tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục. Tôi dịch xong và
trình cho ngài thì ngài bảo làm một sưu tập những kinh theo tinh thần mới để
dùng cho các gia đình. Yêu cầu ấy của ngài cho tôi hiểu ra rằng quyển “Gia lễ
Công giáo” không gì khác hơn là một quyển “Kinh nguyện Gia đình”, với những đầy
đủ các chỉ dẫn cần thiết cho các gia đình, trong đó có những chỉ dẫn về tang
lễ, kỵ giỗ và việc thờ cúng Ông Bà. Tôi đúc kết một bản thảo, đem in lụa dùng
thử rồi sửa đi sửa lại. Khoảng năm 1986 thì có được ấn bản mới. Đức Cha Phaolô
duyệt qua và cho phép dùng. Sau đó cuối năm 1997 ngài cho imprimatur và Tòa
Giám mục Nha Trang đã chính thức xin phép xuất bản và in lại nhiều lần.
Quyển sách gồm hai phần. Phần đầu là sưu tập một số các kinh cũ,
kinh mới, bài hát, thánh vịnh, lời nguyện. Phần hai là những chương trình giờ
kinh khác nhau trong gia đình. Trong đó, mục thứ năm là “Những dịp đặc biệt
trong gia đình”, với những hướng dẫn về cúng lễ gia tiên, dọn tất niên, tưởng
nhớ gia tiên dịp tết nguyên đán, lễ giao thừa, lễ minh niên, lễ bổn mạng một
người trong gia đình, giáp năm ngày rửa tội, thôi nôi hoặc sinh nhật, nghi thức
lễ cưới ở gia đình, giáp năm ngày cưới, lễ giỗ và làm phép nhà. Mục thứ sáu là
chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho người hấp hối. Mục thứ bảy là “Cầu nguyện
cho tín hữu đã qua đời”, với những hướng dẫn về viếng thi hài, canh thức cầu
nguyện tại tang gia, nhập quan, động quan và di quan, trước khi hạ huyệt, nghi
thức hoả táng và nghi thức tiếp nhận di cốt về gia đình. Mỗi mục nhỏ ấy đều gồm
những chỉ dẫn thực hành (giống như các “lời bảo” ngày xưa) và những kinh hoặc
bài hát thích hợp (lấy ở phần đầu của quyển sách). Xin nêu mục nhỏ thứ nhất làm
minh họa.
Thiên Chúa đã tự xưng là Thiên Chúa của các tổ phụ. Ngài không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống (Mt 22,32). Bên
kia cái chết các bậc tiền nhân nào đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang
sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm
các thánh thông công. Do đó, khi nhớ đến gia tiên tổ phụ, người công giáo không
làm một sự thờ phượng ở ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng thật ra là để nhờ
đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên
trời dưới đất (Ep 3,14). Đàng khác, khi nhớ đến các tổ tiên theo huyết thống,
người công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin.
Người Việt
Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Mà đã có bàn thờ
thì nhớ thắp hương, đừng để hương tàn khói lạnh.
Hình thức sơ đẳng nhất của lễ gia tiên là mỗi sớm, mỗi tối, mỗi lần
ra khỏi nhà và mỗi lần đi đâu về, ta thắp một cây nhang cắm lên bàn thờ và
thinh lặng cầu nguyện một phút.
Ngày tết ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những
chi tiết trái đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, chỉ
cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp các cháu nhỏ học được lòng biết ơn tổ
tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá.
Khi cúng lễ, cần nhắc cho các cháu nhỏ nhớ: Đức tin công giáo dạy
ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm
bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi.
Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình
chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ.
Chương trình đơn giản như sau:
1. Thắp hương đèn trên bàn thờ
2. Dấu thánh giá
3. Kinh Lạy Cha
4. Tạ ơn Chúa:
Xướng: Ta hãy tạ ơn Thiên Chúa đã đưa các bậc tổ tiên
ta về với Ngài.
Đáp:
A. Chúa trọn bề nhân
nghĩa với tổ tiên
Và nhớ mãi lời xưa giao
ước
B. Chúa đã thề với tổ phụ Ab-ra-ham
Rằng sẽ giải phóng ta
khỏi địch thù
5. Cầu cho các tín hữu
đã qua đời:
X. Ta hãy cầu nguyện cho các linh hồn ở luyện
ngục
Đ.
A. Chúng con cậy vì
Danh Chúa nhân từ
Cho các đẳng linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi
B. Hằng xem thấy mặt
Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
6. Lời nguyện với tổ
tiên (do vị chủ lễ đọc):
Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên ông bà nội
ngoại hai bên, cùng các bác, các chú, thím, cô dì, cậu mợ và mọi anh chị em đã
qua đời.
Hôm nay nhân ngày ... (nhân ngày đầu năm, cuối
năm, hoặc nhân một ngày một dịp nào khác), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ
lòng tưởng nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình
an mạnh khoẻ, được hoà thuận êm ấm và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa
muốn ...
(Vị chủ lễ vái 4 vái. Những người hiện diện tuần tự tiến lên vái
mỗi người 4 vái và cầu nguyện riêng. Ai không lên vái cũng không sao. Đến đây
kết thúc trong thinh lặng hoặc cũng có thể hát một bài tạ ơn để kết thúc).
Đó là mục thứ 18 trong phần II của quyển “Kinh Nguyện Gia Đình” và
cũng là mở đầu cho phần “Gia lễ Công giáo”. Có thể một số độc giả đã từng sử
dụng quyển sách và biết phần hướng dẫn ở các mục khác tương tự. Quý độc giả nào
chưa biết quyển sách, xin tải xuống từ địa chỉ:
http://gpquinhon.org/qn/download/tu-duc/Kinh-nguyen-gia-dinh/
Đóng góp của tôi trong quyển sách chỉ mới là một cố gắng cá nhân.
Tôi đã cố gắng bám sát những trường hợp có thật và đa dạng để xây dựng các lời
chỉ dẫn cho đúng thực tế. Dù vậy, còn rất nhiều thiếu sót.
Đã hơn 25 năm. Cả những bài hát trong đó đã nhiều bài bị đào thải.
Nay chuẩn bị mừng 50 năm áp dụng huấn thị Plane compertum est, Ban Mục vụ Văn
hóa Giáo phận Qui Nhơn đang duyệt lại toàn bộ để phát hành với tựa đề mới là
SÁCH GIA LỄ CÔNG GIÁO.
Trong viễn tượng loan Tin mừng rộng lớn và lâu dài, các chỉ dẫn
thực hành này cần được chỉnh sửa thật chu đáo. Do đó, tôi tha thiết ước mong
quý độc giả chịu khó tải quyển sách xuống, xem kỹ mục thứ năm và thứ bảy của
phần II và đóng góp ý kiến. Quý vị nào muốn góp ý trên bản thảo mới, chúng tôi
sẽ gửi file vi tính của bản thảo. Chúng tôi mong nhận được các góp ý trước ngày
15-12 để có thể sớm hoàn tất việc biên tập.
Xin liên lạc về: tinmunggiesu@gmail.com
Xin chân thành cám ơn.
Xin được trình bày lý do thứ hai, lý do
siêu nhiên, khiến việc áp dụng huấn thị
Plane compertum est trong 50 năm qua tiến rất chậm. Suy cho kỹ, chúng ta sẽ
phải cảm tạ Thiên Chúa vô cùng vì sự an bài kỳ diệu Ngài đã làm cho Giáo hội
tại Việt Nam trong lãnh vực này, nơi cuộc tranh luận 1610-1742 xưa kia cũng như
nơi sự trì trệ 50 năm qua. Mãi đến hôm nay, cả những linh mục đã đọc kỹ hai
thông cáo 1965 và 1974 vẫn thấy ngập ngừng liệu có nên khuyến khích giáo dân
bày đồ cúng lên bàn thờ với các thức ăn như xôi, chè, thịt, cá. Sự ngập ngừng
ấy không phải không có lý do. Vậy đâu là trở ngại và đâu là cách giải quyết?
Sau hơn 20 năm tích cực nhập cuộc, nghe
ngóng, xem xét, suy tư và sáng tạo thể nghiệm, tôi nhận ra rằng nơi sự dè dặt ấy
có ơn của Chúa Thánh Thần rất rõ. Sự dè dặt ấy có thể nói là một minh họa sống
động hiếm hoi cho trường hợp thứ ba của ơn vô ngộ là cảm thức đức tin của Dân
Chúa mà cha Phi Khanh Vương Đình Khởi gọi dịch rất chính xác là “linh tính đức
tin” của các tín hữu (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 889). Mặc dù
hai thông cáo 1965 và 1974 mở rộng cửa, cả các linh mục lẫn giáo dân đều cảm
thấy có cái gì đó chưa ổn. Người ta linh cảm rằng ở đây, giữa ý nghĩa dấu chỉ
tượng trưng và những ngộ nhận dẫn đến mê tín, ranh giới thật mong manh. Đang
khi có những tác giả mới như Khải Chính Phạm Kim Thư (Nguyên tắc cúng, khấn,
vái và lạy – dactrung.net) diễn giải các chi tiết một cách trong sáng, gần gũi
với cách nhìn của Giáo hội Công giáo thì các sách nghi lễ hiện hành kết thúc
các văn tế với lời mời tiền nhân về “phối hưởng” các lễ phẩm (ví dụ trong quyển
“Tập Văn tế mẫu Cúng Gia Tiên”, Thái Vy biên soạn, Nxb Thanh Hóa,2007). Các bài
văn tế hiện dùng thường dịch lại sát các bản văn xưa và cũng mang ý nghĩa mời
người xưa về hưởng các lễ phẩm. Nói tắt, vẫn còn một tỉ lệ lớn bà con lương dân
nghĩ rằng Ông Bà Tổ Tiên về hưởng của cúng.
Có nhìn vào thực tế ấy, ta mới hiểu được
tính nghiêm túc của cuộc tranh luận kéo dài cả 130 năm từ sau cái chết của cha
Matthieu Ricci (1610) và của huấn thị Ex quo singulari. Thực tế ấy cũng giúp
chúng ta thông cảm với lập trường dứt khoát và cứng rắn của anh em Tin lành
trong vấn đề “ăn của cúng”.
Những chi tiết văn hóa khi hội nhập vào
cuộc sống người Kitô hữu phải được mặc lấy một ý nghĩa mới, nhưng đó là ý nghĩa
nào? Ở đây, không thể xuề xòa hay nhập nhằng thỏa hiệp.
Thông cáo 1965 nói: “nếu cần, thì phải giải thích chủ ý của mình
một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời”, và thông cáo 1974 nói nếu “sợ có sự
hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông cảm…”.
Thật ra đó là việc vượt quá khả năng người giáo dân bình thường. Ngay cả khi họ
vẫn nắm vững và biết cách giải thích, khung cảnh thực tế của sự việc thường rất
tế nhị, những giải thích như thế sẽ thiếu tự nhiên, lắm khi còn vô tình gây
những căng thẳng không đáng có.
Để giúp vượt khỏi những ngập ngừng dè dặt
kia cũng như những trường hợp khó xử này, cần có một quyển gia lễ hướng dẫn cặn
kẽ cho việc áp dụng huấn thị Plane compertum est, để qua đó cả người giáo lẫn
người lương đều có thể hiểu cách dễ dàng là Giáo hội muốn dạy gì. Phiên bản
“Kinh nguyện gia đình” 1986 của chúng tôi cũng chỉ mới nêu một số đề xuất mang
tính dò dẫm. Sau hơn 25 năm thể nghiệm, chúng tôi thấy vấn đề khá rõ. Với phiên
bản “Sách Gia lễ Công giáo” sắp ấn hành, chúng tôi xin được mạnh dạn đề xuất
một bản văn “nghi thức cúng giỗ” như sau. Rất mong được độc giả bốn phương,
Công giáo cũng như ngoài Công giáo, góp ý hoàn chỉnh. Xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com
Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa là để dâng lời cảm tạ Chúa đã
giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa là để cầu xin ơn giải
thoát cho những người đang cần được thanh luyện, quen gọi là cầu hồn. Đối với
những người mới qua đời, ta nên nhấn mạnh tới việc cầu hồn, còn đối với những
người đã qua đời rất lâu năm, ta có thể chú trọng hơn tới việc dâng lời cảm tạ Chúa
nhân từ đã thứ tha và giải thoát. Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thế
giới lệ thuộc không gian và thời gian, còn tiền nhân đã khuất đang thuộc về một
thế giới vượt ngoài không gian và thời gian, do đó lấy ý niệm “rồi” và “chưa” theo
cách ta quen suy nghĩ ở đời này đem áp dụng cho thế giới đời sau không khỏi có
phần khập khiễng. Nói đến đời sau là ta đang chạm đến những mầu nhiệm vượt khỏi
mọi ý niệm cân đo đong đếm. Cũng nên nhớ rằng ngay cả những vị đã chết mà không
chịu phép thánh tẩy, ta vẫn có thể tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền
năng đã có cách cứu vớt họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô.
Cũng đừng quên rằng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang
được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện
với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã
về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu
hơn.
Bữa ăn giỗ là để phát huy tình cảm gia đình và gia tộc, lắm khi là
để giúp vượt qua những bất hòa bất thuận trong cuộc sống, để ai nấy lại thấy ấm
tình hiệp thông và hiệp nhất. Do đó, từ chương trình đến cách sắp xếp chỗ ngồi,
cần làm sao để cả người lớn và trẻ con đều tham dự tích cực, chan hoà trong
tình hiệp nhất thân mật. Nên chú trọng hơn tới nội bộ gia tộc. Nếu mời vài
người khách thì nên liệu sao để sự hiện diện của họ không ngăn cản sự thân mật
giữa mọi người trong gia tộc.
Trên bàn thờ, có thể dùng nến hồng (ngụ ý xin Chúa ban phúc lành
cho mọi người có mặt và vắng mặt) hoặc nến trắng (ngụ ý nói lên lòng tin, cậy
và yêu mến Chúa). Cũng có thể dọn mâm cơm trước bàn thờ theo truyền thống dân
tộc. Về nghi thức cầu nguyện, có thể theo một trong ba hình thức sau đây.
A. Hình thức thứ nhất:
- Gia chủ nói đôi lời tuyên bố lý do: giỗ ai, mấy năm, vài nét về
người đã khuất (nếu là giỗ chung thì nói chung về những tiền bối liên hệ) và
mời mọi người cầu nguyện
- Gia chủ ghi dấu thánh giá, xướng kinh Lạy Cha,
- Có thể đọc vài câu Lời Chúa
- Hát một bài
- Lời nguyện trên của cúng:
“Lạy Cha, xin chúc lành
cho những của ăn Cha đã rộng lòng ban cho chúng con mà chúng con dùng để bày tỏ
niềm hiệp thông thân thương và quý mến đối với người thân yêu đã khuất. Chúng
con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.”
- Lời nguyện lễ giỗ:
Lạy Chúa, chúng con xin
ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng
hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã
qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm
được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con
cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
(Có thể thêm: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải
giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa
trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng
con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con.)
X. Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các linh hồn được
lên chốn nghỉ ngơi.
Đ. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
B. Hình thức thứ hai
Chủ sự tuyên bố lý do rồi nguyện kinh trước bữa ăn hoặc hát một bài
xin Chúa chúc lành rồi mời mọi người dùng bữa.
C. Hình thức thứ ba
Nếu cử hành nghi thức cúng giỗ theo truyền thống dân tộc thì thực
hiện theo thứ tự sau đây
1. CHUẨN BỊ ĐỒ CÚNG
Sau khi dọn thức ăn, mọi người tề tựu nghiêm trang, chủ lễ cầu
nguyện trên của cúng.
2. LỜI NGUYỆN TRÊN CỦA CÚNG
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Lạy Cha là Chúa Trời Đất, là Cội Nguồn duy nhất và là Hạnh Phúc
đích thật của muôn loài. Chúng con cảm tạ Cha đã ban những lương thực này để
nuôi sống chúng con như đã nuôi sống những người đi trước chúng con. Giờ đây
những người đã khuất không còn cần đến những lương thực này nữa nhưng trước khi
chúng con cùng nhau dùng bữa tưởng nhớ (người thân của chúng con/họ/các
ngài), chúng con muốn bày tỏ niềm kính
trọng, mến thương và hiệp thông qua dấu hiệu thân thương của bữa ăn. Nhờ đó,
chúng con cảm thấy người đã khuất vẫn hết sức gần gũi với chúng con. Nếu (người
thân của chúng con/họ/các ngài) còn vướng mắc những lỗi lầm thiếu sót, cúi xin
Cha thương sớm hoàn tất cuộc thanh tẩy để (người thân của chúng con/họ/các
ngài) sớm được hưởng Tiệc vui đời đời. Cúi xin Cha cũng thương cho tất cả chúng
con đây một ngày kia được chung hưởng niềm vui Nước Trời với Cha và với những
người thân yêu đã đi trước chúng con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Con Cha,
là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, là Đấng hằng sống hằng trị cùng Cha và Chúa
Thánh Thần đến muôn thở muôn đời. Amen.
(Nếu có sẵn nước thánh, chủ lễ nói những lời sau đây trước khi rảy:
- Thưa anh chị em, chúng ta cảm ta Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy để
tái sinh chúng ta làm con cái Chúa. Nước thánh chúng ta dùng đây là nước tự
nhiên nhưng chúng ta đã xin Chúa chúc lành để thành dấu hiệu nhắc chúng ta nhớ
đến ơn làm con cái Chúa qua bí tích Thánh Tẩy. Có những người chưa được lãnh
nhận bí tích Thánh Tẩy bằng nước, nhưng lòng đã hướng về Chúa và đã cố gắng
sống ngay chính theo lương tâm, thì cũng được Thiên Chúa thanh tẩy trong máu
Chúa Kitô. Với nước thánh này rảy trên của cúng, chúng ta cảm tạ Chúa đã cho
tiền nhân được làm người và hơn nữa, còn được làm con cái Thiên Chúa và được
chung phần hạnh phúc đời đời với Chúa.
(chủ sự rảy nước thánh trên của cúng)
Mọi người cùng đọc chung Kinh Lạy Cha.
3. VĂN KHẤN
(Văn khấn đọc trước bàn thờ, nên viết ra giấy
thật rõ ràng, bỏ những chữ thừa, để khi đọc không lẫn lộn, mất nghiêm túc)
VĂN KHẤN VỚI MỘT NGƯỜI ĐÃ KHUẤT TRONG NGÀY GIỖ
RIÊNG
Ông (Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em) kính mến (hay
thân mến),
Hôm nay là ngày giỗ (đầy năm) của Ông (Bà/Cha/
Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/ Mợ/Anh/Chị/Em). Tất cả chúng con (chúng tôi) quy tụ
về đây để tưởng nhớ.
Chúng con (chúng tôi) không quên được hình ảnh của
(Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/ Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị hoặc Em). Dù nay còn phải
buồn sầu xa cách vì sự chết, nhưng mai kia chúng ta sẽ lại sum vầy bên nhau
trong cõi lòng của Thiên Chúa Tình Yêu. Là con cái Chúa, chúng ta biết rằng sự
sống thay đổi chứ không mất đi và thời lưu ngụ dưới trần chấm dứt là để nhường
chỗ cho hạnh phúc vĩnh cửu trên trời. Chúng con (chúng tôi) họp nhau cầu xin
Thiên Chúa là Cha, nhờ công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Ngài, sớm hoàn
tất những thanh luyện cần thiết cho (Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/ Anh/Chị/Em)
và đưa về hưởng phúc muôn đời. Chúng con (chúng tôi) cũng xin
(Ông/Bà/Cha/Mẹ/Bác/Chú/Thím/Cô/Dì/Cậu/Mợ/Anh/Chị/Em) nhớ đến chúng con (chúng
tôi), chuyển cầu cho chúng con (chúng tôi) trước nhan Chúa để chúng con (chúng
tôi) được mọi ơn lành phần hồn và phần xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây
giờ và mãi mãi. Amen.
VĂN KHẤN VỚI TỔ TIÊN TRONG NGÀY GIỖ CHUNG (GIỖ
TẾ HIỆP)
Hôm nay là ngày … tháng… năm… Tất cả chúng con cùng quy tụ nơi đây
để tưởng nhớ toàn thể tiên nhân trong Gia tộc, Tổ tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, các
Bác, các Chú, Thím, Cô, Dì, Cậu, Mợ và các Anh Chị Em đã hoàn tất hành trình
dương thế trước chúng con.
Thiên Chúa Toàn Năng là Cha Trên Trời, là Cội Nguồn duy nhất, là
Đấng Tạo Hóa đã thương tạo dựng nên tất cả, cho sống trên cõi đời này rồi lại thương gọi về cho hưởng phúc đời đời với
Ngài.
Chúng ta yếu hèn tội lỗi, nhưng Chúa Cha giàu lòng thương xót đã
cho Con Ngài là Chúa Kitô đến hy sinh, chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá mà
cứu chuộc và ban ơn tha thứ; nhờ đó, chúng ta được thoát ách sự chết và được
sống luôn mãi cho Thiên Chúa là Cha.
Hôm nay chúng con họp nhau cùng cảm tạ, chúc tụng và ngợi khen
Thiên Chúa về những hồng ân ấy. Chúng con cầu xin cho tất cả những ai đang cần
ơn giải thoát, sớm được Thiên Chúa hoàn tất những thanh luyện cần thiết và đưa
về hưởng phúc muôn đời.
Chúng con cũng xin các bậc tiền nhân nhớ đến chúng con, chuyển cầu
cho chúng con trước nhan Chúa để chúng con được mọi ơn lành phần hồn và phần
xác, sống xứng đáng là con cái Chúa, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Sau phần văn khấn, chủ sự đọc lời nguyện lễ giỗ và lời nguyện báo
hiếu:
Chúng ta dâng lời cầu
nguyện.
Lạy Chúa, chúng con xin
ngợi khen cảm tạ Chúa nhân từ đã thương đưa các bậc tổ tiên chúng con về hưởng
hạnh phúc với Chúa. Chúng con cũng xin Chúa đoái thương đến những linh hồn đã
qua đời đang cần tới lòng từ bi vĩnh cửu của Chúa, xin đoái thương cho họ sớm
được hợp đoàn cùng các thánh Chúa. Chúng con
cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ. Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu
thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu
cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống
cho phải đạo đối với các ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Để kết thúc phần nghi thức, chủ sự xướng cho mọi người đáp như sau:
- X: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho các đẳng linh hồn
được lên chốn nghỉ ngơi
- Đ: Hằng xem thấy mặt Đức
Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.
4. NIỆM HƯƠNG
Từng người đến khấn và vái trước bàn thờ gia tiên và bàn thờ của vị
được tưởng nhớ trong ngày giỗ.
Cầm hương trong tay và khấn thầm hoặc nói lớn rồi thinh lặng, lâu
hay mau tùy ý tùy lòng, rồi cắm hương lên các bàn thờ.
Sau đó có thể vái, lạy hoặc phủ phục, rồi lui xuống, nhường chỗ cho
người khác.