GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 05
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận
Qui Nhơn khởi xướng. Nó muốn gợi lên nơi bạn trẻ Công giáo ý định thử viết một
truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có thể
trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 6 truyện dự thi mới. Xin
mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi:
1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý
kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được
hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài
được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến,
có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của
mỗi người.
Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm
nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.
Xin mời xem Bản Thể
Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này.
Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho các
tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải
2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày
31-3-2014.
Xin trân trọng giới thiệu 6 tác phẩm dự thi mới được chọn qua
vòng sơ tuyển. Một số bài không lọt qua vòng loại do chưa phải là truyện ngắn
(chỉ mang dạng chia sẻ tâm tình, tùy bút hoặc kể chuyện), do kết cấu lủng củng,
chưa thống nhất ý tưởng, hoặc do lấy lại câu chuyện từ một truyện nào đó (phóng
tác chứ không phải là sáng tác). Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng
tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và
đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia
và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa
giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 15-03-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-025
-Khổ quá, khổ quá.
Bà lão vẫn thường hay than
thở như thế. Căn phòng chật chội nhuốm màu vàng lờ nhờ của bóng điện. Suốt ngày trong cái không gian o bế đến ngộp thở ấy là tiếng
khò khè, gắt gỏng, kêu ca của một bà lão đã ngoài tám mươi tuổi. Đãng trí, mắt
kèm nhèm, lại thêm chứng đau lưng của
tuổi già, nên bà hay cô đơn lắm. Cứ
chiều chiều, bà lại chống gậy lang thang ra công viên, rồi ngồi thẫn thờ
ngẫm ngợi vào quá khứ, về mối tình đầu, về những ngày tháng đẹp tươi nhất.
Già rồi nhưng vẫn hay khóc.
Bà dễ tủi thân lắm. Trái tim bà vẫn cả tin và dễ tổn thương cho tới tận bây
giờ. Mỗi khi bị con cháu trách mắng về tính hay giận, hay quấy là bà lại lủi
thủi tìm vào góc phòng, ôm mặt khóc. Bà có muốn thế đâu.
Cái tính nhõng nhẽo, hay quấy của bà có từ hồi nhỏ, nhưng được
chiều chuộng nhất là cái hồi bà yêu. Thời son trẻ ngập tràn sắc đẹp ấy xoẹt qua
đời bà như một ngôi sao băng trong bầu trời đêm quang đãng. Từ ngày nhỏ, bà
luôn ao ước được nhìn thấy sao Chổi hai lần trong đời. Bởi sao băng mong manh
quá, ngắn ngủi quá, không bõ xem. Bà muốn nhìn thấy sao Chổi một lần nữa, ngôi
sao Chổi kì vĩ, đầy hư ảo mà bà đã coi từ hồi bà còn nhỏ.
Tiếng dế kêu đêm thật não nùng và lạc lõng trong công viên. Xa xa phía bờ hồ, thỉnh thoảng có những
chiếc ô tô lao vút đi, rồi lại tiếng dế kêu văng vẳng thấu đến từng cánh hoa kẽ
lá. Những con dế như thi nhau tấu lên bản nhạc réo rắt. Màn đêm như đè nặng xuống mảnh đất này. Tiếng dế như xé đêm ra từng mảnh,
từng sợi. Tiếng dế le lắt, tiếng dế quay quắt, tiếng dế thao thiết xiết bao.
Từ lúc nào, bà luôn coi dế là bạn. Những người bạn tí hon ấy như
các nhạc công trình diễn miệt mài không
lấy tiền thù lao vậy. Bà vẫn hay lững chững chống gậy vào thăm thú công
viên, cốt cũng là để được nghe tiếng dế. Tuổi già cũng không nhiều thú vui.
Nhiều cảm giác vẫn khiến bà nhớ về hồi trẻ đẹp. Mỗi lần như thế, bà chạnh
buồn. Cô đơn, cô đơn, cô đơn, điều ấy
đáng sợ nhưng lại như những hạt bụi luôn vây bủa lấy bà. Nhiều khi bà muốn rũ
bỏ cảm giác ấy đi mà không được, bà lại lặng lẽ tìm đến làm bầu bạn với tiếng
dế, với bóng đêm, với sao trời. Dần dà rồi cũng quen, bà tự biết chẳng mấy ai
thích người già, nên mọi buồn khổ lại tự âm thầm chịu đựng một mình.
Có lần, con trai bà bảo: Mẹ già rồi, đừng ra ngoài nữa, nhỡ cảm gió
ra đấy thì làm sao. Bà bảo: Cứ để ta đi lại cho nó khuây khỏa. Nó bảo: thôi mẹ
ở nhà cho lành, không thì lại khổ con khổ cháu. Bà im lặng, đóng cửa vào căn
phòng kín gió tù túng. Bà bảo cái phòng như
cái chuồng nhốt người vậy, khó chịu lắm. Con dâu bà bảo: Mẹ khó tính
lắm, ai mà chiều được. Bà kêu: Giê Su Maria, sao già lại nhục thế này, người ta
cầu chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi làm gì thế không biết.
Rồi bà lại tự đấm vào phía lưng mình. Những cơn đau lưng kéo dài từ
ngày này sang ngày khác khiến bà hay ri rỉ nước mắt. Cơn đau còn như lây vậy,
đau lưng rồi đau lên vai,lên gáy, lên đầu, đau tỏa xuống các tay chân. Trông bà
lấy bấy, bủn rủn là thế, nhưng sức bà cũng đã cố gắng hết sức để gượng gạo đi
rồi. Chứ thực ra bà chỉ muốn nằm bẹp một chỗ thôi, lúc nào cũng cảm thấy trong
người bí bách, xương cốt rão ra, chỉ còn chút tàn lực của tuổi già. Đôi lúc bà
vẫn tự quở: Sao ta dai chết thế? Bà cũng hay nghĩ về tuổi thơ. Lúc còn nhỏ, bà
luôn mong ước một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, nhưng càng sống lâu, bà
càng thấy đời nhiều khốn nạn hơn. Giờ ai cũng bảo bà lẩm cẩm, dạy con cháu khác
người. Bà bảo: Đôi khi trong cuộc sống người tốt sống cạnh người tốt không tốt.
Người ta bảo bà dở hơi. Bà lại bảo:
Người tốt phải ở gần người xấu sể cảm hóa người xấu, không chẳng bao giờ người
xấu có thể hoàn lương được cả. Người ta bảo bà chập mạch. Ai lại cho con cháu
đi chơi với đám bạn lêu lổng, hư hỏng đâu. Bà cười mỏm mẻm: Rốt cuộc chẳng ai
hiểu được già này.
Lớp trẻ ở đây mấy ai biết bà từng là cô gái hát quan họ đầy quyến
rũ, mê hoặc ngày xưa. Làng trên xóm dưới ùn ùn kéo về xem quan họ mỗi khi làng
bà tổ chức. Cứ tới lượt bà hát là mọi người như lặng đi, giọng hát mê hồn ấy đã
thấm cả vào một thế hệ yêu quan họ trong khu vực này, ấy thế mà…
Bà vẫn đi dạo hàng ngày, dành nhiều thời giờ để suy nghĩ về tuổi
trẻ, về những khoảng lãng mạn thời con gái. Cảm giác ấy, cái cảm giác được
nhiều người tôn trọng, săn đón, ngưỡng mộ rất sung sướng. Bà mơ màng dựa vào
ghế đá ngoảnh ra mặt nước hồ lãng đãng ánh hoàng hôn. Khóe mắt bà đã ri rỉ
những ngấn nước mắt lòa nhòa. Anh nắng chiều tàn làm óng ánh lên những giọt
nước nhỏ nhoi ấy. Cảm giác cô đơn quấn xoắn lấy bà.
Có lẽ ta sắp bị đuổi ra đường mất. Bà tự nhủ. Con dâu ngày càng hay
cáu giận, mắng mỏ, còn con trai thì bận bịu tối ngày, chằng còn quan tâm bà
nữa. Hôm trước, con dâu bà bảo: Mẹ sống ở nhà này như người thừa ấy. Có lần
khác nó lại bảo: Mẹ bẩn lắm, hôi hơn con khỉ rồi, cả tháng rồi chưa tắm. Thì bà
cũng nghe câu được câu chăng, mỗi lần như thế bà im lặng. Tuổi này giờ gắng gượng mà đi được là tốt rồi, mấy ai giữ được cho thân thể luôn thơm tho chứ?
Giá như, giá như… cái thời son trẻ của
bà đã lùi lại quá xa, sẽ chẳng bao giờ bà có thể quay lại được thời đó.
Mỗi lần bà muốn quay lại, con cái lại mắng
bà nhõng nhẽo, trẻ con, làm khổ con cháu ai mà chiều được.
Một buổi sáng cuối mùa đông
năm ấy, cô con dâu hét toáng lên: Mẹ ra khỏi nhà đi, ỉa đái gì mà tung tóe
hết ra phòng thế này, khổ quá. Bà vừa đi
vệ sinh vào cái bô, không biết túng tấng thế nào mà cái bô bị úp ngược, bà cứ
khều khều những mãi không lật lên được. Cô con dâu nhìn cảnh ấy nên không kìm
lại được, lại thốt lên: Bà chết đi thì hơn, sống chỉ làm người khác khổ.
Bà ngờ ngệch vớ lấy cái gậy, thập thùi bước đi, bỗng ngã dúi xuống,
mặt bà úp vào cái bô rồi trượt xuống nền đất. Mùi thối sặc sụa như oạc ra từ bể
phốt. Quần áo, mặt mũi bà nhoe nhoét phân. Bà nằm như
một con mèo già sắp chết. Luống cuống quá, bà lại bò ra cái chỗ vòi
nước. Cô con dâu đóng sầm cửa lại, ậm ọe hồi lâu.
Năm hôm sau, người ta thấy một bà cụ già nằm bất động ở cổng ngôi
nhà thờ một giáo xứ gần đó, người bà cứng đờ, lạnh toát. Mấy giáo dân đi lễ về, nhìn thấy liền khênh bà về nhà sơ
cứu, nhưng dường như đã quá muộn. Con trai, con dâu bà tìm đến, lu loa, gào
khản cả tiếng như tranh nhau:
-Ối mẹ ơi! Sao mẹ lại bỏ nhà mà đi.
- Mẹ ơi là mẹ! con là kẻ bất hiếu.
- Mẹ ơi! Sao mẹ lại chết đường chết chợ thế này, sao phút cuối
không ở bên chúng con.
- Mẹ ơi! Chúng con hưa sẽ chăm chỉ làm ăn, sẽ vâng nghe lời mẹ lúc
còn sống, lo lắng cho mẹ mồ yên mả đẹp.
Những lời có cánh trong đau buồn như vút tận trời xanh. Hàng trăm
lời hứa hẹn, khóc nấc của cặp vợ chồng cũng khiến họ hàng khóc nấc theo. Dân
làng không ngờ bà lại có con dâu ngoan hiền, thương mẹ đến thế, người con trai
có hiếu đến thế…
Chiếc quan tài đã sang ngày thứ hai, phía đầu quan tài vẫn có một
mặt để ai vào phúng viếng có thể nhìn thấy mặt bà lần cuối. Người con dâu oặt
oẹo, tóc xù ra vì đã khóc ròng suốt từ lúc nhận được tin dữ.
Đám tang bà đông. Cả làng
đưa tiễn bà vào nhà thờ để làm lễ đưa chân cầu nguyện cho linh hồn bà sớm được
hưởng phúc thiên đàng. Vị linh mục đang
oang oang giảng về những đóng góp quan họ trước đây của người quá cố, bỗng đánh
rơi kính vì một điềm lạ lùng. Cả nhà thờ nhỏm dậy, nháo nhào chạy xúm vào một
chỗ. Bà lão đã ngồi nhỏm dậy, nắp quan tài kênh sang một bên. Người ta đã quên
đóng đinh nắp áo quan. Tiếng trẻ con khóc thét vì sợ. Ai cũng ngạc nhiên vì sự
việc lạ lùng. Nhiều người tin Chúa đã
làm phép lạ ngay giữa nhà thờ. Có kẻ xầm xì: Suýt nữa thì chôn sống bà lão.
Bà ngã ra nền nhà thờ, ngước
lên nhìn gian Cung thánh, làm dấu liên hồi, miệng lắp bắp, mặt tái mét.
Cả nhà thờ vòng trong vòng ngoài những người, không còn ai khóc
nữa. Quả là một sự lạ cho toàn bộ con chiên của Chúa nơi đây. Bà lão vẫn chưa
nói được. Người ta đưa bà ra cấp cứu. Cái tin người chết sống lại nhanh chóng
được lan truyền, bà bỗng dưng nổi tiếng, được nhiều người phỏng vấn.
Rồi cũng nhạt dần. Không khí trong gia đình lại trở lại như xưa.
Người con dâu vẫn tiếp tục chì chiết mẹ chồng. Người con trai vẫn chơi bời nhậu
nhẹt tới khuya khoắt mới về nhà. Có ngày họ chẳng cả nhìn hay hỏi thăm bà lấy
một tiếng. Ngày ngày trôi qua trong
quạnh vắng, bà rất nhớ tiếng dế, nhớ
những kí ức tuổi thơ. Bà đã bị liệt một nửa người. Mấy ngày liền, khi không còn
nghe tiếng mẹ gắt gỏng, rên hừ hừ nữa,
đôi vợ chồng mới khẽ khàng đẩy cửa vào. Một cảnh tượng đầy ái ngại trong căn phòng đã đập vào mắt
đôi vợ chồng đã trung niên. Chẳng là, họ đã trải vải mưa xuống dưới chiếu của
bà, và để sẵn đồ ăn, sữa, hoa quả hai
ngày nay cho bà cụ. Giờ thì nước tiểu và phân lấm lem xuống chiếu, chảy cả lên
mái tóc rối lòa xòa của bà. Mắt bà nhắm
nghiền, ruồi tranh nhau bâu lên mặt,
khóe mắt bà vẫn có đường nước bé xíu mờ
mờ chảy xuống chỗ nước tiểu rỉ loang khắp chiếu. Trong im lặng, đôi vợ chồng
ngán ngẩm nhìn nhau. Hai ngày tiếp theo bà cũng không ăn được gì, ai hỏi gì bà
cũng không nói được. Họ hàng lại xúm xít
xung quanh. Lại hỏi thăm, bàn tán, rồi ra về trong tâm lí nặng nề. đến một ngày
cuối tuần, khi tất cả mọi người đang lo lắng nhìn khuôn mặt đã hết thần sắc,
quầng mắt đen sì, môi thụt hẳn vào trong của bà, thì người ta đã được nghe câu nói cuối cùng của bà. Sau
một loạt câu hỏi không có tín hiệu trả lời:
-Bà uống sữa nhé
-Bà đi tiểu nhé
- Thay quần áo cho bà nhé
…
Rồi đến câu:
-Xức dầu cho bà nhé. Bỗng như có một buộc vào cổ áo kéo bà lên vậy,
bà hơi nhích, khẽ rên lên:
-Ừ, tạ ơn Chúa.
Khi mặc áo phép, và chịu phép
sức dầu, ăn năn về những việc làm hồi còn sống, bà làm dấu
thánh giá, hôn tượng Chúa Giê-
Su, rồi thở hắt lên một cái thật
mạnh. Bà đã ra đi mãi mãi. Đám tang bà
lần này, rất ít tiếng khóc. Con cháu bà cũng chẳng đông, dù đã bao lần khi còn
sống bà dặn dò các con cháu bà hãy sinh
sôi thật nhiều. Đêm đó, những ngôi sao băng rơi nhiều như để chào đón một linh
hồn thánh thiện đã về trời. Tiếng dế
trong nghĩa trang cũng ngân lên buồn bã, chỉ vắng ánh sao Chổi mà thôi.
Mã số: 14-026
-Tặng bạn tôi, một người con ưu tú của giáo hội, anh Paulus Lê Sơn.
Xin được cúi đầu trước các thiên thần bé bỏng không được chào đời.-
Câu chuyện ấy xảy ra vào một ngày cuối thu.
Đừng là một bác sĩ giỏi. Ngay từ lúc trẻ, chị đã là thủ khoa đầu
vào của hai trường đại học danh tiếng. Thời gian đó, Đừng đã đoạt một suất học
bổng sang Pháp. Con đường học vấn của chị được coi là sáng sủa nhất ở vùng này.
Khi trở về, chị là một bác sĩ trẻ năng động, được điều về bệnh viện tuyến trung ương. Vài năm sau, chị đã là phó khoa
sản của một bệnh viện, rồi chị mở một cửa hàng tư nhân về sức khỏe sinh sản.
Nhưng rồi, thấy mình có khả năng trong trong việc giúp các thai phụ
bảo toàn được danh dự, hay giữ cân bằng dân số vì hạnh phúc gia đình, chị đã
chuyển sang một công việc mới, ấy là một bác sĩ phá thai. Với trí tuệ và năng
lực của một người có tài, chẳng mấy chốc chị trở thành một người bác sĩ giỏi
giang trong công việc hàng ngày của mình.
Quả vậy, một khi đối mặt với những lời xì xào bàn tán không hay về
nghề phá thai. Chị lại tự nhủ: Ôi dào! Các ông các bà cứ nghĩ thế, chứ tôi
không làm có vẫn có người người khác làm đó thôi, ai có giỏi thì làm đi”. Cứ
thế, mỗi ngày hàng chục cô gái ra vào phòng chị để được giải quyết những cái
thai mà họ cho là ngoài ý muốn kia.
Nhà Đừng giờ đã to nhất con phố này rồi, mà khách hàng thì không
thấy có xu hướng giảm. Chị rất bằng lòng với công việc hàng ngày của mình:
nhiều tiền, lại chẳng quá vất vả. Có một điều khiến chị hơi băn khoăn là những
thai nhi sau khi được chị giải quyết xong kia, thường không phải ai cũng lấy
lại, mà cứ tồn để đống trong những túi màu đen ở thùng rác. Thai nhỏ chị còn xả
trong bồn cầu được chứ thai to thì chịu. Những ngày mùa hè, mùi tanh của máu,
cái lạnh của âm khí xoắn quyện như ngấm cả vào tường nhà. Thật may mắn khi gần
đây chị mua được hẳn bốn con chó béc- giê về giữ nhà. Thế là số thai nhi kia cứ
mỗi cuối ngày lại được quẳng cho lũ chó xâu xé loạn xạ sau vườn nhà. Đôi lúc
chị cũng cảm thấy có chút gì đó hơi nhẫn tâm. Nhưng kệ. Với chị, đống thịt vụn
kia thì chôn hay vứt đi, hay quẳng cho chó thì cũng khác gì nhau. Điều quan
trọng là sự sống trong đó đã chấm dứt. Bởi thế hàng ngày chị vẫn thản nhiên cho
lũ chó ăn mà không mảy may suy nghĩ quá nhiều.
Có một chút xáo trộn nhỏ, khi mà có mấy người phụ nữ nghèo thỉnh thoảng
lại ghé qua có nhã ý xin chị những thai nhi bị ruồng bỏ kia để mang về chôn cất
và cầu nguyện. Chị bỏ ngoài tai tất cả.
Ôi giời! Cho họ thì lấy gì cho chó nó ăn, thịt bò bây giờ cũng
không rẻ. Chị thầm nhủ vậy.
Chị muốn tống cổ họ ngay khi thấy họ rụt rè ở phía cửa nhà mỗi lần.
Chị lại nghĩ: không biết họ đi làm thế có được ai cho tiền không
biết, đội nắng đội mưa đạp xe từ đâu đến đây làm gì cho khổ thế không biết.
Chị không mắng chửi họ ra mặt nhưng nhất định không muốn cho họ chạm mũi bàn chân đến hàng gạch
đầu tiên ngoài cổng nhà mình.
Những con người nghèo kiết xác kia không đáng để mình bận tâm. Đừng
luôn tự dặn lòng mình như vậy. Chị còn phải trau dồi thêm kinh nghiệm thực tế
và từ đồng nghiệp để làm sao cho những bà mẹ kia không bị nhiễm trùng hay bị vô
sinh. Công việc phá thai với chị giờ rất đơn giản, chỉ cần bỏ ra thời gian bằng
bữa cơm trưa là có tiền triệu bỏ túi ngay. Với sự giỏi giang và tinh thần ham
học hỏi của mình, chả mấy chốc địa chỉ nhà Đừng nườm nượp những cô gái trẻ qua
lại để giải quyết hậu quả. Có đôi người còn trở lại cảm ơn chị hậu hĩnh vì đã
bảo toàn danh dự cho họ hay giúp họ không phải làm mẹ của những đứa con khuyết
tật. Chị từ chối, với chị như thế cũng là đủ rồi.
Nhưng lạ thay, có nhiều đêm những vong hồn thai nhi lại hiện lên
trong những giấc ngủ của Đừng. Chúng hướng ánh mắt cầu xin, van vỉ chị mà không
thể nói được. Chị cũng sợ, nhưng tỉnh dậy rồi, công việc kia lại như một thói
quen, chị lại tiếp tục làm như không có gì xảy ra.
Mấy con chó nhà chị giờ to béo, mắt quắc lên, trán co lại, bộ lông
mượt chuốt dài ra. Chúng được như thế cũng nhờ rất nhiều vào số sản phẩm tận
dụng được từ nghề nghiệp của Đừng. Mặc cho người ta kêu mình làm như thế thì
thất đức, không có hậu, hay bị quả báo đi chăng nữa, chị vẫn không ngừng học
hỏi. Học để làm sao cho những sản phụ được an toàn, tiếp tục làm mẹ khi muốn.
Nhất là những ca mà ảnh hưởng tới tính mạng người mẹ, chị cẩn thận lắm. Chị
hãnh diện vì được khen là bác sĩ giỏi, là không bao giờ lấy tiền trả ơn sau khi
họ được giải quyết hậu quả. Nhiều người chê, nhiều người khen, chị chẳng hề nao
núng gì.
Ngoảnh đi ngoảnh lại, chị cũng đã ba mấy rồi còn gì. Chị chợt nghĩ,
có lẽ vì quá đam mê nghề nghiệp mà quên đi thiên chức của một người mẹ. Chị
cũng đã cưới chồng được mấy năm rồi còn gì. Nhưng mà có cũng như không, chồng
chị có bao giờ quan tâm chị đâu. Có mấy ai hiểu cho chị được. Mấy ai yêu nghề
hơn chị được. Nhưng dù sao cũng cần phải có con, quyết là làm, chị đã có thai
ngay sau đó không lâu.
Những ngày bụng lộ to ra, Đừng tạm nghỉ làm việc. Cứ sáng sáng đi
chợ, chị không quên mua thịt bò về cho lũ chó. Mấy con chó không còn mượt đẹp
như trước nữa. Chúng nô đùa, gầm gừ, đuổi nhau khắp vườn.
Rồi chị sinh được một bé trai. Cảm giác hạnh phúc dâng tràn. Họ
hàng, bạn bè tới chúc mừng nhiều, quà cáp nhiều. Có mỗi một bà già làm cho chị
không được thoải mái lắm. Đó là bà dì góa của chị. Bà bảo:
- Được làm mẹ rồi, giờ bỏ cái nghề này đi con nhé.
- Con không làm vẫn có người khác làm dì ơi! Xã hội là vậy.
- Con không ân hận chứ?
- Con không.
- Nhưng cái nghề đó thất đức lắm con ơi
- Nghề nào chả như nghề nào hả dì?
- Làm hay không là quyền tự do của con, nhưng con nghĩ mà xem, giết
ở trong bụng và giết ở ngoài khác gì nhau? Mang tội đấy.
- Nếu có tội thì đã bị đi tù.
- Con vẫn quyết không ân hận chứ?
- Nhất định không, chả lẽ những bà mẹ nguy kịch tới tính mạng vì
thai, không có người như con, chết cả hai, thì tội của ai?
- Còn đa số các ca còn lại thì sao? Con ác lắm.
Cuộc trò chuyện cứ thế làm cho chị cảm thấy mệt mỏi. Chị cảm thấy
bức bối trong người, ngồi thụp xuống cái đệm cứng đờ.
- Con đừng làm thế nữa, có nghiệp báo đấy
- Dì về đi. Dì dạy khôn con đấy à
- Học cho giỏi vào, giờ lại hỗn với cả dì nữa.
Bà dì lóc cóc cầm cái nón đi về. Nước mắt bà ướt nhòe. Thỉnh thoảng
con bé nó cho mình đồng ra đồng vào, ai ngờ nó lại làm cái nghề này. Dì ấm ức
lắm. Muốn về nhà thật nhanh. Bước chân bà liêu xiêu lê ra phía cổng.
-Dì cứ hiền lành quá mức như thế, nghèo là phải.
Chị cố nói với theo như thế. Thằng bé khóc oe oe. Chị vẫn chưa hết
bực bội. Thằng bé khóc ngằn ngặt, lại thêm tiếng chó sủa nhộn nhạo, chị cảm
thấy ức chế.
Bế con lên mà Đừng cảm thấy bình an quá. Cậu bé ngoan ngoãn khi tìm
thấy bầu sữa quen thuộc. Nhìn con âu yếm. Chị hôn nhẹ nhàng lên trán của con.
Tiếng béc-giê lại sủa chói lói, át cả vào căn phòng. Cậu bé giật mình khóc thét
lên. Chị bế con dậy ra đóng cửa mà ru con ngủ. Miên man nghĩ ngợi, chị lại bị
ám ảnh bởi những mảnh tay chân bé xíu. Nhưng chẳng lẽ do thói quen? Thật là chị
không cảm thấy quá sợ sệt. Chai đá? Vô cảm? Mạnh mẽ? Nhẫn tâm? Có lẽ nào lại
tới mức ấy không? Chị tự vấn lòng mình trong khững hình ảnh kia vẫn cứ nhập
nhoằng trong ý nghĩ. Đầy cữ rồi đấy, chị tự nhẩm.
Con đã ngủ, chị nhẹ nhàng đặt con lên chiếc nôi xinh xắn. Chị ra
chợ một lát để mua thức ăn cho mấy ngày và mua cả thịt bò về cho lũ chó. Chợ
cũng gần nhà. Ở đây mọi thứ đều đắt đỏ. Nhìn những bà bán hàng nhếch nhác quá,
luộm thuộm quá. Chị chỉ muốn mua nhanh để về thôi. Lòng trí lúc nào cũng nghĩ
về con. Từ khi được làm mẹ, chị đã hạnh phúc hơn rất nhiều. Dù có phải đi ăn
xin chị cũng không để con phải khổ. Nhưng dạ đàn bà thường hay nghĩ vụn vặt,
chị cũng thế, nhưng dù nghĩ gì, làm gì cũng nghĩ hướng về cho con.
Dòng người đi chợ đông đúc, rộn rạo, tiếng mặc cả, những lời ngọt
ngào trao đi đổi lại.
- Mua đi chị ơi, mười một bán mười chị ơi
- Mua cho em với, em bán rẻ cho
- Chị ơi! Cá đi chị, em bán lấy vốn
- Cô ơi! Thịt này, bán lỗ cho cô này.
Nghe những lời mà chị thấy họ giả tạo quá. Biết sao được. Cuộc sống
mưu sinh mà. Chị chen chân nhanh để về với con. Mới xa con có một lúc mà nhớ
quá. Về tới cổng mà không thấy con khóc. Chị yên tâm lắm. Cất hoa quả vào tủ
lạnh, mang thức ăn vào bếp, chị quay trở lại bật ti vi xem.
Màn hình vừa bật, đập vào mắt chị là những thống kê về tỉ lệ nạo
phá thai lớn hơn cả số trẻ được sinh ra. Chị thản nhiên bật chuyển kênh khác,
có gì lạ đâu, mỗi năm ta còn giải quyết gọn hàng ngàn vụ cơ mà. Nghĩ tới đó chị
cảm thấy thỏa mãn lắm. Mấy bác sĩ đủ tài làm được như mình? Hay là người ta bị
vô sinh cũng không dám quay lại nhỉ? Mặc kệ họ.
Nghĩ luẩn quẩn, là Đừng lại nghĩ về con. Sau này sẽ cho thằng bé đi
du học cho nó được mở mang tầm mắt, không cho nó làm bác sĩ nữa, cho nó làm
việc gì đó không bị bàn tán nhiều hơn. Mọi ngày căn phòng phảng phất mùi âm
khí, không hiểu sao hôm nay cái mùi chết chóc nồng nộc vào tận phổi. Chị cảm
thấy nôn nao trong người, bủn rủn tay chân, hình ảnh hàng vạn sinh linh không
vẹn hình hài cứ nhập nhoằng trước mắt. Hay là mình bỏ cái nghề này đi nhỉ? Bỏ
rồi thì biết làm gì đây? Làm hay không thì xã hội vẫn thế, đạo đức là cái gì cơ
chứ?... hàng chục ý nghĩ bủa vây lấy chị, thật khó chịu.
Mấy phút xoẹt qua. Chị lại nghĩ tới con và giật mình, sao thằng bé
ngủ lâu thế. Chạy vội sang phòng, thấy
cánh cửa phía sau vườn hé ra, không thấy con đâu, chị sợ hãi. Lẽ nào có ai đó
bắt cóc con mình để tống tiền sao, nghĩ thế, chị thót tim. Dáo dác nhìn khắp
gầm giường, cánh tủ, chị hốt hoảng xô tung cánh cửa lao ra vườn. Chị thét lên
khi nhìn cái cảnh quen thuộc trước đây: Mấy con chó béc- giê đang tranh nhau ăn
những mảnh thai nhi. Nhưng lần này không còn là thai nhi nữa, chị tin vào mắt
mình dù cho không muốn tin. Chiếc áo bé bỏng của con bị xé nát, một con béc-
giê đang ngoạm một cái đầu phía góc vườn. Mấy con kia đang gầm gừ, xâu xé phần
còn lại.
-Trời ơi! Con tôi.
Chị nhảy xổ vào đàn chó. Mấy con chó sợ mất miếng mồi, mỗi con
giằng một miếng, xé toạc phần cơ thể còn lại. Con giằng chân, con giằng tay với
cả tảng thịt dính lủng liểng chạy nhốn nháo. Quả tim bật ra. Chị lấy hết sức
chạy tới chộp quả tim rồi đuổi theo đàn chó. Lũ chó gầm gừ nhất loạt phóng
thẳng ra ngoài đường lớn, mỗi con ngậm một miếng thịt ngon mà lâu rồi chúng mới
được ăn…
Ngày tháng quạnh quẽ buông qua. Đã năm năm bác sĩ Đừng bỏ nghề.
Thời gian đầu, chị bị hoang tưởng, cứ mỗi lần đi vệ sinh là có một cánh tay
thai nhi to gần bằng mẩu phấn cứ thò lên trên mặt nước của bồn cầu. Dần dà, cứ
tang tảng sáng, chị lại tới nhà thờ cầu nguyện rồi trở về nhà tiếp tục bán
thuốc. Đến chập tối, chị lại lững chững đi theo mấy người phụ nữ chị hắt hủi
ngày trước để đi gom những hài nhi chưa được sống một ngày ngoài bụng mẹ về
chôn. Họ vui vẻ hướng dẫn chị tới những cơ sở phá thai nhan nhản trong thành
phố này. Công việc thiện nguyện ấy đã giúp chị cảm thấy cuộc đời đáng sống hơn.
Chị mới được rửa tội để trở thành một con chiên, một tân tòng trong giáo xứ Cứu
Độ. Giờ đây, là mẹ của hàng chục trẻ mồ côi, là một phụ nữ nhiệt tình trong
phong trào vận động chống phá thai, Đừng cảm thấy hạnh phúc, dù cho là thiếu đi
một cái gì đó mãi mãi.
Mã số: 14-027
Một chiều đầu đông năm 1990, một người phụ nữ khó nhọc đi bộ một
mình từ chợ về nhà. Cứ đi được vài bước, chị lại dừng chân ôm bụng, nói thầm :
“Con ơi, cố chút nữa gần về tới nhà rồi !”. Chị đã sinh ra một bé gái có cặp
mắt đen, nước da phớt hồng và khuôn miệng nhỏ với hai má lúm sâu thật sâu. Ngày
ấy, bệnh viện là nhà, phòng hộ sinh là căn buồng có ô cửa nhìn ra gốc tùng diệp
già. Bà nội là bác sĩ phụ sản. Sự thiếu thốn ấy đã không đánh gục được sự dẻo
dai của người phụ nữ miền sơn cước. Đúng 5h chiều một sinh linh cất tiếng khóc
chào đời. Chồng chị vội đi lấy cuốn sổ tay ghi lên đó dòng chữ :" Bé
Quyên, sổ lúc 5h chiều ngày 24.11.1990, tức ngày 15.10 năm Canh Ngọ." Cuốn
sổ ấy đã trở thành kỉ niệm của chị em nhà nó. Một tuần sau khi sinh, mẹ đã chọn
cho nó tên thánh Anna và nó bắt đầu ơn gọi làm người Kitô hữu như thế !
Năm tháng qua đi, con bé lớn lên trong tình thương của bố mẹ và bà
nội. Thường thì nó ở nhà với bà nội vì bố mẹ phải đi làm xa. Bà dạy nó làm dấu,
đọc kinh. Bà phải sửa nó rất nhiều lần vì nó có hai tật là hay đeo dép trái và
làm dấu tay chiêu. Trước khi ăn cơm bà dạy nó nói câu : “Con mời Đức Bà ăn cơm”
khi đi ngủ thì nhắc nó : “Xin Đức Bà cho con ngủ ngon”. Bà đã dạy nó biết bao
điều lặt vặt khác nữa. Bà là điển hình của một thế hệ sống đạo, giữ đạo và dạy
đạo theo cach hết sức mộc mạc nhưng nó lại thấm sâu trong tâm hồn thế hệ con
cháu của bà. Về sau khi bà mất, mỗi khi trông em, nó lại bắt trước bà để dạy
cho các em những điều mộc mạc như thế.
Năm 5 tuổi thì mẹ nó sinh em. Không phải là một mà là sinh đôi, nó
vui quá chừng !
Ngày nó lên lớp 10, khi dân làng đang góp sức cùng nhau xây dựng
ngôi nhà nguyện của thôn thì một vụ tai nạn xảy ra. Sau hai cơn mưa rào bức
tường mới xây đã không may ập xuống… Tai họa ấy đã mang bố rời xa chị em nó mãi
mãi. Sáng hôm đó, trước khi đi học, bố gọi nó lại đưa cho nó 200.000 đồng và
nói : Bố mới lĩnh tiền công tháng này, một phần để đóng tiền ăn cho hai em, còn
đây con cầm đi đóng tiền xây dựng trước, tiền học phí để mấy hôm nữa bố đưa sau
nha ! Nó thưa một tiếng “vâng” nhỏ nhẹ, rồi trộm nhìn bố. Nó thấy chiếc cổ áo
đã sờn và bạc phếch mà ngày nào bố cũng mặc. Nó cầm tiền mà dưng dưng trong
lòng, đôi tay nhỏ chạm vào bàn tay bố, nó thấy thô rát bởi những vết chai sạn.
Nó thương bố. Có ai ngờ đó cũng là lần cuối cùng nó được nhìn và chạm vào người
bố thân yêu. Còn đứa em 6 tháng tuổi trong dạ mẹ nó thì mãi mãi không được nghe
giọng của bố.
Ngày bố còn sống, cuộc sống gia đình còn có miếng ăn, miếng để. Chị
em nó không sung sướng hơn chúng bạn nhưng cũng không thiệt thòi hay thiếu thốn
thứ gì.
Bố mất, mẹ nó ở vậy nuôi ba đứa con thơ dại. Giữa cảnh mẹ góa con
côi, kinh tế khó khăn, mẹ phải bán chiếc honda để làm vốn để xoay sở việc buôn
bán. Mẹ nó lại tranh thủ đi giúp việc thêm vào buổi chiều cho một gia đình trên
thành phố. Mẹ chỉ còn hai thứ tài sản quý giá nhất : Bốn chị em nó và chiếc xe
đạp cũ.
Nó lớn dần, tuổi 18 – cái tuổi rất dễ tự ti và mủi lòng, nó hay mặc
cảm và tủi thân.
Từ ngày mẹ đi làm thuê, nó trở nên trầm mặc, ít giao du với bạn bè,
không còn vui vẻ như trước nữa.
Hôm thi đại học, nó thấy mẹ dậy sớm ngồi trước tượng Đức Mẹ thật
lâu, rồi lặng lẽ xuống bếp nấu xôi vò. Ăn sáng xong xuôi, mẹ lại gò lưng trên
chiếc xe đạp cũ đưa nó đi thi. Mọi ngày, nó vẫn tự đạp xe tới trường nhưng hôm
ấy địa điểm thi ở xa mà nó thì không biết đường.
Nhìn thấy các bạn cùng đi thi được bố, được mẹ quan tâm, chăm sóc,
chiều chuộng đủ kiểu thì nó chạnh lòng. Dường như ai ai đều nán lại cổ vũ tinh
thần cho con em mình thi tốt. Còn mẹ nó phải vội về cho kịp giờ làm việc.
Nó xuống xe, nhìn mẹ, giọng đượm buồn : “Thôi về đi mẹ !”.
Hết giờ thi, ngoài cổng trường nhốn nháo kẻ đón, người chờ, lời hỏi
han rộn ràng, tiếng xe máy dòn nổ. Nắng rát, nó lầm lũi, chỉ có cái bóng là
“người bạn đường” đi kề bên đôi chân. Nó thấy sự cô độc như nhân đôi…
Nhưng lạ thay ! Lúc đó, nó nghĩ đến mẹ và càng thương mẹ hơn. Giờ
này chắc mẹ cũng đang một mình bươn chải với những công việc không tên trong
một gia đình giàu có, xa lạ nào đó. Nó rảo bước nhanh để ghé qua chỗ mẹ làm,
chờ mẹ cùng về.
Năm đó, nó đậu vào khoa Văn trường sư phạm. Ước mơ của nó và cũng
là của bố mẹ đã thành hiện thực. Nhưng niềm vui không được trọn vẹn bởi mẹ lại
bỏ chị em nó khi chưa kịp nhìn nó ra trường. Mẹ ra đi vì một cơn đột cơn đột
qụy khi đang bán hàng ngoài chợ. Đau đớn, khóc hết nước mắt nhưng nó vẫn phải
đứng dậy. Nó trở thành trụ cột và cáng đáng mọi việc trong nhà. Nhìn nó cứng
cáp và trững trạc hơn so với những đứa bạn 9X cùng trang lứa. Nó ít cười, thi
thoảng người ta mới nhìn thấy hai má lúm đồng tiền khi nó đùa vui với các em.
Dường như sự vô tư lặn sâu và mất dấu trên khuôn mặt tròn trĩnh của nó.
Vẫn chiếc xe đạp cũ, nó kiếm việc làm thêm nuôi hai em đang tuổi
đến trường. Nó làm ở một cửa hàng hoa khá lớn. Khách ra vào tấp nập, người chọn
bó này, kẻ chỉ kiểu kia… Có những ngày mệt lả, bụng đói meo nhưng nó vẫn phải
tươi cười.
Khuya, nó trở về nhà. Bếp núc lạnh tanh. Đứa út trán hâm hẩm nóng,
mắt nó hướng ra phía cổng ngóng chị về…
Thằng anh nghẹn ngào :
- Buổi chiều, em đưa Bống sang nhà cô Thủy chơi đồ hàng cùng thằng
Sung và cái Lan. Hôm nay, sinh nhật Bống chị à !
Nó không nói gì, ôm em vào lòng, giấu vội giọt nước mắt chảy dài
trên má, giọt nước mắt tủi thân giữa cảnh mồ côi khốn khó. Từ ngày mẹ mất, chị
em nó chưa được ăn một bữa cơm ấm cúng bên nhau.
Chúa Nhật hôm sau, nó đưa em đi lễ chiều và dặn ba em cầu nguyện
cho bố mẹ. Bố nó đã ngã xuống ngay tại chính ngôi nhà nguyện khang trang này.
Nó tin bố mẹ ở trên Thiên Đàng đang mỉm cười với chị em nó, còn Chúa thì đọc
được tất cả những niềm vui, nỗi buồn mỗi khi ghé nhìn
nó từ trời cao. Tan lễ, nó bảo các em nán lại đọc kinh để cầu nguyện cho ông bà
và bố mẹ. Nắng chiều hắt hiu xiên ngang qua cánh cửa mở thênh thang. Bóng bốn
chị em đổ dài trên nền gạch. Mắt nó bị hút vào ánh sáng từ ngôi Nhà Tạm. Nó
chợt nhận ra Chúa đã giam mình trong đó từ lâu lắm rồi. Dường như nỗi buồn
trong tim nó đang tan ra và sự đơn độc cũng được thu nhỏ.
Nó ngước nhìn Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh rồi thả lòng theo
đường ray của lòng cậy trông và yêu mến.
Bỗng, có một bóng người vụt nhanh qua ô cửa. Ánh chiều loang loáng
khiến nó không kịp nhận ra đó là ai. Chỉ thấy có một đôi mắt nhìn nó cách trìu
mến. Nó nghe được một lời duy nhất vọng lại trong hồn : “Con yêu, ơn ta đủ cho
con, hãy vững vàng lên !” Mở mắt, giật mình, nó ngước nhìn lên Nhà Tạm, cánh
cửa nhỏ đang mở…
Hôm ấy, nó dành một ngày tự tay đi chợ và nấu những món ăn ngày xưa
mẹ dạy. Một bữa tiệc nhỏ được bày ra để đền bù cho sinh nhật của Bống hôm trước
vì nó lỡ quên. Nó mua một chiếc bánh sinh nhật nhỏ xinh và cắm lên đó những cây
nến nhiều màu. Nhìn đôi mắt thơ ngây của Bống ánh lên. Nó ấm lòng. Bốn chị em
quây quần bên mâm cơm thơm mùi canh cá quả nấu với dưa chua, Những tiếng cười
khúc khích làm dậy không khí một gia đình. Ngoài trời, gió lạnh mùa đông làm
cành bàng khẳng khiu đan vào nhau, chỉ còn lơ thơ vài chiếc lá đỏ úa, vài ba
mầm non đang nhú lên từ kẽ lá. Một niềm hy vọng mới cũng đang nhen nhóm lên
trong tâm hồn nó… Mùa xuân sắp về rồi !
Mã số: 14-028
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
Ông già lững thững đi ra bến sông khi nghe tiếng gọi mỗi sáng.
Người trên thuyền đưa cho ông mấy củ khoai, vài lon gạo. Ông Hai miệng thều
thào, ông vẫn có thói quen lẩm bẩm những câu nói không ai hiểu nổi.
Từ ngày ông Hai sống ở bến sông này, bà con Xóm Đoài đi đâu về cũng
ghé, người cho ông vài củ khoai, kẻ biếu ông mấy con cá. Cuộc sống của ông nhờ
vào lòng hảo tâm của bà con nghèo. Không ai biết tên thật của ông Hai là gì.
Cũng không ai biết ông đến từ đâu. Người già nhất của Xóm Đoài nói rằng ông bị
sóng đánh và dạt vào bến sông này. Người ta dựng cho ông một túp lều nhỏ. Ông
không nhớ tên tuổi của mình, càng không nhớ quê hương ở đâu. Có lẽ sau lần chết
hụt trên ngọn sóng năm xưa, ông đã bị mất trí.
Ngày ngày, ông ra ngồi ngắm dòng sông, miệng lẩm bẩm điều gì đó.
Mỗi khi có xác người trôi vào cửa sông, ông Hai lại tìm cách vớt lên, mai táng
ở khu đất hoang trước cửa lều ông. Điều kỳ lạ là mỗi ngôi mộ, ông đều cắm cho
họ cây thánh giá. Có ngôi mộ thì cây thánh giá gỗ, có ngôi mộ cây thánh giá
bằng 2 nhánh cây buộc lại. Qua việc làm của ông, người dân Xóm Đoài đoán ông
Hai cũng là người theo đạo.
Chiều cuối tuần, khi nghe tiếng chuông nhà thờ, ông Hai thường đứng
nhìn về phía ngọn tháp. Cũng có lần ông dò dẫm đi về hướng đó, nhưng đi nửa
chừng thì chân mỏi, gối đau nên ông dừng lại nhìn ngọn tháp chuông rồi quay về
lều.
Đêm mịt mùng. Nó cố gắng mở mắt. Toàn thân đau nhừ. Nó cố nhớ lại
xem mình đang ở đâu. Không định hình được. Cố hồi tưởng. Nó nhớ mình cùng mấy
thằng bạn tù tổ chức cướp tàu Phương
- Ông lão, tôi đang ở đâu thế này? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão vẫn im lặng, miệng ông lầm bầm điều gì nó nghe không rõ. Nó
thảng thốt. Chẳng lẽ là ma chứ không phải người. Làm gì có ma. Đời nó vào tu ra
tội, chơi bời đủ chốn, cướp bóc đủ nơi, nó đâu sợ gì ai mà nay lại sợ ma!? Nó
ghé mặt lại gần nhìn ông lão. Thì ra ông ấy không bình thường. Ông này hình như
lúc tỉnh lúc mê.
Ông lão lục trong cái rổ lấy cho nó vài củ khoai luộc. Nó cầm lấy,
lưỡng lự suy nghĩ. Thì ra ông già này đã vớt mình lên. Ông đã cứu mình. Đúng là
người tốt. Cái bụng nó đói cồn cào. Nó ăn. Trong chớp nhoáng đã hết mấy củ
khoai. Ông lão tiếp tục lục tìm đồ ăn cho nó. Một gói cơm nếp được gói cẩn thận
trong tàu lá chuối, ông đưa cho nó. Thêm mấy con cá kho. Lần này bụng nó đã bớt
đói. Nó nhìn ông bằng ánh mắt biết ơn và ăn chầm chậm, từ từ.
Ăn xong, nó vẫn thấy cơ thể mỏi nhừ. Nó nằm xuống ngẫm ngợi. Nó
nhận ra thân mình nó giống như bị gậy đập vào lưng. Chắc tối qua trên tàu nó bị
tụi thuỷ thủ phản công và quăng nó xuống sông. Chắc phải vài bữa cái lưng mới
bớt đau, lúc đó mới hy vọng đi tìm đồng bọn. Mà biết tìm ở đâu? Bao năm qua nó
lang bạt, nay đây mai đó cùng đồng bọn. Khi đói ăn thì đi cướp bóc. Lúc có tiền
cũng không biết về đâu. Có nơi chốn nào để về? Nó thiếp đi trong muôn vàn ý
nghĩ bâng khuâng.
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ra lấy đồ nè!!!
- Ông Hai! Ông Hai ơi! Ông đang làm gì đó? Ra lấy cá về ăn nè!
- Ông Hai! Ông ngủ dậy chưa? Mấy bữa nay có vớt được xác nào không?
Nó choàng tỉnh khi nghe tiếng gọi í ới ngoài bến sông. Ông lão lững
thững đi ra. Nó ngồi nhìn qua phên vách. Gió từ bến sông thổi vào lều làm cho
những mảnh ni lông tung lên phần phật. Xa xa trước lều, một bãi đất trống thấp
thoáng những cây thánh giá mọc lên trên những ụ đất. Ngoài bến sông, mấy con
thuyền nhỏ ghé lại. Mấy người đàn bà, đàn ông đưa cho ông Hai những bọc đồ ăn.
- Ông Hai nhớ cất giữ cẩn thận mà ăn dần nhé!
Giọng nói nghe quen quen. Nó dướn mắt nhìn qua tấm phên. Đúng là vợ
của lão Chương mà hôm trước nó cùng đồng bọn trấn con thuyền đó. Nó tự cười chế
giễu: Đời thật oái oăm! Mình đi cướp của họ, nay lại ăn nhờ của họ! Chớ trêu!
Ông Hai hai tay khệ nệ xách đồ vào lều. Ông xách 2 chuyến mới hết
đồ. Ông để đồ trước cửa lều, mở ra xem từng thứ rồi lúi húi cất đi. Ông đặt lên
cái bàn nhỏ một gói cơm còn nóng cùng với thịt. Có ai đó cho ông 1 chai rượu,
ông đặt lên bàn, làm hiệu bảo nó lại ăn. Nó cố lê gối lại bên bàn. Ánh nắng sớm
chiếu vào lều toả sáng cả chỗ nó nằm. Nó nhìn rõ mặt ông lão. Đúng là một ông
lão hiền lành nhưng mỗi tội không được thật tính. Nó bắt đầu thử nghiệm lại suy
nghĩ của mình.
- Ông! Ông tên là gì? - Nó cất tiếng hỏi.
Ông lão nhìn nó cười cười, lắc đầu:
- Không nhớ!
- Thế quê ông ở đâu? Vợ con ông đâu?
Ông lắc đầu. Miệng ông lại trệu trạo lẩm bẩm điều gì. Ông quay mặt
nhìn ra sông trầm ngâm, rồi lại quay vào nhìn nó cười cười. Hết cười lại lầm
rầm nói một mình. Nó giật mình khi nhìn thấy trên cổ ông có có cây thánh giá
bằng đồng tự chế từ vỏ đạn. Có lẽ nào?! Nó tự nhủ. Nó lê lại gần ông, ngồi bên
ông để nhìn cho rõ sợi dây chuyền và cây thánh giá trên cổ. Ông lão đưa tay lên
làm dấu để ăn cơm. Nó nhìn ông trân trân. Càng nhìn kỹ, nó càng thấy ông quen
quen, giống như một hình ảnh nào đó rất nhạt nhòa trong tâm trí. Hai hàng nước
mắt nó tự dưng ứa ra. Cử chỉ làm dấu của ông gợi nó nhớ về tuổi thơ xưa cũ.
Nó nhớ lại ngày thơ ấu xa lắm rồi. Nó cũng có một gia đình hạnh
phúc, có cha mẹ. Cha nó làm nghề buôn muối. Ông cũng hay mang cây thánh giá
bằng đồng tự chế trên cổ. Ông yêu quý cây thánh giá vô cùng. Sau mỗi chuyến chở
hàng về, ông hay cõng nó trên lưng ra cánh đồng cùng thả diều. Nó thường lấy
tay mân mê cây thánh giá trên cổ cha.
Hai cha con cùng cười vang mỗi khi nó giật giật sợi dây chuyền.
Có lẽ nào ông lão chính là cha nó? Cha nó còn sống sao? Nó nhìn ông
lão rồi tự hỏi. Cây thánh giá chứng minh 99% ông là cha nó. Điều còn lại phải
làm ông lão nhớ lại và hỏi người đã vớt ông lên. Biết đâu tai nạn năm xưa cha
nó ngã khỏi thuyền muối cũng giống như nó rơi khỏi con tàu Phương
- Ăn đi! - Ông lão giục nó.
Ông nhìn nó lúc trìu mến, lúc ngây dại.
- Cha! - Nó buột miệng gọi.
Ông lão nhìn nó cười cười. Nó nắm lấy tay ông, ông vẫn chỉ cười.
Bàn tay gầy guộc mà thân thương. Cảm giác ấm áp lan toả cơ thể. Nó chợt nhớ ra
mình còn có một gia đình.
Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi. Ông lão đứng dậy đi ra bãi đất trống
nhìn về phía nhà thờ. Ông nhìn nó cười cười rồi chỉ tay về hướng tháp chuông.
Nó đứng dậy, đến bên ông. Nó không hiểu ông nói gì nhưng biết ông muốn nói về
nhà thờ. Nó choàng tay vào vai ông, dìu ông bước đi về phía ngôi giáo đường.
Ông vừa đi vừa mỉm cười.
- Cụ còn nhớ ngày cụ vớt ông Hai lên không?- Nó hỏi cụ Bàng bên Xóm
Đoài.
- Nhớ chứ? Năm đó khoảng năm tám mươi. Ông ấy bị sóng cuốn, mắc kẹt
trong một bè chuối. Lúc đưa ông lên, ông ngất lịm, cấp cứu hai ngày ông ấy tỉnh
lại. Chỉ có điều ông không nhớ được quê quán ở đâu. Thỉnh thoảng tôi thấy ông
nhắc tới tên Ghềnh, nhắc làng Xuân và Mằng Lăng gì đó. Nếu có điều kiện thì
chúng tôi cũng gửi thông tin lên các phương tiện thông tin để tìm kiếm người
thân cho ông ấy. Nhưng tiếc là không thể làm được.
- Vậy khi đó trong người ông Hai không có giấy tờ tuỳ thân gì hả
cụ?
- Chỉ có một tấm hình ông Hai chụp cùng một đứa bé. Tôi nghĩ có thể
là con trai ông ấy.
- Thế tấm hình đó cụ còn giữ không?
- Không. Ông Hai đang giữ. Ông ấy vẫn để trong túi áo trên ngực.
Thỉnh thoảng ông ấy bỏ ra xem rồi lại ngồi thẫn thờ. Chắc ông không nhớ được gì
đâu.
Nó xin phép ra về, nó chạy như bay về bãi sông, bên túp lều ông
Hai. Ông Hai nhìn nó cười cười. Nó nhìn ông trong nước mắt. Đúng là cha tôi
rồi! Trời đất ơi! Nó quỳ sụp xuống ôm lấy chân ông. Ông Hai ú ớ, trệu trạo cái
miệng như muốn khóc khi nhìn thấy nó khóc.
- Chuẩn bị đi đâu mà mang nhiều đồ thế anh Hưng ơi! - Giọng nói từ
con thuyền xuôi bến hỏi vọng vào bãi sông.
- Hôm nay gia đình tôi về thăm quê.
- Cả chị và hai bé cũng về hả?
- Dạ, cô có đi chợ trên phố luôn không? Nếu đi mua giùm tôi mấy bó
hoa cúc, để tôi thắp hương cho cha tôi và cho các ngôi mộ ở đây.
- Có, vậy anh Hưng có mua hương luôn không?
- Hương nhà tôi vẫn còn nhưng Cô cứ mua giùm 5 bó nữa nha!
- Dạ được anh Hưng. Anh về quê có việc gì mà đưa cả vợ con về thế?
- Tôi về Quy Nhơn mừng lễ bổn mạng xứ nhà tôi. Lễ thánh Anrê Phú
Yên đó cô.
- Thảo nào. Nhớ cầu cho em mấy kinh nhé!
- Tôi nhớ chứ! Cô cũng đừng
quên cầu nguyện cho chúng tôi đó nha.
- Mấy đêm qua anh Hưng có vớt được thi hài nào không?
- Có, tôi vừa an táng sớm nay rồi. Đó, đó, ngôi mộ đang toả hương
và cây thánh giá bằng gỗ mới đó cô.
- Em nhìn thấy rồi. Tội cho họ quá!
Nắng sớm toả xuống mặt sông sóng sánh hắt lên những cây thánh giá
trên mộ. Tiếng người qua lại trên sông ngày càng nhộn nhịp. Anh đứng lặng nhìn
những ngôi mộ, nhìn những cây thánh giá trong ban mai như toả sáng lấp lánh.
Gió từ mặt sông thổi lên, êm đềm, mát rượi. Một ngày mới thật thanh bình!
Mã số: 14-029
Gửi tặng Ông giáo
nghèo: Frère Lê Văn Vinh
Viết về thầy, ngòi bút
xanh mênh mang đầy cảm xúc
Nghĩ đến thầy, tâm hồn
thơ ấm áp giữa ngày đông.
Báo cáo papa, con đã tới!
Nó nhảy tót xuống khỏi chiếc xe đạp cũ, vừa hạ chân chống, vừa
nhanh nhảu cái miệng chào thầy kính yêu – người mà nó đã thân thiết như cha ruột.
Ông giáo là người con của miền Tây sông nước. Chất giọng lơ lớ thật
dễ thương, nhẹ nhàng so với cái giọng chắc nịch như chì vùng đất Nghệ của nó.
Chiều cao của thầy có phần khiêm tốn so với những người đàn ông khác. Thầy chỉ
cao 1m60, hơn nó một chút. Vóc dáng gầy ốm của một người làm việc nhiều cùng
mái tóc điểm hoa râm vì suy nghĩ bao đêm cho lớp lớp học trò khiến thầy già đi
trước tuổi. Ngoại hình bé nhỏ như thế nhưng lại chứa đựng bên trong tài năng,
kho trí thức vô tận và nhân cách cao thượng, tuyệt vời! Nó kết nhất ở ông giáo
là đôi mắt. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt ấy, nó cảm nhận được một biển yêu thương,
một trời bình yên và cõi mênh mang cảm xúc. Đôi mắt hiền, trìu mến đã mang lại
cho nó niềm vui, hạnh phúc và nguồn an ủi những lúc buồn phiền.
- Hôm nay mình học viết thư pháp tiếp nha thầy! Hôm qua con có tập
viết ở nhà nhưng nét chữ non và yếu quá!
Đôi mắt vẫn chăm chú uốn từng đường cong trên thanh kẽm để làm cánh
hoa ly, thầy cất tiếng nói nhẹ nhàng:
- Ừ! Con gái muốn học thư pháp thì thầy sẽ hướng dẫn thêm. Con đã
tự tin viết được những chữ nào rồi?
- Con đã viết chữ “Xuân” để mừng năm mới, chữ “Hiếu” để tặng cha
mẹ. Hôm nay con muốn viết chữ gì sâu sắc sẽ theo con suốt cuộc đời thầy ạ!
Nó hớn hở kể thầy nghe như đang kể về những chiến tích vĩ đại, vừa
nói vừa đưa tay vào túi lấy tập giấy và cây cọ. Bỗng đôi mắt mở tròn, da trên
trán nhăn lại, tay ngoáy ngoáy trong túi như đang tìm vật gì đó. Nó định thần
lại rồi khẽ buông tiếng thở dài. Hiểu ý, thầy cất tiếng:
- Tiểu thư của tôi hôm nay lại quên cọ tiếp nữa à. Tuần học có hai
buổi mà quên cọ cả hai lần.
- Cái tính này chắc thầy phải tập cho con trăm lần nữa mới thôi –
thầy tiếp lời. Ngồi đó đợi thầy vào phòng tìm xem còn cây cọ nào nữa không.
Thầy vừa đi vừa nói vọng lại với nó.
Nó bặm môi như đang tự trách chính mình sao lơ đãng, chẳng học được
một chút chu đáo, kĩ lưỡng của thầy. Nó nhìn theo dáng đi nhanh nhưng hơi khòm
xuống của thầy. Bất chợt dòng suy nghĩ miên man trong kí ức ùa về.
Nó - cô gái đến từ dải đất miền Trung. Quen chống chọi với cái khắc
nghiệt của những mùa bão lũ hay những trận gió Lào khô khốc, nên tính cách cũng
có chút ngang tàng. Nó bước vào ngưỡng cửa đại học với bao lạ lẫm trước cuộc
sống mới và sự khó khăn như bao sinh viên những tháng ngày đầu rời xa mái ấm
gia đình. Một năm đại học qua đi. Vui ít, còn lại chất chứa bao nỗi buồn. Buồn
nhất là nhớ nhà. Mười tám năm nó sống bình yên trong vòng tay chăm sóc của cha
mẹ. Giờ chỉ cần ai nhắc đến hai tiếng “cha mẹ” là nước mắt tự nhiên ứa trào.
Đứa bạn ngồi đối diện hốt hoảng như vừa làm điều gì sai lầm với nó. Một lát sau
nó mới bình tĩnh, giải thích vì nhớ nhà quá, nhớ cha mẹ! Năm thứ nhất đời sinh
viên trôi đi chậm chạp, lê thê tính tháng, tính ngày. Nó cũng nhờ tới trung tâm
gia sư và được giới thiệu dạy cho một em lớp 5. Phần để khuây khỏa, lấp trống
thời gian; phần kiếm thêm chút tiền phòng cho cha mẹ đỡ vất vả. Nó nhớ tới hai
nàng Kiều trong “Tỏa nhị Kiều” của Xuân Diệu và ngẫm thay mình cũng chẳng hơn
hai nàng là mấy. Tư tưởng không thông khiến việc học của nó không đạt kết quả
cao tương xứng với năng lực. Lại thêm tâm trạng muôn nỗi tơ vò, dường như nó
chỉ muốn sống với quá khứ, sống vì quá khứ và ảo mộng cùng những kỉ niệm. Thời
gian! Ôi chao “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Bỗng một ngày kia nó gặp thầy. Giấc ngủ đằng đẵng hoàn toàn được
đánh thức. Thầy đến! Mang cho nó luồng gió mát mẻ của tuổi trẻ, của khát vọng,
của lí tưởng. Chính thầy đã khiến nó từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người
mới. Hơn ai hết, nó cảm nhận được cái duyên kì ngộ với thầy. Hai con người xa lạ
đến từ hai miền quê xa xôi trên dải đất chữ S đã gặp gỡ và trở nên thân thiết.
Kể từ ngày gặp thầy, nó được sống là chính mình, được thể hiện hết khả năng bấy
lâu nó vô tình lãng phí. Cuộc sống của nó bị đảo lộn hoàn toàn. Còn đâu nữa
những ngày cuối tuần dài dằng dặc, ngoài việc đi dự lễ Chúa Nhật, còn lại giết
thời gian? Còn đâu những buổi chiều rảnh rỗi tựa cửa nhìn vô định lên bầu trời
xa xăm? Hay bao đêm nằm ôm gối khóc tức tưởi vì nhớ nhà? Không! Đó là nó của
quá khứ. Nó bây giờ đã trở thành một con người mới: năng động, nhiệt tình và
biết sống vị tha hơn. Chính thầy đã kéo nó vào guồng quay của cỗ máy tình yêu
và phục vụ. Những giờ học giáo lý bổ ích, những buổi sinh hoạt sinh viên, cuộc
gặp gỡ nói chuyện thân tình, những giờ ngoại khóa thú vị, được đi phát quà ở
trung tâm khuyết tật hay những mùa hè xanh đến với các em nghèo vùng biển… Thời
gian một ngày sao mà ngắn ngủi và nhanh qua đến vậy! Nó cũng muốn được như
thầy: một ngày kia sẽ đứng trên bục giảng, dạy các em nhỏ điều hay lẽ phải, đưa
các em vươn tới những chân trời mới đầy khát vọng và hoài bão, hướng dẫn các em
tìm về cội nguồn của Chân, Thiện, Mĩ.
- Đây rồi, may quá vẫn còn một cây. Hơi cũ một chút nhưng vẫn xài
tốt. Con cầm viết tạm hôm nay nhé. Hôm qua còn mấy cây, anh chị lớp trước mượn
về nhà hết rồi.
Nó chợt nẩy mình, đôi mắt tinh nghịch mừng rỡ như đứa trẻ nhận được
quà:
- Con yêu papa nhất! Cám ơn papa lắm lắm!
- Nãy giờ con đã suy nghĩ hôm nay viết chữ gì chưa?
- Dạ… Con mải nghĩ lại chuyện ngày xưa nên quên mất. Thầy tìm cho
con một chữ sao cho con khắc cốt ghi tâm ấy!
Thầy mỉm cười:
- Con vừa nói xong từ đó mà còn bảo thầy tìm giùm gì nữa?
Nó ngơ ngác không hiểu ý thầy.
- Con đã nói bao giờ đâu mà thầy cứ chọc con hoài.
- Chữ gần cuối con vừa nói lúc nãy là gì nhỉ?
- Chữ… TÂM phải không thầy?
Thầy mỉm cười, còn nó thì ngẫm nghĩ như vừa được khơi gợi, đánh
thức một điều gì đó thú vị lắm.
- Chắc con gái đã nghe về chữ “Tâm” nhiều lần rồi đúng không?
- Dạ, con nghe đã nhiều, cũng hiểu nhiều nhưng… ít lần suy nghĩ về
chữ ấy.
Giọng thầy nhẹ nhàng giảng giải thêm:
- Con học Văn nên chắc hẳn không quên câu thơ của đại thi hào
Nguyễn Du: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ
Tài”, hay người xưa có câu: “Chữ Tâm
độc tự thế mà hay. Thành bại nên hư bởi chữ này.” Con người ta sống với
nhau không thể thiếu chữ ấy con gái à, đặc biệt là xã hội hôm nay. Như con thấy
đó, nhiều bác sĩ vì thiếu chữ Tâm mà bắt bệnh nhân đợi chờ ngoài hành lang cho
đến tắt thở; có người khiến bệnh nhân chết lại còn phi tang xác, không để họ
chết thanh thản, toàn vẹn. Những con người lãng quên chữ Tâm mà bòn rút công
trình, gây ra bao hậu quả nghiêm trọng. Còn những bảo mẫu đánh đập tàn nhẫn,
chà đạp những em bé ngây thơ. Rồi chuyện cha mẹ đẻ giết con của mình, con giết
cha mẹ, có kẻ giết cả gia đình năm mạng người chỉ vì tham tiền, hay chuyện vì
ăn trộm một con vịt mà nỡ lòng giết chết hai em nhỏ… nham nhảm mọi thứ trên
đời. Thầy kể những chuyện tiêu cực ấy không phải để con thất vọng hay chán nản
với cuộc sống, nhưng để con thấy chữ Tâm đang bị sự đời gặm nhấm, bào mòn rồi
tiêu tan. Hơn bao giờ hết, chữ Tâm cần thiết theo sát cả cuộc đời của con. Biết
bao bậc vĩ nhân ghi danh lịch sử không chỉ bởi tài năng xuất chúng mà còn vì
tấm lòng cao thượng, tâm hồn sáng tựa vì sao. Con đang theo đuổi nghiệp giáo
nên thầy rất muốn con cảm nhận sâu sắc chữ này.
- Dạ, đôi lúc con đọc tin tức trên mạng những chuyện đau lòng như
thầy kể mà thấy chán ngán cuộc đời. Nhưng vẫn phải cố gắng sống tốt dù người
xung quanh có thế nào, với hi vọng “mỗi
ngày một cử chỉ đẹp góp phần cải thiện thế giới ngày một tươi đẹp hơn”. À
đúng rồi, thầy có nhắc con viết thư pháp đẹp là một chuyện, còn phải biết chọn
màu chữ sao cho nổi bật được ý nghĩa. Vậy chữ Tâm mình viết màu gì thầy nhỉ?
Màu đen như ngày thường được không?
- Hôm nay, thầy sẽ hướng dẫn con viết bằng kim tuyến chứ không viết
mực Tàu như bữa giờ nữa. Con là giáo viên tương lai nên cần đặt chữ “Tâm” lên
trên hết. Một cô giáo không thể hoàn thành tốt công việc của mình nếu không có
chữ ấy. Bây giờ thầy chọn cho con tờ giấy màu đen làm nền và hũ kim tuyến màu
hồng với ý nghĩa: giữa một xã hội với những cám dỗ đen tối đang bủa vây: tiền
bạc, danh vọng, địa vị… con vẫn phải sáng lấp lánh như những viên kim tuyến màu
hồng này trên phông nền đen tối ấy. Con gái hãy nhớ: chữ “Tâm” phải ở trên hết
và tỏa sáng chứ đừng để màu đen kia vùi lấp nhé con! “Tâm bất biến giữa dòng
đời vạn biến”. Con cố giữ lấy để sống phục vụ, yêu thương, sáng danh là người
con của Chúa, làm chứng cho Đức Ki-tô trong môi trường con sẽ sống và làm việc.
Mình là người Công giáo, Chúa đặt lương tâm như một lề luật để ta biết làm
lành, lánh dữ. Thầy hi vọng con gái sẽ giữ lấy những điều thầy nói.
“Ôi! Thầy đáng kính của con! Từng lời, từng chữ như in, khắc, chạm
sâu vào tâm trí con. Mỗi lời thầy dạy, là những giây phút con như được “đốn
ngộ” thêm nhiều điều. Hành trang con bước vào đời sẽ là kiến thức con học được
trên giảng đường và chữ “Tâm” kia của thầy”. Nó muốn thốt lên thật lớn trước
tấm gương đạo đức tuyệt vời của thầy. Xúc động, nó cất tiếng thủ thỉ:
- Con cám ơn thầy rất nhiều! Lời thầy giảng dạy, con xin mãi trọn
đời khắc ghi. Con sẽ cố gắng sống, phục vụ tha nhân hết khả năng của mình để
làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô. Dù lòng người đổi thay hay thế gian phũ
phàng, con gái vẫn tin tưởng chữ Tâm sẽ cảm hóa và biến đổi được tất cả.
Rồi thầy nhẹ nhàng hướng dẫn nó từng nét thanh, nét đậm, chỗ nhấn
hoặc nhấc cọ… Để rồi cuối cùng, khi rắc một lớp kim tuyến lên trên, chữ Tâm
thực sự nổi bật và tỏa sáng giữa phông nền đen. Thật tuyệt vời! Như ngọn nến
chiếu sáng giữa màn đêm đen tối của lòng người hôm nay!
Bài học ấy suốt cả cuộc đời nó sẽ không bao giờ quên. Bây giờ nó đã
đứng trên bục giảng, là người giáo viên thực sự rồi. Nó đang cố gắng thực hành
những lời thầy dạy năm xưa bằng cả tấm lòng yêu thương, chăm sóc học trò, bằng
những bài đạo đức về cuộc sống nó truyền lại cho thế hệ sau. Nỗi bâng khuâng,
hạnh phúc ùa về trong tâm trí khi nó nhớ về thầy:
Cám ơn thầy
đã cho con dòng chữ
Cho tình thương lai láng giữa dòng đời.
Mã số: 14-030
Đời người là một cuộc hành trình, là một chuyến đi dài, đi và đi
như thế nào đó là do mỗi người tự định đoạt lấy. Nhưng trên chặng đường ấy gặp
ai và phải đương đầu với việc gì thì đố ai biết được?
Tôi cũng như tất cả mọi người được giao cho chiếc bị với mớ hành
trang và quày quả bước đi. Hành trang là một khói óc, hành trang là một trái
tim và hành trang là tiếng thì thầm giục gọi của lương tâm. Nó như chiếc la
bàn, giúp tôi biết định hướng chuyến du hành đời mình.
Lúc còn bé con đường ta qua được trãi trước những miếng lót, có người
mai mắn thì đó là thảm nhung, có người kém mai mắn hơn thì đường lát bằng xi
măng, người kém mai mắn nhất thì trầy trụa với những bước trơn chợt từ thuở ấu
thơ. Nhưng tất cả đều phải bước đi trên con đường của riêng mình.
Dọc con đường đi, được gặp nhiều người với nhiều thái độ khác nhau,
vui tươi niềm nở mở lời chào, cái vẫy tay vội vả, môi mĩm nhẹ nụ cười, cái xiết
tay, thậm chí cái bám chặt tay đỡ nhau qua lối trơn sìn bùn.
Trên lối đi có nắng sớm, mưa chiều, có trăm hoa đua nở, có cỏ xanh
tươi, có đồng khô héo úa, có chim muôn ca hát và cũng không dè chừng thú dữ lăm
le.
Đi và đi như thế nào để cảm nhận hành trình cuộc đời mình hạnh phúc
và mang đầy ý nghĩa nhất là do có nhìn vào chiếc la bàn mà mình có sẵn trong
tay hay không?
Tôi lắm lúc ngủ gục trên từng bước chân mình, chiếc la bàn mất hút
khỏi tầm tay, con tim heo úa không nhựa sống, trí óc mòn mỗi vì những va vấp
đời thường, nên cảm nhận những bước chân lỏng lẻo, nhạt nhẻo khi bước đi.
Lúc đấy tôi gọi “Sa Mạc cuộc đời”
Làm gì khi bước vào sa mạc?
Đứng trước sa mạc mà mình phải băng qua có người đuối sức và cảm
thấy ngán ngẫm. Có người lại chùng chân, ao ước mình được đứng mãi dù trên thảm
cỏ xanh, hoặc ở lại trong túp lều trọ ven đường. Có người lại chọn giải pháp
rên rỉ, kêu gào khóc lóc. Còn không ít người cắn đến rướm máu đôi môi để chịu
đựng, giẩm lên cát nóng bỏng thậm chí cháy xém gót chân để băng qua.
Một giải pháp tròn trịa để tôi nhìn vào và bước đi đó là:
Một anh chàng chỉ 33 tuổi đã chọn việc ở lại sa mạc cuộc đời mình
bốn mươi đêm ngày để ăn chay cầu nguyện. Hay thật!
Việc ăn chay cầu nguyện đã thanh lọc tâm hồn Người, để rồi khi bước
ra khỏi đó bóng đêm ập đến, sự dữ vây tứ bề nhưng ánh sáng của vinh quang đã
bao trùm Ngài và chiếu tỏa, bóng tối dần dần bị mờ tan, bị đẩy lùi.Nhẹ nhàng
lướt qua thập giá đau khổ để tiến đến vinh quang phục sinh.
Dìm mình vào việc cầu nguyện, để hấp thụ những tia sáng, để thông
phần với Người, để được chia chát cái phần rực sáng, để được đánh dấu ấn, khi
bước vào bóng đêm tia sáng lại phát ra chiếu dọi lối đi. Và rồi cũng sẽ được
sống mãi trong ánh sáng phục sinh của Người.
Phải bước qua sa mạc cuộc đời lắm lúc như là một hồng ân vì có lầm
lũi bước đi trong bóng tối, mới biết học cách nổ lực đi tìm ánh sáng và muốn ở
lại mãi trong ánh sáng.
Có nếm cảm đau khổ, mới thấy cửa Vườn Giêt-xi-ma đang rộng mở mời
gọi nhân trần đến thông phần, đến chia chát lợi lộc.
Thánh giá nở hoa vì do Chúa tôi đã dùng chính máu mình tưới lên. Để
tôi đước đón nhận phần ân phúc ấy mà làm lộ phí trên đường đời!
Sa mạc đời người có héo úa hay nở hoa, là do tâm tình đón nhận!
BẢN
THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập
nhật cho cuộc thi lần thứ hai - 2014
GIẢI VIẾT
VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn Hóa và Truyền Thông Giáo phận Qui Nhơn
thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng của Chúa đến với
giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt Nam nhiều cây
bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi được ấn định
như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu
năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm trao giải một lần, năm thứ sáu (2018) dành
cho những người đã đạt giải trong các năm trước và trao giải tổng kết.
2. Cuộc thi dành cho
các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi
(năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40). Người đã đạt giải một lần, các
năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi. Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng
từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện
ngắn, mỗi truyện không quá 3000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng
tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gởi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một
tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của
người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại
và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài: Truyện cần
mang nội dung Kitô giáo, có tác dụng xây dựng đức tin cho Dân Chúa và loan báo
Tin mừng cho người chưa biết Chúa.
Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi, có
thể gửi chung một lần hoặc nhiều lần.
6. Chỉ nhận bài dự thi
qua điện thư email, gửi attach file với định dạng . doc (word), không nhận bài gởi qua đường bưu điện.
7. Đầu bài dự thi phải
ghi rõ: họ và tên, bút danh, năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo
xứ, giáo phận, số điện thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gởi nhiều email dự
thi, đầu mỗi bài đều cần ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không
được nhập hồ sơ dự thi.
8. Mỗi bài dự thi sẽ
được nhập hồ sơ theo lần gởi đầu tiên, mọi chỉnh sửa về sau đều không được chấp
nhận.
9. Địa chỉ nhận bài, xin
gởi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail. com và gopnhattho@yahoo. com.
10. Thời gian nhận bài:
trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi
năm sau.
11. Tưởng thưởng: Mỗi
năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh
hoạt như sẽ nói dưới đây.
12. Kết quả cuộc thi
hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
13. Lễ trao giải vào
ngày 22-9 mỗi năm.
14. Những tác giả được
vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp
mặt trao giải.
15. Các thông tin về
cuộc thi sẽ được đăng trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www. gpquinhon.
org và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
16. Các tác phẩm đạt
giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải
thưởng chính thức và 15 giải triển vọng. :
- một giải nhất: 20.
000. 000 $VN
- hai giải nhì, mỗi
giải 12. 000. 000
$VN
- ba giải ba, mỗi giải
8. 000. 000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi
giải 3. 000. 000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn
riêng
Ngoài phần
thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có nhiều truyện khác có giá
trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển tập riêng dưới 200
trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác
giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền giải thưởng và không
được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH
CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện
dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên mạng internet. Mời độc giả
tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải
nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ
được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và
hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
2. Giúp phát hiện
trường hợp sao chép
Những độc
giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép của người khác (xin ghi
rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về
dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ
Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ trợ tiền bạc hoặc
hiện vật cho cuộc thi xin gởi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116 Trần Hưng Đạo, TP
Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo. com – Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 21-9-2013
(Điều chỉnh ngày 04-10-2013)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá
Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa
Giáo phận Qui Nhơn