GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014
BẢN TIN 07
Thưa quý độc giả và quý tác giả,
Đến hết ngày 31-3-2014 Giải Viết Văn Đường Trường lần II đã khóa sổ
nhận bài, với tổng số 109 tác phẩm và 64 tác giả dự thi. Ở lần I chỉ có 51 tác phẩm
và 24 tác giả hợp lệ.
Sự tăng vọt hơn gấp đôi số tác phẩm và gần gấp ba số tác giả dự thi
là một khích lệ hết sức lớn cho Ban Tổ chức. Xin cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham
gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Cách riêng, xin chân
thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo, chính là nhờ sự hỗ trợ của
truyền thông mà chương trình này được biết đến và hưởng ứng. Chương trình sẽ
tiếp tục 4 năm nữa. Hy vọng sau 6 năm, Giải thưởng này có thể giúp các giáo
phận phát hiện những tài năng văn chương trẻ tuổi có chí hướng phát huy khả
năng để phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội.
Số các tác giả dự thi lần này đến từ 16 Giáo phận. Một số tác giả hiện
đang học, đang tu hoặc đi làm ở xa quê nhà, nhưng xét theo sinh quán thì con số
tác giả xếp theo các Giáo phận như sau:
- Bắc Ninh 5
- Cần Thơ 1
- Đà Lạt 1
- Đà Nẵng 1
- Hà Nội 2
- Hải Phòng 2
- Huế 3
- Hưng Hóa 2
- Kontum 4
- Nha trang 7
- Phát Diệm 2
- Qui Nhơn: 20
- Sài Gòn: 2
- Thanh Hóa: 2
- Vinh: 9
- Xuân Lộc: 1
Xin chúc mừng 19 tác giả gửi bài trước ngày 31-12-2013 được nhận quà:
Đaminh Hoàng Văn Quỳnh (Bắc Ninh), Madalena Đặng Hoàng Hương Giang (Kontum),
Eymardo Đỗ Xuân Tú (Sài Gòn), Mađalêna Nguyễn Ánh Hường (Phát Diệm),
Marie Paul Trần Thị Kiều Thu (Đà Lạt), Têrêsa Nguyễn Minh Thu (Hà Nội), Anna
Nguyễn Thị Duyên (Bắc Ninh), Anna Trần Thị Sứ (Cần Thơ), Micae Trần Văn Hiển
(Vinh), Maria Trịnh Thị Huyền Trân (Qui Nhơn), Trần Duy Thành (Phát Diệm), Maria
Nguyễn Thị Hiền (Thanh Hóa), Anê Trần Thị Cẩm Lệ (Qui Nhơn), Maria Đặng thị
Ngọc Hạnh (Sài Gòn), Anna Phạm Thị Thanh Tuyền (Qui Nhơn), Giuse Phạm Đình Duy
(Nha Trang), Anna Nguyễn Thị Phượng (Bắc Ninh), Đaminh Nguyễn Văn Thiển
(Bắc Ninh), Nguyễn Bích Hạt (Bắc Ninh). Tác giả FX Lê Quang Thạch (Qui Nhơn) có
bài dự thi mang số 50 và tác giả Trần Thiên An (Xuân Lộc) có bài dự thi mang số
100 cũng được nhận quà đợt này. Chúng tôi sẽ gửi quà qua đường bưu điện.
Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 7 truyện dự thi mới. Xin mời quý độc
giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn,
truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn?
Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền
xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới
thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi
phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gửi sau cùng của mỗi người.
Xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác
đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.
Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả
chúng ta.
Qui Nhơn, ngày 02-4-2014
Thay lời Ban Tổ chức
Linh mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 14-041
Thằng bé mãi miết chạy…Nó cứ cắm đầu chạy mà không thèm nhìn lại sau
lưng mình hay ít nữa là dưới chân…Nó vẫn chạy…
– Á..á…á
Chân nó đã chảy máu một ít, tay vội vàng nắm lấy chỗ đau, ở cái chỗ
mà giờ đây đã sưng tấy lên và ngả màu tím nhạt giống như màu của bầu trời hôm nay.
Chiều nay, Giáng Sinh về trên xóm nhỏ này…
Mùa đông năm nay về trên vùng đất này muộn hơn. Tuy nhiên những cơn
gió lạnh tràn vào trong dịp lễ Giáng Sinh cũng đã len lõi vào tận ngõ ngách của
mọi gia đình. Cái lạnh buốt thấu xương còn hằn cả vào trên khuôn mặt của người già
và trẻ con. Ngày đêm từng cơn gió phả đến vùng đất này cũng bình thản, không
mấy hối hả giống như cuộc sống con người ở đây.
Hôm nay, áp ngày lễ Giáng
Sinh, gió lạnh tím ngắt cả một vùng trời. Từng đám mây thu mình lại níu kéo
nhau di chuyển cứ như là cho đỡ lạnh. Thằng nhỏ chân cà nhắc chạy vội vào nhà.
Mẹ nó đang áp đầu vào cái lò than vừa nhen tí lửa. Bà ra sức thổi, thằng nhỏ
đứng sau lưng thở hổn hển. Bà quay lại giật mình:
– Thằng quỷ này, mày làm mẹ giật mình đó, có chuyện gì mà thở dốc rứa?
Bộ bố mày về à?
Thằng nhỏ đứng một lúc rồi mà vẫn còn thở mạnh. Miệng lắp bắp, lời nói
đứt quãng nghe cũng chẳng rõ:
– M..ẹ…r..a…đây..mà..xem!
Mẹ nó bình tĩnh hỏi lại:
– Thì có chuyện gì nói từ từ cho mẹ nghe đã.
– Đầu…làng…mà thôi..mẹ..cứ..đi theo con ra đây sẽ rõ.
Hai vợ chồng bà lấy nhau cũng đã được gần hai chục năm rồi. Họ về sống
với nhau từ cái ngày Xóm Mới còn ở dưới vùng trũng thấp đầu làng. Gọi là ông bà
có vẻ đã già lắm rồi nhưng thật ra năm nay ông Ca chồng bà cũng chỉ tròn bốn
mươi, còn bà thì kém ông hai tuổi. Thế nhưng nhìn khuôn mặt của hai vợ chồng bà
thì có gọi là ông bà cũng chẳng có ai phản đối gì. Cuộc sống lam lũ của gia
đình đã hằn dấu trên khuôn mặt của cả hai vợ chồng. Sự vất vả của đời thường vô
tình đã bóp chết những ước mơ của đôi vợ chồng trẻ khi cùng nhau ước nguyện
trong ngày lễ cưới. Đôi khi nó lại còn mang đến cho vợ chồng bà những nỗi đau
chôn giấu trong lòng không nguôi.
Khi thằng út ra đời được một năm thì ở Xóm Mới có phong trào đi Tây
Nguyên làm cà phê rất rầm rộ. Người người trong xóm kéo nhau “
– Thở một tý đã… Có chuyện gì mà bắt mẹ mày chạy khiếp rứa?
Bà Ca đứng lại vừa thở vừa hỏi thằng út. Thằng út chẳng buồn trả lời,
trông nó cũng mệt lắm nhưng vẫn cố gắng nắm lấy tay mẹ nó mà chạy.
Càng về chiều gió càng mạnh. Từng cơn gió khẽ rít lên bắn rung cả những
đôi môi tím nhạt của từng người. Không khí Giáng Sinh ở Xóm Mới cũng chẳng khác
ngày thường là bao. May ra thì cũng chỉ được ở ngay đầu cổng vào xóm và trong
ngôi thánh đường có treo hai ngôi sao dán hình Chúa Hài Đồng mà thôi. Lũ trẻ
trong xóm với những bộ quần áo cũ kỹ quen thuộc vẫn đang chơi đùa vô tư trong
khuôn viên nhà thờ. Trời lạnh, chẳng có mấy ai buồn ra ngoài đi dạo. Chao ôi!
Quá khó để người ta có thể túm lấy một chút không khí Giáng Sinh cho riêng mình
ở cái xóm đạo này. Gió lượn qua từng kẽ lá, gió vẫn rít lên từng hồi... Gió mơn
trớn cả những đôi má không ngượng ngùng…
Thằng nhỏ dẫn mẹ nó ra ngôi nhà nhỏ bỏ hoang đầu làng thì dừng lại.
Có vẻ như đây là địa điểm mà nó muốn mẹ đến tận nơi. Đến lúc này bà Ca vẫn chưa
thể hiểu điều mà thằng con của bà định nói. Không kịp cho bà lấy lại sức, nó nắm
vội tay mẹ, nhẹ nhàng kéo tấm chiếu ở ngay thềm nhà bung lên. Một cô bé rách
rưới nằm co ro như dấu chấm hỏi hiện ra trước mắt bà. Một chút thất thần không
đủ làm cho bà Ca sợ hãi, bà nhận ra cô bé vẫn còn sống, dù chỉ là sống thoi
thóp như ngọn đèn trước gió. Một luồng điện giật đi ngang qua cơ thể. Bà khẽ
run lên. Miệng bà lắp bắp mãi không thành lời.
Đôi tay lóng ngóng như người mới tập việc, bà Ca cởi chiếc áo của mình
khoác lên “dấu chấm hỏi” ấy. Cô bé vẫn bất động. Bà lấy tay ấn mạnh vào huyệt
nhân trung, cô bé khẽ rít lên một hơi ngắn rồi bị chặn lại. Thằng út vẫn đứng
đó. Nó không sợ hãi. Nghĩ lại lúc chiều trong lúc chạy ra ngôi nhà hoang bứt lá
me về cho mẹ nấu canh nó vô tình thấy một cô bé ăn xin rách rưới nằm trên thềm
mà khiếp đảm luôn. Không ngoái đầu lại, không kịp bứt lá me cho mẹ, nó chạy như
gặp phải ma. Giờ đây thay vì sợ hãi nó thấy thương cho cô bé.
Bà Ca lấy hết sức mình xốc cô bé lên tay, nhẹ nhàng rời khỏi ngôi nhà
hoang. Bóng chiều cũng đã dần buông. Tiếng chuông điểm 6 giờ của nhà thờ đã vang
lên, lao vào không trung như muốn xé toạc không khí ảm đạm của buổi chiều Giáng
Sinh. Hình ảnh ngôi nhà hoang lạnh lẽo đang khuất dần sau lưng hai mẹ con.
Bà Ca đặt cô bé nằm xuống chiếc giường của ba đứa trẻ, bảo thằng út
chạy qua nhà bà Tâm bác sỹ mua mấy viên thuốc và nhờ bác ấy lại nhà chuyền dịch
cho cô bé. Bà hối hả bảo thằng bé chạy thật nhanh kẻo không kịp. Thằng út cắm đầu
cắm cổ chạy. Nó chạy vội vàng, hấp tấp chẳng khác gì lúc chiều. Ngoài trời, màn
đêm đang dần buông xuống, cơn gió lạnh vẫn không quên rít lên từng hồi…
Cô bé được bà Tâm và bà Ca ra sức cứu chữa nên chỉ độ một giờ đồng hồ
đã tỉnh lại. Cô chợt giật mình khi thấy mình đang nằm trên một chiếc giường có
chăn ấm, thứ mà đã lâu lắm rồi cô bé chưa một lần được mơ ước. Xung quanh cô lại
có những khuôn mặt mà cô chưa một lần gặp mặt, nhưng toát lên một ánh mắt yêu
thương.
Bà Tâm ra về. Trước khi về, bà còn dặn cứ để cô bé nằm yên đó, lát nữa
lấy nước nóng xoa đều khắp cơ thể và cho nó ăn một chút cháo…
Bà Ca mang nồi nước ấm lên trên nhà, lúc này nhà chẳng còn ai, mấy đứa
nhỏ ăn vội bát cơm xong đã chạy ra nhà thờ hết. Bà đỡ cô bé dậy.
– Bây giờ để dì tắm cho cháu nhé, phải sạch sẽ để đi lễ Giáng Sinh nữa
chứ!
Bà vừa nói vừa tháo chiếc áo cô bé đang khoác trên mình xuống. Bà Ca
cầm trên tay chiếc áo mà run run, đôi mắt đỏ hoe. Bà nhúng vội chiếc khăn vào
nồi nước ấm như muốn che giấu đi cái cảm xúc đó của mình. Bà khẽ lau từng chút
một, nhẹ nhàng và cẩn thận. Bà làm cái việc ấy như thể bà quên mất rằng đây chỉ
là một cô bé ăn xin mình vừa gặp. Những đứa con của bà nhiều khi chẳng được mẹ
của chúng làm như vậy, thế mà giờ đây…
Bộ quần áo của con gái bác cả tuy không mới lắm nhưng có vẻ vừa vặn
với dáng người của cô bé. Khi đã khoác lên mình bộ đồ mới, đầu tóc được bà Ca bối
lên cao, nhìn cô bé không còn dáng vẻ gì của một đứa trẻ ăn xin nữa. Trước mắt
bà giờ đây là một cô bé đã có nét xinh xắn của một thiếu nữ với nước da đậm và
khuôn mặt trái xoan. Đôi mắt đen long lanh không giấu nỗi một số phận hẩm hiu,
vất vả. Tuy nhiên qua đôi lúm đồng tiền khi cô bé cười, bà nhận thấy một con
người trong sáng và đầy nghị lực nơi cô bé.
Bà Ca mang bát cháo đã được hầm rất kỹ lên cho cô bé. Mùi thơm của làn
khói nóng tỏa ra từ bát cháo làm cho không khí thêm ấm cúng. Đôi mắt cô bé nhìn
chằm chằm vào đôi tay của bà Ca làm mắt bà đỏ hoe lên. Ánh mắt là ngôn ngữ chứa
đựng những cảm xúc. Con người không nhất thiết phải nhìn nhau mới thấy nhau.
Người ta có thể nhìn thấy nhau qua con tim biết yêu thương hướng về nhau.
Trong ngôi nhà nhỏ bên sườn đồi, ánh đèn đã được thắp lên xóa tan cái
lạnh giá của màn đêm mùa đông… Bà Ca mang nước ấm rửa lại mặt cho cô bé. Bà nhìn
đôi mắt đen tuyền của cô bé, đôi mắt ấy bà có cảm tưởng đã bắt gặp ở đâu đó
rồi. Đôi mắt quen lắm mà sao bà chẳng thể nhớ nỗi, cũng chẳng thể gọi tên. Cô
bé cũng đáp lại bằng một ánh mắt thân thương chất chứa một nỗi buồn xa thăm thẳm
trong tận trái tim bé nhỏ của mình. Một cơn gió lạnh chợt ùa vào căn nhà nhỏ,
cả hai giật mình nhận ra họ đang nhìn nhau, cái nhìn từ khi nào không ai biết.
Bà Ca gấp vội chiếc khăn nhẹ nhàng hỏi:
– Con tên gì?
– Con không biết nhưng chỉ thấy bà gọi con là Nụ.
– Thế nhà con ở đâu? Bố mẹ con đâu cả mà để con phải lang thang một
mình thế? Lỡ có chuyện gì thì làm sao?
Cô bé khẽ cúi đầu xuống thấp. Im lặng. Căn nhà chỉ nghe thấy tiếng thở
không đều nhịp của hai người phụ nữ.
– Nhà con…nhà con xa lắm… Mà không phải… con không có nhà.
– Không có nhà thì con sống với ai?
Bà Ca hỏi vội vàng như một phản xạ tự nhiên mà bà không thể kìm
nén.
– Con sống với bà, nhưng bà đã mất tháng trước. Con không biết ở với
ai nên phải đi xin ăn khắp nơi. Chiều nay con tạt đến xóm này nhưng vì lạnh và
đói quá mà ngất xỉu đi khi nào không biết nơi ngôi nhà hoang.
Giọng nói của cô bé vẫn còn ấp úng nhưng ánh mắt của nó cho bà biết
rằng nó không nói dối. Bà Ca hạ giọng một cách chậm rãi:
– Thế bố mẹ cháu đâu rồi?
Cô bé lắc đầu:
– Cháu không có bố mẹ.
– Không có bố mẹ nghĩa là thế nào? - Có vẻ như bà Ca hỏi trong vô thức,
bà cũng chẳng biết tại sao bà hỏi điều đó nữa.
Cô bé ngập ngừng:
– Cháu… Cháu bị lạc mất mẹ trong một buổi đi chợ xuân khi còn nhỏ. Sau
đó, cháu được một bà góa mang về nuôi. Hai bà cháu sống với nhau trong một túp
lều cho đến khi bà bị bệnh mà mất.
Bà Ca nghe đến đó thì toàn thân bà nổi cả da gà, chắc là chẳng phải
tại cơn gió lạnh. Lúc này thì hình như bà không thể kiềm chế nỗi cảm xúc của mình
nữa rồi. Bà hỏi vội:
– Cháu năm nay bao nhiêu tuổi?
– Dạ, bà nói con mười lăm tuổi rồi!
Đôi mắt của cô bé tròn xoe nhìn thẳng vào con người không đứng vững
của bà Ca. Bà thở một cách dồn dập, tim bà đập nhanh hơn bình thường. Bà cố gắng
giữ sự bình tĩnh nhưng không thể. Trái tim bà như đang bị đốt cháy. Bà không
biết chuyện gì nhưng bà có một linh cảm về điều gì đó thay đổi trong con người
mình. Đã lâu lắm rồi từ ngày lạc mất con, tim bà không đập nhanh đến vậy, hơi
thở của bà cũng không gấp gáp đến vậy. Bà nhớ lại ngày bà lạc mất cái Hoa, đứa
con gái đầu của bà. Ngày đó con bé chỉ chưa đầy bốn tuổi, bà lạc mất nó trong
một lần mang nó đi tham dự một hội chợ xuân ở làng bên. Nỗi đau đó đã dằn vặt
con tim của cả hai vợ chồng bà không khi nào nguôi. Bà đã cố tìm mọi cách để
tìm đứa con gái nhưng không có chút hy vọng. Ngày đêm bà thầm cầu xin Chúa cho bà
được tìm thấy con gái mình. Dù đã hơn mười năm bà chờ đợi điều đó trong vô vọng
nhưng chưa bao giờ bà mất hy vọng, dù nhiều khi hy vọng đó của bà mong manh như
ngọn đèn leo lét trước gió. Bà nhìn Nụ. Bà nghĩ nếu nó còn sống chắc nó cũng to
lớn bằng cái Nụ rồi. Một tia sáng lóe lên trong suy nghĩ của bà…
Bà cúi xuống kéo chiếc ống quần bên trái của Nụ lên ngang đầu gối. Bà
xoay người cô bé lại, hình như đang cố gắng tìm kiếm cái gì đó. Mắt bà sáng lên
màu hy vọng như đốm lửa tàn được đổ thêm dầu. Cô bé không hiểu bà Ca định làm
gì nhưng vẫn cố gắng đứng yên vậy. Nước mắt bà Ca không giấu nỗi cảm xúc nên cứ
chảy giàn giụa. Đôi mắt đỏ ngầu tròn xoe nhìn chằm vào vết bớt tròn màu đỏ nằm
ngay sau bắp chân của cô bé.
Gió ngừng thổi, cánh cửa ngừng kêu, một không khí im lặng bao trùm lấy
căn nhà…
– Con… con có vết bớt này từ khi nào?
Bà Ca hỏi không tròn tiếng.
– Vết bớt đó con có từ khi sinh ra, mà sao dì lại hỏi con chuyện ấy?
Cô bé trả lời trong nỗi thắc mắc lớn lao. Cô chẳng thể hiểu vì sao bà
Ca lại xem chân của mình? Vì sao lại hỏi về vết bớt của mình như vậy? Vì sao bà
lại khóc?...Tất cả những ngờ vực đó nó không thể tự mình trả lời được.
Bà Ca ôm cô bé vào lòng mình mà khóc nức nở. Tiếng khóc của nỗi đau
bị dồn nén, tiếng khóc của niềm hy vọng mong manh, tiếng khóc của những ngày tháng
dằn vặt lương tâm, tiếng khóc của niềm vui hạnh phúc. Bà thốt lên trong nghẹn
ngào, giọng nói của bà quyện tròn vào những giọt nước mắt lăn trên má.
– Mẹ…mẹ…là mẹ của con đây. Có thể khuôn mặt của con mẹ không nhận ra
nhưng vết bớt này thì chỉ có con gái mẹ có mà thôi.
Cô bé hình như không nghe thấy điều bà Ca nói. Nó vẫn đứng yên trong
vòng tay của bà. Nó không nói được điều gì cũng đúng thôi bởi giờ đây trong đầu
óc nó còn đang ngổn ngang những thắc mắc. Nó không hiểu nổi chuyện gì đang xảy
ra với mình. Mọi thứ xảy ra quá nhanh và có vẻ hơi phức tạp để nó có thể hiểu
ra vấn đề. Miệng nó mấp máy định hỏi điều gì đó nhưng không thể.
Hai đôi mắt cay xè lên vì vị mặn chát của những dòng nước mắt. Hai người
ngồi bên nhau trong những dòng nước mắt hạnh phúc và ngờ vực. Bà Ca nghẹn ngào
kể lại ký ức đau buồn của bà cái ngày bà lạc mất con. Câu chuyện bà kể thỉnh
thoảng lại bị chặn đứng bởi những dòng cảm xúc chảy ra không ngăn nổi. Hai đôi
tay đã nắm với nhau từ khi nào không ai biết. Cái Nụ như chết lặng đi. Nó để
vậy, mặc cho những niềm hạnh phúc chưa sáng tỏ trong suy nghĩ của nó đang dần
khỏa lấp những khoảng trống trong tâm hồn
nó.
Tiếng thở đêm đè nặng trong căn nhà. Tiếng nói bớt dần nhường chỗ cho
sự thinh lặng. Họ thinh lặng nhưng thật ra họ nói với nhau thật nhiều.
Tiếng chuông nhà thờ vang lên xóa tan bầu không khí tĩnh lặng trong
căn nhà nhỏ. Lấy vội tay gạt những dòng nước mắt lăn trên má, hai người nắm tay
nhau đến nhà thờ với những tâm tình ngổn ngang trong lòng…
Mã số: 14-042
Tôi rời giáo xứ ba năm rồi, nơi lần đầu tiên trong đời tu, tôi đi mục
vụ. Nhưng có dịp đi ngang giáo xứ là tôi ghé nhà chú. Ngôi nhà cách quốc lộ Hai
Sáu khoảng 300 m, cách nhà thờ 2000 m, thấp lè tè, nằm sát mé sông Zin. Từ quốc
lộ Hai Sáu, rẽ vào con hẻm, đi dọc theo bờ đê khoảng 30 m thì rẽ trái, đi một
đoạn lại rẽ phải, sau đó rẽ trái và chạy theo con đường nhỏ đến mép sông thì
tới nhà chú.
Ghé nhà chú, tôi không bao giờ gọi trước cho chú, khi thì gặp chú, khi
thì chỉ có cô (vợ chú) làm rau sau vườn.
Bữa nào ghé nhà chú, tôi cũng nằm tòng teng trên chiếc võng buộc giữa hai cây
dừa bên hông nhà. Cái võng luôn treo sẵn, dù trời mưa hay trời gió nó vẫn nằm
đó, chú sợ tháo đem vào khi mưa thì quên không buộc lại, lỡ tôi vào không có
võng nằm. Đến nhà chú, tự dưng tôi thấy đầu óc thanh thản, đời tu của mình bỗng
dưng nhẹ nhàng và có một chút thánh thiện nào đó.
Lần này chú vắng nhà, chỉ có vợ chú nhổ cỏ rau sau vườn. Như mọi lần,
tôi dựng xe bên hông nhà rồi lặng lẽ nằm lên chiếc võng với cuốn sách “Hạnh Phúc
Trong Tầm Tay”. Gió ngoài sông thổi nhẹ theo từng cơn, tôi gấp sách nhìn theo
mấy cái lá sầu đông rơi chao rất mỏng xuống sân. Tiếng líu lo gọi bầy của mấy
con vành khuyên đuổi nhau trong vòm lá làm tâm trí tôi buông thả không chút vấn
vương. Ở nhà thờ, đôi khi tôi muốn nghe tiếng chim rượt nhau mà không được. Nhà
thờ nằm ngay trung tâm thị xã, sân toàn bê- tông, chỉ mấy chậu bon-sai thấp chủn
lấy đâu ra bóng mát, lá xanh cho chim rượt đuổi.
Chừng 7h30, hai “thằng nhóc” con chú chơi ở nhà thờ về. Thấy tôi, chúng
mừng húm, thằng em lật đật chạy ra sau vườn kêu hớn hở:
– Mẹ, thầy nghé nhà mình.
– Hồi nào? - Cô hỏi lại thằng nhỏ.
– Chắc lâu rồi, con không biết.
Cô bước nhanh tới cái võng, mớ cỏ đang nằm trong tay:
– Thầy tới lâu chưa?
– Dạ, mới hồi nãy. Chú đi đâu rồi cô?- Tôi hỏi cô.
– Anh đi cắt lúa cho bà Sáu, trưa về. Thầy ở chơi, con ra sau vườn
đã.
– Dạ, con ở đây với hai đứa nhỏ được rồi.
Cô lấy chú và theo đạo. Hai vợ chồng cưới nhau cũng được mười lăm năm,
siêng làm hết biết, vợ thì quần quật với vườn rau, chồng thì ngoài vườn rau ra,
ai thuê cuốc cỏ, gặt lúa, xa tít trên Ninh Thượng, Ninh Trang gì cũng làm, miễn có tiền là được. Thế mà cuộc
sống vẫn nghèo. Mười lăm năm lấy nhau thì non cũng mười năm gia đình chú phục
vụ nhà thờ. Chú làm ca trưởng ca đoàn lớn, ba năm trước, được giáo dân bầu vào
Hội đồng giáo xứ, hai đứa con giúp lễ lúc còn
bé tí đang học lớp ba, lên lớp bảy thì đánh đàn nhà thờ, cả nhà chú tham
gia Hội tận hiến. Ở nhà thờ, công việc gì chú cũng làm: Mùa Giáng Sinh thì làm
Hang Đá, đóng kịch, treo cờ... Mùa Chay thì lên núi chặt lá vạn tuế cho Chúa Nhật
Lễ Lá. Trang hoàng, sửa sang cái gì cũng có mặt chú. Nhiều khi “lợi dụng” sự
nhiệt tình của chú, thay đất chậu cây, tôi cũng nhờ chú. Hình như thời gian với
chú chia làm ba phần, một phần làm việc ở nhà, một phần đi làm thuê cho lối
xóm, phần còn lại làm việc không công cho nhà thờ. Nhiều khi tôi nghĩ bậy “Chú
nghèo có khi nào là vì phục vụ nhà thờ không hen?”. Người ta nói, nếu thời gian
đi lễ ở nhà thờ, sinh hoạt nhà thờ mà để đi làm thêm thì kiếm được không ít
tiền.
Tôi bần thần trước mâm cơm trưa nhà chú. Những thức ăn gợi cho tôi nhớ
một hình hình ảnh rất quen thuộc của ngày xưa, đã hơn chục năm rồi tôi mới gặp
lại: nồi cơm nhỏ, một đĩa nhỏ rau muống luộc với chén mắm nhỏ xáy ngang vài trái
ớt đỏ, một tô canh bầu và mấy con cá rô đồng nhỏ đựng trong cái đĩa cũng nhỏ.
Nhìn tôi bần thần, chú ngạc nhiên:
– Sao vậy thầy?
– Dạ... - Tôi đáp.
– Ăn cực quá phải không?
Hôm nay, thấy tôi bần thần trước bữa cơm, nên chú hỏi vậy thôi, chứ
lần nào ở lại nhà chú ăn cơm, tôi cũng thấy thức ăn vậy cả: không rau luộc thì rau
sống ngoài vườn, không cá rô đồng thì cá cơm... và tất cả đều đựng trong những
cái đĩa nhỏ này. Giữa trưa, gió ngoài sông thốc từng cơn qua vách đất mát rượi,
tôi và chú hướng mắt về phía tiếng gió rít nơi ô cửa sổ đã rớt cánh lâu rồi,
chú cười:
– Nhà con có cái quạt gió đã quá phải không thầy?
– Dạ - Tôi cười theo chú. - Ngồi “giữa đồng”, ăn thức ăn đồng còn gì
bằng nữa chú!
Chú cười phá lên theo tôi. Vợ chú cũng cười giòn theo:
– Ban đêm, nằm ngủ gió mát lắm thầy ơi, cửa mở toang hoang mà chẳng
sợ ăn trộm.
– Có cái gì đâu mà... - Chú nhìn vợ cười.
Cô pha bình trà, đem đặt trên cái bàn gỗ mốc meo đặt dưới góc cây bưởi
mà tôi với chú ngồi sẵn ở đó. Hai thằng nhỏ không ngủ trưa, nghe tôi với chú
nói “dóc”. Mà sức mấy nó ngủ được, thấy tôi là tụi nó mừng lắm, bữa nào tôi ghé
nhà, tụi nó đều không ngủ trưa. Mặt trời treo lơ lửng trên ngọn sầu đông để rớt
những vạt nắng xuống đám cỏ tre trên ruộng khô. Đám ruộng đó mấy năm trước chú
trồng lúa. Mười mấy năm qua, gia đình chú sống tạm đủ với cây lúa, nhưng không
có của để dành. Bà con xóm này mỗi năm một khá giả lên, năm thì sắm ti vi, năm
thì sắm đầu đĩa, tủ lạnh, nhà nào khá hơn thì xe máy, xây nhà. Còn gia đình chú
xưa nay vẫn nghèo, vẫn cái ti vi cà dịch cà tàng đang xem giữa chừng thì sọc
ngang nhấp nháy trên màn hình, phải đập bình bịch vào thùng ti vi mới có hình,
chiếc xe Dream cà quèn dùng đi lại tạm bợ suốt mấy năm trời không thấy đổi. Chú
quyết định đổi cây trồng, may ra dưa hấu sẽ giúp chú đổi đời. Làm vụ dưa đầu
tiên, gia đình chú cầu nguyện liên lỉ, mong cho dưa lớn nhanh được năng xuất,
được giá. Ước nguyện cũng được Chúa nhậm lời. Vụ dưa năm đó, không kể vốn liếng,
chú kiếm được hai chục triệu. Gia đình chú mừng hết biết, chú lên kế hoạch đổi
ti vi màn hình phẳng cho vợ con xem, sửa sang lại nhà cửa.... Đùng một cái, vợ
chú nhập viện vì ung thư bướu cổ. Chú đưa vợ đi từ bệnh viện này đến bệnh viện khác, cuối cùng phải phẩu thuật. Thế là toi
hết hai chục triệu.
Vạt cỏ tre trên ruộng mọc ngỗn ngang, dập dờn, ngã nghiêng theo cơn
gió kéo mắt tôi với chú về với nó. Nhìn vạt cỏ ngổn ngang, tôi hơi ngạc nhiên. Chưa
bao giờ chú để đất trống, hết vụ lúa là chú gieo hạt bắp bán tết, chờ ra năm là
trồng vụ lúa mới. Chú đọc được sự thắc mắc trong ánh mắt ngơ ngác của tôi, chú
giải thích: “Thầy biết đó, năm trước, vụ dưa lời hai mươi triệu, nhưng rồi bệnh
hoạn xảy ra, thế là toi hết, xem như mất trắng một mùa dưa”. Giọng chú chùng
xuống, nghẹn ứ, đôi mắt đục lại, rồi chú tiếp lời: “Năm vừa rồi, con tiếp tục
trồng lại vụ dưa, cũng mong cho được mùa. Cả nhà thao thức với đám dưa, thấy
dưa bò phủ luống là vui, có nhành nào quắn lá thì cũng rầu theo nó, bỏ ăn bỏ
ngủ với nó, bao nhiêu công sức, hy vọng đổ vào đám dưa. Nhờ ơn Chúa, dưa tốt vùn
vụt, qủa mỗi ngày một lớn. Giá dưa gần tết lại tăng cao. Mười ngày nữa là thu
mùa dưa thì trời đổ mấy cơn mưa xuống, quả dưa căng tròn rồi nứt vỏ. Vậy là mất
trắng một vụ nữa thầy”. Nghe chú kể mà
tôi thấy mắt mình cay cay, hình như có cái gì đó rơi vào mắt. Vậy là, tết vừa
rồi, gia đình chú đón một cái tết teo héo, buồn thỉu buồn thiu. Trồng dưa may
ra cuộc sống khá lên một tí, ai ngờ hai năm trồng dưa, một năm được mùa thì bệnh
hoạn ập đến, năm khác lại mất trắng tay. Nghèo vẫn nghèo.
– Năm nay không xoay xở ra tiền để trồng dưa lại, đành để cỏ mọc vậy
đó thầy. Thong thả ít tháng nữa, con vay bà con ít tiền trồng lại lúa, vụ mùa
năm sau con sẽ trồng dưa lại, chẳng lẽ mất mùa hoài.
Tôi lặng im không nói. Hồi lâu, tôi hỏi:
– Chú có buồn Chúa không?
– Buồn chuyện gì thầy? - Chú ngơ ngác nhìn tôi.
– Chú phục vụ nhà thờ nhiệt thành như vậy mà Chúa chẳng trả công gì
hết, chú nghèo miết.
– Chà... Chúa lấy cái này thì Chúa cho lại cái khác mà thầy. Mấy người
ngoại đạo xóm này cũng hay nói, thấy con đi nhà thờ hoài mà nghèo miết, có khá
lên chút nào đâu. Con nghĩ, gia đình hạnh phúc là được rồi!
Ừ gia đình chú hạnh phúc thiệt. Chưa bao giờ nghe vợ chồng chú cãi vã
nhau, xưng hô anh-em ngọt như mía đường. Nhiều khi đang làm việc nhà, cha sở gọi
là chú bỏ việc xuống nhà thờ mà vợ chú không cằn nhằn một tiếng, có khi lại bảo
chú đi nhanh kẻo cha chờ. Ở giáo xứ mà có được ba người như chú thì cha sở hạnh
phúc biết mấy. Tôi nhìn sang hai đứa con chú. Hai đứa mặt hiền, đẹp như chú, da
thì trắng như mẹ. Đứa nào học cũng giỏi, học trường thị xã mà chẳng học thêm gì
hết, vậy mà năm nào cũng lãnh thưởng.
Tôi nhìn ra vạt cỏ trên đám ruộng, nghĩ: Không biết vụ dưa sang năm
sẽ sao đây? Hy vọng vụ dưa sang năm sẽ đem lại hạnh phúc cho gia đình chú, hy vọng
Chúa sẽ không để chú buồn nhiều.
Mà, dù có hai, ba, bốn... vụ
dưa trắng tay, chắc gì chú đã bất mãn Chúa như mình nghĩ ta? Biết đâu với chú, hạnh
phúc là vợ hiền, là con ngoan, là được phục vụ Nhà Chúa. Ừ, chú đã nói, Chúa
lấy cái này thì Chúa cho cái khác mà.
Mã số: 14-043
– Chỉ là một lần gặp mặt để thỏa tâm nguyện của người sắp từ giã cõi
đời này thôi mà. Người dưng nước lã mày còn không nỡ nhẫn tâm để họ buồn, tại
sao người đó là bậc sinh thành của mày, mày lại không muốn tha thứ. Mày…mày… làm
vậy quá đáng lắm rồi đó! – Minh nói như gào thét vào tai An Nhiên.
– Ừ, mình quá đáng đó. Họ không đáng để được tha thứ. Mình muốn họ phải
đau khổ, phải trả những gì họ đã gây ra cho mình. Họ chỉ biết vì bản thân, họ
đâu nghĩ cho mình, thì hà cớ gì giờ phút này mình phải nghĩ cho họ. Nếu yêu, nếu
quý mình thì sao từ bỏ mình, sao ngày đó bà ấy nhẫn tâm như vậy được thì giờ
đây cần gặp mình để làm gì. Bao nhiêu năm nay chẳng phải bà ấy chẳng cần biết
mình có tồn tại hay không sao. Bây giờ gặp để làm gì chứ? Muốn nói lời xin lỗi
thì gọi mình tới nói là xong sao, xin lỗi thì bù đắp hết những năm tháng mình
trải qua sao, có cha có mẹ mà như trẻ mồ côi. Cậu có biết cảm giác đó không
hả?” - An Nhiên đáp trả Minh bằng cái lí lẽ đã dùng hơn bao nhiêu năm qua, dù
cũ nhưng không thể chối cãi đó là sự thật. Minh chỉ có thể thở hắt một hơi dài
thườn thượt, tiếng thở dài là tuyên bố đầu hàng, cũng là sự cảm thông dành cho
An Nhiên đáng thương.
Một buổi sáng sau đêm mưa giông nặng hạt, mọi vật còn chưa kịp bừng
tỉnh, người ta nghe thấy tiếng khóc oe oe của trẻ con, tiếng khóc mỗi lúc càng yếu
dần. Vừa hé cánh cửa để đi thăm ruộng sau trận mưa xem có bị vỡ bờ, Chú Tư ngạc
nhiên khi nhìn thấy đứa bé con đặt trong chiếc thùng giấy nhỏ trước cửa. Chú ẵm
đứa bé lên, nhìn những vật trong chiếc thùng, ánh mắt ngạc nhiên chuyển dần
sang u buồn, rồi là sự hằn học giận dữ, ánh mắt đó sắc lạnh dần dần.
Người phụ nữ đứng nhìn từ xa, cô quay lưng bước đi khi nhìn thấy người
đàn ông đã ẵm đứa bé vào nhà. Cô đâu biết đó là lần cuối cô được nhìn thấy đứa
con của mình.
Đứa bé một tháng tuổi được đặt trước cửa đó chính là An Nhiên. Không
thể gọi là bị bỏ rơi vì người phụ nữ đó chính là mẹ, còn chú Tư chính là cha
của An Nhiên.
Giữa hai người đó đã xãy ra cãi vã, vì xung đột mẹ An Nhiên bỏ về nhà
ngoại nó khi bụng mang dạ chửa, sắp tới ngày sinh nở. Có lẽ vì động thai, bà
sinh non An Nhiên, đứa bé thiếu ngày yếu ớt như không được chào đón lúc ra đời.
Cha An Nhiên đã không đến thăm hai mẹ con sau cuộc cãi vã đó, cho dù ông biết
con mình đã chào đời không suông sẻ.
Vì muốn chồng nhường một bước, chịu mở lời nói một tiếng mong bà quay
về, mẹ An Nhiên đã mang con đến và đặt trước cửa nhà cha cô. Cứ ngỡ rằng vì con
thơ khát sữa, đói lòng nhớ mẹ mà ông sẽ tìm bà, nào ngờ ông tuyên bố thẳng thừng,
bà không cần con nhỏ, nhẫn tâm bỏ lại như vậy thì ông sẽ nuôi. Tự ái lại gặp tự
ái, nhân lên gấp bội, hậu quả là chẳng ai nhường ai bước nào. Thời gian cứ trôi
đi như vậy, An Nhiên lớn lên trong vòng tay của người cô, nhưng lại gọi cô là
“mẹ”. An Nhiên ôm mối hận bậc sinh thành mà lớn lên. Sự thiếu hụt tình thương
của mẹ, sự giận dữ vô cớ của cha, tất cả tích góp làm nên sự ngang bướng, chai
sạn về tình cảm trong cô.
An Nhiên cứ hận nếu cô muốn, bởi vì có hận, hay giận thì vẫn cứ bình
lặng sống, nhưng thật trớ trêu thay, bao năm vết thương không lành nhưng đã
thôi rỉ máu đó lại trở mình làm An Nhiên đau đớn. Mẹ ruột của cô bị bệnh, khi
biết mình sắp sửa vĩnh biệt cõi đời này, bà chỉ còn tâm nguyện duy nhất được
nhìn nhận đứa con gái năm xưa. Hết người này đến người khác cố gắng thuyết phục,
nhưng tất cả đều vô vọng, khi An Nhiên dường như đã đóng tất cả các cánh cửa
quay về, cô không chấp nhận tha thứ cho người mẹ hay cả người cha, dù sống chung
nhà nhưng không bao giờ nhìn cô bằng ánh mắt thiện cảm. Bởi với lí lẽ bất chấp
của mình, An Nhiên cho rằng cả hai người đó đều đã từng không cần cô, thì cô
cũng không cần tình cảm của họ.
Khi những người đưa tang cuối cùng ra về, từ phía xa cô gái tiến lại
gần nấm mộ mới, người nằm dưới đó là mẹ cô, nhưng cảm xúc hiện tại cô không biết
đó là gì, là ghét, là hận, là thương hay là buồn. An Nhiên cứ đứng vô hồn như
vậy, ánh mắt đăm chiêu nhìn vào không trung vô định, chẳng màng đến cơn mưa đang
mỗi lúc thêm nặng hạt. Bên tai vang lên những từng lời Kinh Thánh vô tình nghe
vừa rồi… “Dưới
đất con cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất con tháo
cởi điều gì, thì trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” (Mt 16,18-19). Đoạn Kinh Thánh
đó thật sâu xa. Cô tự hỏi, có phải vì điều này mà đến cuối cuộc đời mẹ cô lại
mong được tha thứ, khao khát được cô chấp nhận như vậy, nếu cô cứ nắm giữ, cứ
bỏ quên đi hai tiếng tha thứ thì bà ấy có được yên nghỉ không. Chợt cô rùng mình
khi nghĩ sự cầm giữ của cô thật nhẫn tâm biết bao, bà ấy vô tình đưa cô đến sự
bất hạnh, còn cô cố gắng đưa bà ấy đến bến bờ của đau khổ. Chiếc nút thắt trong
lòng là không muốn tháo hay là không thể tháo. Phải chăng sự cầm giữ này có làm
cô hả hê cho cơn giận hơn hai mươi năm qua? Là sự trả thù cho sai lầm hay là
đang tự dày vò chính mình? Cô đuổi theo dòng suy nghĩ bất tận của mình mà không
biết có người đã đứng bên cạnh cô rất lâu. Chiếc ô đen to xòe che chắn
cho cô, người cầm ô là người “xa lạ” cô chưa từng tiếp xúc nhưng thừa biết đó
là ai. Cậu cô đã đi đến bên cô tự lúc nào cô không hay biết. - “Giầm mưa thế
này con sẽ bị đau đó!”. Tiếng ông trầm, giọng nặng trĩu nỗi buồn, tiếng nói đó
phá tan sự tĩnh lặng đến đáng sợ giữa hai người. – “Con chịu đến đây có phải đã
tha thứ lỗi lầm cho mẹ con rồi không? Bà ấy rất ân hận về quyết định ngày đó,
bao năm qua bà ấy luôn cảm thấy có lỗi với con”.
– Hối lỗi thì được gì, có bù đắp được sự thiếu thốn cho tôi không? Nếu
bà ấy nghĩ đến tôi, thì bao năm qua sao không đến tìm tôi sớm hơn, sao không
trở về chăm sóc cho tôi? Đã muộn rồi. - An Nhiên chua xót nói.
– Con đừng nghĩ vậy, ai cũng có lỗi lầm mà, ngày đó mẹ con còn trẻ,
cũng ngang bướng như con bây giờ. Đã có nhiều lần mẹ con về thăm con nhưng chỉ có
thể đứng nhìn từ xa, bà ấy không đủ can đảm gặp con.
– Không đủ can đảm hay là không thể từ bỏ lòng tự ái của bà, bà ấy và
cả cha tôi cũng giống nhau mà thôi, họ sợ tổn thương lòng tự trọng của họ chứ
đâu nghĩ tôi bị tổn thương. Thật ra thì họ cũng đâu xem tôi tồn tại, vốn dĩ tôi
là nhịp cầu để nối họ lại, nhưng tiếc thay tôi lại là nhịp cầu gãy, chẳng đủ
quan trọng để… – Câu nói chưa dứt, An Nhiên chợt bắt gặp dáng người quen thuộc,
ánh mắt cô chạm phải ánh mắt như quen mà lạ lẫm, đó là cha cô, ông đứng cúi
mình phía xa sau những hàng bia. Chắc có lẽ ông định quay đi nhưng lại bị cô
nhìn thấy. Cuộc hội ngộ không mong muốn của những người không nên gặp nhau. Cậu
An Nhiên chỉ khẽ gật đầu tỏ ý chào cha cô khi ông tiến lại gần hai người. An
Nhiên chợt nhận ra nơi khóe mắt cha vẫn còn vương ánh nước ngấn đọng, có lẽ ông
vừa khóc khi tiễn đưa người đã từng là vợ mình, chả trách ánh mắt xót thương,
đau buồn đó lạ lẫm với cô. An nhiên bất ngờ vì bao năm qua cô luôn nghĩ người
đàn ông này phải rất hận vợ mình, vì bà để cho ông gánh nặng như vậy, cô là
“món nợ” mà cha cô mỗi lần say vẫn mắng nhiếc hết lời. Từ khi hiểu chuyện, An
Nhiên đã thấy thái độ ghét cay ghét đắng của cha với mẹ ruột cô, ông cũng gieo
cả niềm hận thù đó vào cô, bằng những trận đòn không rõ lí do, bằng những cái
bạt tai nảy lửa khi cô vô tình nhắc tới bà ấy, bằng cả sự vô tâm lạnh lùng đến
tàn nhẫn.
Không có nhiều lời để nói cùng nhau, họ cứ đứng lặng như vậy, có lẽ
mỗi người đang nói chuyện cùng người đã khuất. An Nhiên toan quay bước ra về thì
cậu cô chợt nắm lấy tay cô: “An Nhiên, con đợi một lát, mẹ con có gửi cho con
một kỷ vật, bà ấy rất quý nó, bà ấy muốn ta trao nó lại cho con”. Ông đưa An
Nhiên một chiếc giày vải màu hồng đã sờn bạc màu vải, nhưng vẫn rất xinh xắn với
những đường thêu kim tuyến vàng và ánh bạc đan xen.
– Tại sao bà ấy vẫn giữ chiếc giày đó? – Cha cô thốt lên đầy bất
ngờ. Đôi bàn tay run run, ông rút từ túi áo ra một chiếc giày vải giống y hệt –
Đôi giày vải này bà ấy thêu từ ngày mới mang thai con, lúc mang con đến nhà ta,
trên chân con chỉ mang một chiếc giày vải, ta đã nghĩ chiếc còn lại đã bị đánh
rơi.
Cầm đôi giày vải trên tay, cô gục ngã vỡ òa nức nở, bao giọt nước mắt
kiềm nén bấy lâu. Giọt nước mắt có ngôn ngữ riêng của nó, đó là niềm vui xúc
động, là nỗi buồn chất chứa nhưng cũng có lúc nó thay cho lời cảm ơn, xin lỗi
và cả thứ tha. Người ta không biết trời đang khóc hay là An Nhiên khóc, tiếng
mưa đan lẫn tiếng nấc nghẹn ngào. Một chiếc giày vải là vật vô dụng nhưng khi
thành một đôi nó đã thật sự có ý nghĩa.
Trong mê man của cơn sốt, An Nhiên lâng lâng cảm nhận sự nhẹ nhàng như
bay bổng không trọng lượng, ánh sáng chói lóa khi một cánh cửa mở ra làm cô hoa
mắt, nơi đẹp đẽ này tựa Thiên đường. - “Dưới đất con tháo cởi điều gì, thì trên trời cũng
sẽ tháo cởi như vậy”. Tiếng nói trầm bổng đó là tiếng Chúa hay là tiếng
lòng của An Nhiên? Hình ảnh nhạt nhòa phía xa như mờ ảo nhưng rất chân thực,
bàn tay bé xíu của một cô bé nắm lấy bàn tay của người phụ nữ và người đàn ông,
họ quay lại nhìn cô với nụ cười hạnh phúc. Cô bé mang đôi giày vải hồng xinh
xắn bước nhanh như nhảy chân sáo, khuôn mặt hồng lên theo mỗi bước chân. An Nhiên
mỉm cười cùng họ, lòng cô thanh thản khi trút đi gánh nặng của sự hận thù.
Cùng rửa tội với An Nhiên là những em bé mới ba tháng tuổi, có cha có
mẹ đi cùng, nhưng An Nhiên không ganh tị với chúng, bởi lẽ cô biết mình cũng đã,
đang và sẽ được yêu thương. An Nhiên và cha thực hiện di nguyện cuối cùng của
mẹ. Cô tìm cho mình lẽ sống mới, cô sẽ mở lòng mình để đón nhận yêu thương, cho
đi yêu thương. Cảm nhận rõ sức sống mới đang căng tràn, cô như được sinh ra lần
nữa, lần này là làm con Thiên Chúa. Còn cha cô đi “chuyến tàu trở về”, ông trở
lại con đường của Đức Tin sau bao năm sa ngã. Có lẽ người ta nghĩ đã muộn mằn
để gia đình cô sum họp, nhưng cô biết nơi nhà Chúa này gia đình cô đã sum họp
và sẽ luôn như vậy.
Mã số: 14-044
“Cuộc sống thật rắc rối!”. Đó là vào một buổi chiều cuối hè, ngồi trong
quán cà-phê với ly đen đá, nhìn những dòng người tấp nập qua lại, nó nói với
chính mình như vậy.
v
Năm nay nó tròn 22 tuổi, tốt nghiệp loại giỏi ngành Tin học của Đại
học Sư phạm Quy Nhơn. Nó sống đơn giản và thẳng tính: có sao nói vậy, thấy chuyện
bất bình là góp ý, thấy điều tốt nên làm là làm. Tốt nghiệp xong là nó hớn hở
đi tìm nhiệm sở. Nghe trường nào có chỉ tiêu là nó nộp hồ sơ vào, dù trường Trung
học cơ sở hay Phổ thông trung học. Nó nhận được cú điện thoại của Hiệu trưởng
một trường Trung học cơ sở hẹn gặp ở quán cà-phê.
Nó đến trước, chọn một chổ ngồi gần cổng ra vào và gọi đen đá. Chủ quán
là người Công giáo. Nó yêu cầu đổi nhạc. Bản nhạc “Và con tim đã vui trở lại” của
Đức Huy là bài nó muốn nghe. Lời bài hát du dương, rải khắp quán làm cho khách cảm giác một ngày mới
thật ý nghĩa, và chính nó cũng thấy cuộc đời thật đẹp, cũng có hy vọng vào cuộc
gặp mặt với vị Hiệu trưởng. Nó nhìn đồng hồ, quá giờ hẹn 10 phút, nó vẫn bình thản
chờ đời. Chuông điện thoại reo:
– Em đến chưa?
– Dạ rồi, em ngồi một mình, bàn số 1, trước cửa ra vào.
Vị Hiệu trưởng cúp máy, chìa tay ra, cười xả giao:
– Chào em.
Nó cũng cười và bắt tay Hiệu trưởng. Hiệu trưởng đầu tóc láng cóng,
đóng thùng lịch lãm, cái bụng hơi nhô ra phía trước làm dáng đi thêm bệ vệ. Sau
vài câu chào hỏi thủ tục, vị Hiệu trưởng hỏi:
– Em tốt nghiệp loại giỏi?
–
Dạ.
–
Bảy chục.
–
Sao thầy? - Nó ngơ ngác nhìn Hiệu trưởng.
–
Trung bình thì một trăm hai mươi, khá chín chục, còn giỏi bảy chục triệu.
Nó
chết lặng mất mấy giây.
–
Em không nghĩ mình phải đút bì thư để được đi dạy! Xin rỗi, thầy hẹn sai người
rồi.
Thời
sinh viên nó lý tưởng ngành sư phạm lắm, nhưng không ngờ ra trường mới thấy những
tệ nạn tham ô vẫn xảy ra trong trường học. Vậy là một cuộc hẹn không thành
công. Và hai, ba... cuôc hẹn nữa vẫn không thành công.
Bố
nó nói, để bố nó tìm một vài người quen nhờ đi “cửa sau” cho ít tốn kém. Nhưng
nó một hai là không đồng ý. Nó nói làm vậy thì mất bản chất tốt đẹp của người
thầy giáo. Nghe nó nói, anh nó cười mỉa mai:
–
Thời đại này mà còn nói đến bản chất, không đút lót thì “tết đồi bắp” mầy mới
có chổ dạy!
–
Không có nhiệm sở thì thôi. Thầy giáo mà đút lót thì làm sao đứng trên bục giảng
dạy học sinh sống đẹp.
Đã
gần ba tháng hè trôi qua, không có nơi nào gọi. Nó biết không còn hy vọng nào hết.
Ở thị xã này khó có việc làm lắm. Anh nó tốt nghiệp Cao đẳng quản trị kinh
doanh, tìm không ra việc, đành làm nhân viên trong nhà sách. Nó quyết định vào
Sài Gòn xin việc công ty, không cần lương cao, đúng chuyên ngành là được.
Lễ
chiều Chúa Nhật xong, mọi người đã ra về, nó muốn ngồi lại trong nhà thờ thêm một
chút nữa, tìm một chút thư thái, một chút bình an cho tâm hồn trước khi vào Sài
Gòn tìm việc. Cuộc sống Sài Gòn lắm bon chen, xô bồ. Nó cũng có ý định vào Nha
Trang tìm việc, nhưng ở thành phố du lịch nhỏ bé này, kiếm việc rất khó, lương
lại thấp. Chiếc đồng hồ chỉ 18h, nó rời khỏi Thánh Đường. Mặt trời đã hụp sâu
dưới những toà nhà cao tầng, hoàng hôn bắt đầu rớt xuống thị xã, mọi người ra
đường mỗi lúc một đông. Tiếng còi xe inh ỏi xen lẫn trong những tiếng nhạc ở
các quán cà phê tạo nên một âm thanh huyên náo của một thị trấn trẻ đang đà
phát triển. Trước tầm nhìn của nó, mọi người đang nháo nhác xúm lại, nó cũng
chen vào xem chuyện gì. Một cậu thanh
niên trạc tuổi nó nằm bất động, mặt mũi tèm lem máu. Chiếc xe Air Blade nằm vỡ
bể bên thành cầu. Nạn nhân điều khiển xe chạy với vận tốc khoảng 60km/h định vượt
mặt xe tải, tới gần, thấy khoảng cách chật quá, nạn nhân thắng vội, chiếc xe
chài bánh đụng vào bánh sau xe tải. Tài xế xe tải đã bỏ chạy cùng với chiếc xe.
Mười phút trôi qua, nạn nhân vẫn nằm đó, có kẻ bảo gọi công an, có người bảo gọi
Taxi nhưng chẳng thấy ai rút điện thoại ra cả. Nó ngập ngừng hồi lâu rồi rút điện
thoại gọi Taxi, loay hoay đưa nạn nhân lên xe đi Nha Trang cấp cứu. Lục lọi hồi
lâu mới tìm thấy hai chữ mẹ yêu trong danh bạ điện thoại của nạn nhân, nó gọi
điện báo tin cho mẹ yêu của nạn nhân sau khi nạn nhân được đưa vào phòng cấp cứu.
Nó được Taxi chở về lại hiện trường, nơi nó đưa nạn nhân đi khi người nhà nạn
nhân chưa đến.
Về
tới nhà thì trời tối om, cả gia đình đang chờ cơm tối. Nó phấn khởi giải thích
việc về trể cơm tối với gia đình. Nó kể hớn hở một cách tự hào cho gia đình về
việc tốt đã làm trên đường đi lễ về. Bỗng nhiên ông anh nhìn thẳng vào nó, quát
lên một tiếng:
–
Ngu, mọt sách, ngớ ngẩn!
–
Sao? - Nó mở tròn mắt, ngơ ngác nhìn ông anh.
–
Rước hoạ vào thân, chứ giúp người cái gì.
–
Rước hoạ vào thân là sao ?
–
Cả trăm người không ai đem đi cấp cứu, mầy lơ ngơ xen vào làm gì? Vào trong đó,
bác sĩ bắt kí giấy tờ là người thân nạn nhân, có phải rắc rối không? May mà
không có chuyện gì, nếu nó chết thẳng đường thì sao? Chết, công an tới tìm mầy
điều tra, có phải mất thời gian hầu chực công an không? Rồi bây giờ, mầy được
cái gì? Rảnh thì để thời gian đó mà đi tìm việc!
–
Ai cũng nghĩ như anh, đến khi anh bị tai nạn ai cứu?
–
Mầy lo xa quá.
–
Thôi, cũng đáng làm. Ăn cơm đi! - Ba nó nghiêm giọng.
v
Gió
thổi thật nhẹ chỉ đủ làm những cái lá me vàng úa rời khỏi cành, đậu nhẹ trên
chiếc bàn mộc. Tiếng nhạc cà phê du dương hợp với cái nắng chiều đang buông xuống
thị xã. Nó hớp một ngụm cà-phê, nghĩ về một buổi tối hoàng hôn đã qua: “Người
ta xúi nhau gọi Taxi, xúi nhau đưa nạn nhân đi cấp cứu nhưng chẳng một ai làm cả.
Có lẽ người ta sợ phiền phức, có lẽ chỉ có kẻ mọt sách mới làm ngớ ngẩn vậy
chăng?”. Thế là xong, một việc làm chẳng biết kết cục, chàng thanh niên, nạn
nhân hôm tai nạn, nhà ở đâu, giờ sống hay là chết? Một việc làm đi vào dĩ vãng, chẳng ai biết
người “hùng” đưa nạn nhân đi cấp cứu hôm bị tai nạn là ai, nhà ở đâu, nó cũng
không nhân được một lời cám ơn.
–
Làm việc tốt thì bị chửi ngu, đi dạy thì phải đút lót. Cuộc đời thật rắc rối. -
Nó thở dài.
–
Chà ưi… Mình làm việc tốt thì người khác làm lại cho mình, đong đấu nào thì
Chúa trả lại đấu nấy. Tính toán làm gì! - Nó nghĩ vậy, rồi đặt ly đen đá xuống
bàn mộc, gọi chủ quán tính tiền và ra về chuẩn bị hành lí cho chuyến đi vào Sài
Gòn.
Nó
mang một ba lô nặng trĩu, định ra đón xe vào Sài Gòn, nhưng nhìn đồng hồ vẫn
còn sớm. Nó vừa ngồi xuống trước phòng khách thì một chiếc xe hơi bốn chổ dừng
bánh trước sân. Một người đàn ông ăn mặc sang trọng đi với anh công an phường,
nó biết anh công an này, những dịp về hè, nó hay đi đánh banh cho phường nên hầu
như cán bộ trên phường nó đều biết hết và người ta cũng biết nó.
–
Chú này là bố của nạn nhân bị tai nạn ngoài cầu mà em đã đưa vào Nha Trang cấp
cứu. - Anh công an nói.
–
Chú cám ơn cháu. - Người đàn ông vui vẻ nhìn nó.
–
Sao chú biết là cháu?
–
Chú nhờ mấy anh trong phường tìm.
–
Cái phường bé tẹo này ai làm gì mà không biết em. - Anh công an nhìn nó cười.
–
Con chú sao rồi? - Nó tỏ vẻ quan tâm tới nạn nhân.
–
Bị chấn thương nhẹ trên đầu, gãy xương hông và mất máu nhiều, nhưng giờ tính mạng
thì ổn rồi, vài hôm nữa là xuất viện. Nó là con trai duy nhất của gia đình chú,
học quản trị kinh doanh, năm thứ hai Trường Đại học Kinh tế. Nó đi Ban Mê thăm
đứa bạn, đến đây thì bị tai nạn. May mà có cháu đưa đi kịp thời, không thì toi
mạng rồi. Gia đình chú cám ơn cháu. - Người đàn ông vừa nói vừa đưa nó một phần
quà và một bì thư kẹp theo.
–
Ồ, em nó ổn là cháu vui rồi, còn phần này cháu để lại cho em nó bồi dưỡng. - Nó
nói và đẩy phần quà về phía người đàn ông.
–
Cháu nhận cho chú vui, còn bồi dưỡng cho em nó thì gia đình chú không thiếu đâu.
–
Thôi thì cháu nó nhận phần quà, còn bì thư này anh giữ lại. - Bố nó vừa nói vừa
đặt cái bì thư vào tay người đàn ông.
–
Cháu định đi đâu mà mang ba lô nặng thế? - Người đàn ông hỏi nó.
–
Dạ, vào Sài Gòn tìm việc?
–
Cháu đã tốt nghiệp gì chưa?
–
Dạ, Tin học, Đại học Sư phạm Quy Nhơn.
–
Sao không đi dạy?
–
Trường nào cũng đòi tiền hết, mà cháu nó lại không chịu đưa phong bì. Cháu nó
nói thà đi làm ở ngoài còn hơn là đi dạy mà phải đút lót, mất tư cách người thầy.
- Bố nó thở dài tỏ vẻ trách móc sự ngang bướng của nó.
Người
đàn ông ngập ngừng hồi lâu:
–
Chú có một người quen, Giám đốc Công ty điện máy ở Nha Trang, đang tuyển nhân
viên phần mềm vi tính. Cháu vào đó nộp hồ sơ thử xem, mấy ngày nữa là xét hồ sơ
đó. Gần nhà vẫn hơn cháu à!
* * *
Một
cô gái mặt buồn thiu bước ra từ phòng phỏng vấn. Vậy là cơ hội vẫn còn cho nó,
công ty chỉ tuyển hai người thôi.
–
Bộ phận này, ngày làm hai ca 9 tiếng, sáng và chiều, lương một tháng 6 triệu,
tăng dần theo bề dày thời gian và khả năng làm việc. - Người phỏng vấn nhìn nó.
–
Dạ. - Nó tỏ vẻ bất ngờ, mức lương gần gấp đôi lương của một giáo viên mới ra
trường như nó. Mức lương ở thành phố Nha Trang vậy là cao hơn nó nghĩ nhiều.
–
Ở đây, chúng tôi trả lương cao nhưng đòi hỏi khả năng làm việc cũng rất cao. -
Người phỏng vấn giải thích khi đoán được sự bất ngờ của nó qua nét mặt.
–Theo
bạn thì ngày nay, điều gì quan trọng nhất cho giới kinh doanh. - Người phỏng vấn
hỏi nó.
–
Tôi nghĩ là chữ tín.
–
Rất đúng. Trong cuộc sống, tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên tôi lại
nhiều lần nản chí với những khó khăn đó. Bạn có bao giờ gặp khó khăn gì không?
–
Tôi cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng tôi không giống anh. Gặp khó khăn, tôi không
hề nản chí, bằng mọi giá tôi phải vượt qua nó.
–
Có thể kể cho tôi trường hợp bạn gặp phải ?
–
Khi tôi còn là sinh viên năm thứ ba, thầy giáo ra bài tập về nhà cho chúng tôi.
Trong số bài tập đó, có một câu rất khó, dành để kiếm điểm 10. Tôi suy nghĩ mấy
hôm mà không làm được, tất cả sinh viên lớp tôi đều bỏ cuộc câu này. Tôi nghĩ,
bài tập dành cho sinh viên nghĩa là người sinh viên có thể làm được, cuối cùng,
tôi lên mạng và nghiên cứu cách giải. Sau một tuần, tôi đã giải ra được.
–
Tốt, chúng tôi nhận bạn, tuần sau bạn sẽ bắt đầu công việc.
* * *
–
Chúc mừng cháu, trên kia chú đã nghe và quan sát hết cuộc phỏng vấn của cháu.
Công ty này là của chú đó. - Vị khách sang trọng hôm đi với anh công an phường
bước xuống bậc thang, chìa tay chúc mừng nó.
–
Chú! - Nó kêu lên một tiếng, rồi ngơ ngác nhìn vị Giám đốc. - Mà chú nói xạo
nghen!
–
Thì chú cũng đang tuyển nhân viên mà, nếu nói nơi này là của chú thì chắc gì
cháu nộp hồ sơ.
–
Phỏng vấn toàn hỏi cái gì đâu không à? Không thấy hỏi chuyên môn gì hết trơn,
chú nhận cháu trước khi phỏng vấn phải không?
–
Làm gì có! Ở đây là vậy đó cháu, trả
lương cao, tương xứng với khả năng làm việc để giữ chân nhân viên. Chỉ nhận những
người tốt nghiệp khá, giỏi. Chuyên môn thì ai cũng có hết rồi, hỏi làm gì. Khi
làm ở đây, có những thứ phát sinh không nằm trong phần học ở trường, đòi hỏi
chuyên viên phải có ý chí và sáng kiến. Mà điều này, cháu đã trả lời một cách
tuyệt vời khi phỏng vấn. Cháu xứng đáng
làm trong Công ty của chú. Nói cho đúng là thằng con chú may mắn gặp cháu, cháu
may mắn gặp chú và chú cũng may mắn tuyển được một nhân viên giỏi, có ý chí như
cháu.
Cuộc
phỏng vấn đã xong, nó quay về nhà với tâm trang phấn khởi, vui mừng. Con đường
đèo Nha Trang - Ninh Hoà này nó đã đi qua không biết mấy lần rồi. Con đường vẫn
những nắng, những cây mọc dọc theo triền núi, những gió mát mang hơi nước của
biển nhưng hôm nay nó thấy đẹp và dễ chịu làm sao.
Thêm
một lần nữa, trong bữa cơm, nó hớn hở kể về cuộc phỏng vấn. Anh nó bảo: “Mầy thật
may mắn”. Và nó nghĩ: “Kẻ ngớ ngẩn đã gặp may mắn chăng?”.
Mã số: 14-045
Anh tài xế vội đạp phanh, thắng gấp. Mọi người trong xe chúi về phía
trước. Tiếng trách móc của người lớn, tiếng ré khóc của trẻ con vang lên làm
náo động cả xe. Bên ngoài tối đen, lác đác những vì sao lấp lánh cao xa vời vợi
của bầu trời cuối năm. Ánh sáng nhờ nhợ từ những ngôi nhà hắt ra đường tạo thành
bức tranh sáng tối cả một đoạn đường dài. Liên bước xuống xe. Cái lạnh từ đâu
kéo đến quấn lấy Liên, làm thân hình nhỏ bé của cô co ro, dù cô đã mặc áo thật
dày. Liên không thể nhấc bước liền vì hai chân tê cứng sau một thời gian khá
dài ngồi xe. Cậu lơ xe đang lấy những túi quà to từ gầm xe xuống cho Liên. Xong
đâu đó, xe từ từ lăn bánh, anh tài xế còn kịp cười trừ và nói một câu: “Xin lỗi, anh quên mất!”.
Nhìn con đường lên nhà thờ của người Bahnar, rồi nhìn hai túi quà to
kềnh càng, Liên hơi uể oải. Cơn gió cuối đông cứ bám riết lấy Liên, làm Liên run
lên cầm cập. Dường như có tiếng reo hò, dường như người ta đang chuẩn bị đốt
lửa trại. Thế là cô đã không kịp đến dự trọn vẹn đêm canh thức Giáng Sinh với
anh chị em đồng bào như đã hứa với cha Công chánh xứ. Liên cảm thấy mình có lỗi.
Giá như anh tài xế không quên, giá như xe không bị thủng lốp dọc đường thì Liên
đâu có lỗi hẹn với người ta.
Bỏ qua mọi sự bực bội trong lòng, Liên ì ạch vác hai túi quà kềnh càng
đi về phía ngôi thánh đường, nơi người ta đang quây quần bên đống lửa tí tách,
thơm mùi cây khô. Càng đến gần, cô thấy rõ hơn dòng chữ trên băng-rôn được căng
lên phía đầu nhà thờ “Xô Chơt Rơneh Jêxu”
và hai bên cung thánh đơn sơ “Ư ang Bă Yang oei tơ
plẽnh” “Duh
Xơnêp kơ kon bơngai tơ teh” (Sau này hỏi ra mới biết đó là “Mừng Chúa
Giáng Sinh” và “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người
thiện tâm”).
– Này bạn, bạn cũng đến dự lễ Giáng Sinh với họ à?
Liên đang miên man trong những dòng suy nghĩ về con người nơi đây thì
một giọng con trai vang lên đằng sau làm Liên giật mình. Ngoái đầu lại, một anh
thanh niên trạc tuổi anh Hai của cô đang chậm rãi bước sau Liên, nhẹ nhàng. Thở
phào, Liên lẩm bẩm bực bội: “Nếu không
phải ở xứ lạ thì tôi đã cho anh lĩnh một cước rồi, cứ y như mật thám không
bằng!”. Liên cũng cố gắng mỉm cười đáp lại lời của anh con trai lạ mặt.
– Vâng, tôi lên đây tham dự lễ Giáng Sinh với bà con.
– Bạn cũng có đạo?
– Vâng, tôi theo đạo Công giáo. Còn anh?
– Ưm… ưm… tôi… cũng đạo Công giáo.
– Trời! Đạo Công giáo thì nói đạo Công giáo, làm chi mà anh rụt rè dữ
vậy! Anh cũng đi dự lễ à?
– Ừ! Tôi… cũng… cũng đi dự lễ.
– Anh là dân bản địa?
– Ừ, tôi người ở đây!
– Sao anh không đi sớm, giờ cũng muộn một chút rồi.
– Tôi… tôi bận xíu việc ở cơ quan nên không đến kịp.
Những câu trả lời ngập ngừng, úp mở, không dứt khoát của anh thanh niên
làm Liên nghi ngờ. Liên thầm nhủ: “Hừ, Công
giáo gì mà lạ vậy trời! Thôi kệ, đề phòng trước đã, ở đây có bà con buôn làng
mà sợ gì”. Gần đến sân, Liên dừng lại không vào chung vui. Liên không muốn
phá vỡ bầu khí náo nức của bà con, bởi Liên vẫn còn xa lạ với họ. Hơn nữa Liên
cũng đã mệt vì cuốc bộ hơn một cây số với lỉnh kỉnh những quà. Người thanh niên
mới quen cũng dừng lại, đứng gần bên Liên.
– Anh không vô đó hả?
– Không! Tôi ngại…
– Có chi mà ngại? Nếu không vì đến trễ thì tôi đã “bon chen” với bà
con rồi.
– Thì tôi cũng giống như bạn.
Liên mỉm cười nhìn anh thanh niên mới quen và thầm nhủ: “Khôn thật!”. Mặc cho anh thanh niên lúng
liếng nhìn ngang nhìn ngửa với những ý dò xét, Liên bình thản ngắm những điệu múa
rất riêng của người Bahnar. Bên ánh lửa bập bùng trong đêm giá rét, trong tiếng
cồng chiêng, tiếng t’rưng rộn rã, người Bahnar cầm chặt tay nhau, cùng nhau hát
lên những bài hát bằng ngôn ngữ của họ để ca tụng Thiên Chúa. Trên gương mặt họ
ánh lên những niềm vui khôn tả. Có lẽ đây là lần đầu tiên Liên cảm nhận được
một bầu khí Giáng Sinh rất riêng, rất đặc trưng mà chỉ có ở vùng truyền giáo
này. Liên nhớ lại những mùa Giáng Sinh trước, những mùa Giáng Sinh trên đất Sài
thành hoa lệ. Liên đã dự lễ Giáng Sinh ở nhiều giáo xứ, ở nhiều nhà thờ khắp
đất Sài Gòn. Những nơi ấy đèn hoa rực rỡ, trang trí bắt mắt, những hoạt cảnh
canh thức Giáng Sinh chuẩn bị rất công phu, các diễn viên nhí dễ thương trong
những bộ đồ hóa trang đắt tiền, tươm tất. Những tiếng cười nói xôn xao, những
cái bắt tay, những điệu nhạc quen thuộc,
– Bạn này, bạn đem gì mà nhiều vậy?
– À, vài món quà cho tụi trẻ con và người già đó mà. Họ nghèo, đáng
thương lắm.
– Ưm…ưm… cho tôi xem tí được không?
Liên liếc người thanh niên một cái sắc lẹm trước lời đề nghị đó. “Đúng là cái đồ mật thám, mi cứ dò xét đi, thoải
mái! Bực mình ghê!”, Liên thầm nhủ. Liên
cố tỏ ra tươi cười với “cái tên con trai dai như đỉa” ấy:
– Ừm! Nếu anh thích…
– Bạn quen với nhiều người trên này hà? (Người thanh niên vừa “kiểm
tra” những món quà, vừa hỏi).
– Không, tôi không quen ai hết. Nhưng sao anh hỏi vậy?
– Vậy sao bạn lại đem quà đến cho họ?
Liên trố mắt nhìn người thanh niên, mặc cho anh ta không biết Liên ngạc
nhiên cỡ nào khi anh nói vậy. “Bó tay với
tên này”, Liên thầm nghĩ.
– Có khi nào anh cho người ăn xin bên vệ đường vài ngàn chưa?
– Sao bạn hỏi vậy? Hình như là có rồi…
– Anh có quen họ không?
– Không!
– Vậy thì sao anh lại cho…?
– Tại tôi thấy người đó đáng thương… Nhưng mà tôi thấy những người này
đâu đáng thương bằng mấy người tôi gặp đâu. Với họ đã có mấy ông cha nhà thờ
lo. Bạn không bố thí thì người ta cũng đâu có chết đói.
– Tôi không bố thí! Tôi mang những món quà này tặng cho họ, trong tình
thương, trong tình anh em. Với anh, anh thương hại những người ăn mày đó, còn
tôi, những người Công giáo, thì tất cả mọi người là anh em với nhau bởi chúng
tôi có một Cha trên trời cho nên chúng tôi yêu thương nhau, nâng đỡ nhau chân
thành. Hơn nữa, đêm nay là Giáng Sinh. Trong ý nghĩa đó, thì anh cũng là anh em
của tôi. Anh hiểu chứ! (Liên giải thích nhưng dường như cô có chút bực mình với
người thanh niên).
– Ừ, nhưng đâu nhất thiết phải là hôm nay, bạn có thể cho họ lúc nào
cũng được mà!
– Nhưng mùa Giáng Sinh là mùa Yêu Thương, tặng lúc này là ý nghĩa nhất.
– Mà lễ Giáng Sinh… ưm… ưm tôi... tôi có đạo nhưng thú thật là tôi cũng
không rõ ý nghĩa ngày lễ này lắm.
– Lễ Giáng Sinh là ngày kỉ niệm Chúa Giêsu sinh ra cách nay hơn 2000
năm. Mừng Con Thiên Chúa nhập thể đó!
– Mà tự nhiên đang làm Chúa không sướng sao, đương không nhập thể, nhập
thế làm người chi cực vậy!?
– Tại con người tội lỗi quá, Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài xuống
thế làm người, Ngài đã giao hòa thế giới với Người, để cứu loài người khỏi ách
nô lệ của tội lỗi, của bóng tối. Chung quy lại cũng vì hai chữ Tình Yêu. Vì yêu
thương loài người nên Thiên Chúa mới làm vậy. Chúa đã yêu thương con người đến
dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Đó, ý nghĩa của lễ Giáng Sinh
đó. Anh lơ là đạo quá! Ít ra thì cũng phải biết những điều đơn giản như vậy chứ!
– Ừ… tôi có lơ đạo thật, tại… lo làm ăn!…
– Thiên Chúa Giáng Sinh là một mầu nhiệm. Cả việc chết đi và Phục
Sinh cũng là một mầu nhiệm. Mà đã là mầu nhiệm thì có đức tin mới tin được thôi.
– Ừm…ừm… mà sao không mừng ngày 1.1 mà lại là ngày 25.12 hàng năm. Tôi
nhớ hồi học lịch sử, sách ghi là sinh ra ngày 1.1 Công Nguyên mà.
– Không phải Chúa sinh ra ngày đó nhưng ngày đó là ngày thờ thần mặt
trời của người ngoại giáo Roma. Mình muốn bỏ lễ ngoại giáo nên thay vào ngày lễ
của mình. Và Chúa Giêsu là Mặt Trời. Mặt trời công chính đó… Nhớ không?
– Ừm…ừm… nhớ… nhớ rồi.
Trời càng tối càng lạnh. Nhưng Liên vẫn thấy trên gương mặt của những
con người lam lũ ngời lên những niềm vui, hi vọng. Ngọn lửa tàn, bàn thánh được
ban tổ chức kê ngay ngắn trước ngôi thánh đường đơn sơ. Một tiếng chuông vang
lên. Mọi người bắt đầu tản ra, xếp thành hàng một trước bàn thánh. Tiếng cha xứ
âm vang, trong trẻo và trầm ấm. Lễ vọng Giáng Sinh bắt đầu bằng một câu hát
quen thuộc “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh
ra đời…”, nhưng bài hát đó được hát bằng tiếng Bahnar. Liên chỉ kịp thấy nó
quen thuộc qua nhạc điệu. Liên dự lễ một cách sốt sắng, mặc dù suốt thánh lễ cô
không hiểu gì, từ bài hát đến câu đáp bởi tất cả đều bằng tiếng Bahnar. Liên
chỉ hiểu bài giảng của linh mục, bởi cha giảng cả tiếng Kinh. Dường như đó là
một sự cố ý dễ thương, để cho những ai không kịp về giáo xứ mình, có thể ghé
lại đây canh thức Giáng Sinh, là một sự cố ý cho nhiều người lương dân đến
chung vui với người Công giáo, để họ hiểu về mầu nhiệm Giáng Sinh, hiểu về Tình
Yêu tuyệt vời của Trời với Đất.
Bài hát kết thúc thánh lễ vừa dứt thì từ bên trong, một ông già Noel
đi ra, vác cái túi to đùng, ông đến từng người, phát cho họ những món quà nhỏ,
từng cái bánh, cái kẹo… Rồi một ông, hai ông Noel lần lượt bước ra, phụ giúp
ông Noel kia. Chỉ chờ có thế, Liên đội vội lên đầu cái mũ đỏ, khoác áo đỏ, bước
vào đoàn người. Liên gởi đến cụ già những chiếc khăn gió, gởi đến em thơ cái
kẹo hay cuốn tập mà Liên đã gom góp suốt từ đầu mùa đông. Liên nhớ đến các bạn
của mình, những người bạn đã nhịn phần ăn sáng của mình để góp cho túi quà của
Liên, khi Liên ngỏ ý sẽ đi vùng cao vào dịp Giáng Sinh. “Cám ơn tụi mày, những đứa bạn thân…”, Liên thầm nói.
Một em nhỏ chỉ tay về phía Liên, nói với ông già Noel đầu tiên: “Ông ơi, Công chúa Tuyết kìa ông”. Ông già
nhìn qua Liên, nháy mắt một cái. Liên cúi đầu chào và cười với ông. Thì ra là
cha Công! “Không biết ngài làm thế nào mà
cái bụng phệ dễ thương quá xá”, Liên cười một mình khoái chí với ý nghĩ đó.
Quà đã hết, mọi người ai về nhà nấy, trả lại cho nhà thờ sự thinh lặng.
Liên mệt nhoài, tựa mình vào ghế đá trong khuôn viên giáo xứ. Anh thanh niên
mới quen lỉnh đi đâu mât, giờ tiến lại chỗ Liên.
– Bạn không về?
– Về đâu? Tối nay ở lại đây. Có chi không?
– Không có chi!
– Còn anh? Sao không về nhà, gần nửa đêm rồi.
– Tôi, tôi… bạn… bạn có thể cho tôi làm quen được không?
– Ừ, thì quen nãy giờ rồi đó.
– Nhưng tôi chưa biết tên bạn, ngại quá!
– Cứ gọi tôi là “tắc kè bông” được rồi.
– Ưm, bạn cho tôi xin… xin mail của bạn được không?
– tackebong@yahoo.com.vn.
Đó là mail của tôi.
– Cám ơn nhiều! Có một điều tôi muốn nói với bạn, nhưng ngại quá!
– Ừ! Nói gì thì cứ nói vô mail đó, đừng nói… yêu tôi là được.
– Không phải đâu! Mà thôi, chào bạn, tôi về đây! Chúc bạn Giáng
Sinh an lành.
– Cám ơn nhiều!
`Liên bỏ hành lí vào một góc phòng, phòng mà cha Công đã dọn sẵn cho
Liên từ trước, và leo lên giường, đánh một giấc ngon lành, cho tới khi chuông
nhà thờ vang lên giục giã.
Sau bữa điểm tâm với cha và mọi người, Liên trở về phòng, mở mail, định
gởi cho mấy đứa bạn vài câu. Một lá thư từ địa chỉ lạ toiditim@gmail.com
nằm chễm chệ trong hộp thư. Liên mở và đọc:
“Cám ơn bạn rất nhiều tackebong
à! Thực sự cho tôi xin lỗi. Tôi không phải là người Công giáo như hôm qua tôi
đã nói với bạn. Tôi đến để quan sát theo ý của cấp trên thôi!
Cám ơn bạn rất nhiều! Cám ơn bạn
đã cho tôi hiểu ý nghĩa của ngày lễ Giáng Sinh. Đó là một Tình Yêu đẹp, một mầu
nhiệm tuyệt vời mà bấy lâu nay tôi cứ cho là mê tín, là dị đoan. Bạn đã cho tôi
biết giá trị của việc trao tặng, thế nào là tình yêu thương, cho tôi biết nhiều
hơn về người Công giáo. Có lẽ tôi phải thay đổi lối suy nghĩ của tôi về các bạn,
những người theo đạo Công giáo. Tôi đã học được ở người Công giáo về sự yêu
thương, cho đi mà không hề mong nhận lại. Cám ơn các bạn, những người Công giáo
tốt lành.
Cuối cùng, tôi muốn nói với bạn là:
Chúc bạn một Giáng Sinh an lành và ấm áp, tràn ngập tình yêu thương.
Thân ái,
Tôn”.
Liên nhẹ tắt máy, một niềm vui lan nhẹ trong trái tim cô. Liên chắp
tay, nguyện cầu cùng Thiên Chúa: Cám ơn Cha
đã cho con một mùa Giáng Sinh tuyệt vời, một Giáng Sinh với nhiều ý nghĩa trên
cao nguyên lộng gió này.
Mã số: 14-048
– Anh xin em bỏ đứa
bé đi. Chúng ta không thể sống mà có nó.
Lần thứ ba nghe cái
giọng van xin của người đàn ông cô đã từng yêu say đắm, Tình mới thực sự ý thức
được rằng người đàn ông đó không đáng để cô trao trọn cuộc đời mình. Anh ta
càng không đáng để cô đặt cược cuộc đời của đứa con cô đang mang trong bụng.
– Anh biết không tôi
đã từng nghĩ rằng tôi sẽ “không thể sống mà không có anh”. Nhưng bây giờ chính
là “không thể sống mà có anh!”. Đáng lẽ ra ngay cái buổi sáng tôi tỉnh dậy trên
người không một mảnh vải che thân trong cái phòng trọ nhơ nhớp của anh, tôi nên
dứt khoát đi kiện anh tội cưỡng hiếp tôi mới phải. Bởi vì tôi tưởng tôi còn yêu
anh. Nhưng bây giờ tôi biết tình yêu của tôi đã chết từ cái đêm đó rồi. Nếu anh
còn muốn sống cho tử tế thì hãy đi khuất tầm mắt của tôi trước khi tôi vẫn có
thể tống anh vào tù vì cái tội giết chính con đẻ của mình.
Thế đấy, nhiều khi
người ta có thể nói ra được những câu tàn nhẫn đến vậy chỉ để làm tổn thương
người khác và làm đau chính mình. Nhìn người mình đã từng yêu và cũng đã từng
yêu mình quay lưng ra đi một cách hèn nhát như vậy, thử hỏi cô có hối hận
không? Nếu tất cả đều là quyết định của cô thì cô có quyền gì mà hối hận?
***
Trở về xóm trọ khi
đường phố đã lên đèn, cái ngõ nhỏ rẽ vào phòng trọ của Tình hôm nay tối lạ.
Phòng nào phòng nấy cửa đóng im ỉm, tối om om. Phải rồi hôm nay là cuối tuần, mọi
người về quê hết. Bỗng dưng cô thấy nhớ nhà da diết. Nhớ ba mẹ, nhớ các em, nhớ
cái mùi khói bếp khét lẹt mỗi buổi chiều ngày xưa cô nhóm bếp thổi cơm. Giờ này
nếu ở nhà chắc cô đang hò hét các em dọn cơm, trong khi bố ngồi hút điếu thuốc
lào và nhâm nhi chén nước chè tươi nóng hổi mẹ vừa nấu. Hạnh phúc của cô chất đầy
trong căn nhà nhỏ ấm cúng, nơi có cây đào rừng anh cô trồng năm xưa trước khi mất
mà cả nhà cô giữ gìn như báu vật. Bây giờ thì cô đã hiểu vì sao ngày xưa đã có lúc
anh cô chỉ cây đào mà bảo: “Có nó ở đây anh sẽ không chết đâu”. Nghĩ đến đây,
Tình bưng mặt khóc nức nở.
Tiếng giày cao gót nện
lên mặt chiếc cầu thang gỗ lộp cộp. Tình vẫn ngồi trước cửa phòng mà khóc, chẳng
thèm ngẩng mặt lên. Kệ! Dù là ai cô cũng chẳng thèm quan tâm. Khi đã chẳng còn
gì để mất thì lòng tự trọng có đáng là gì.
Trong cái màn đêm đặc
quánh một màu đen thui thì chiếc đầm màu mận chín vẫn nổi bật một cách khó tả.
Chiếc đầm ôm sát một thân hình cao dong dỏng với những đường cong bốc lửa. Cô
gái hơi khựng lại khi nhìn thấy Tình ngồi lù lù ở đó, nhưng chỉ sau một giây cô
vẫn thản nhiên bước qua Tình để về phòng mình. Cái mùi rượu nồng nặc phả ra từ
người cô gái đánh động khứu giác của Tình. Khi cánh cửa chuẩn bị khép lại thì
Tình đột ngột lên tiếng:
– Trinh còn rượu
không?
Không đợi Trinh trả
lời, Tình bước thẳng vào phòng tìm rượu. Cuối cùng cô cũng tìm được mấy lon bia
trong tủ lạnh. Chẳng nói gì Tình cứ thế giật nắp, ngửa cổ tu một hơi hết cả lon
bia rồi ợ lên một cái. Trinh vẫn thản nhiên chẳng lên tiếng mà cũng chẳng ngăn
cản Tình. Trinh vào phòng thay đồ, đến khi bước ra khỏi phòng tắm thì hai lon
bia đã hết nhẵn, trong tay Tình đang uống dở lon thứ ba. Trinh ngồi xuống sàn
nhà và cũng giật nắp lon cùng uống.
Trong đêm vắng hai
người đàn bà say dựa vào nhau cùng kể chuyện cuộc đời.
***
Trinh không có cha
nhưng có mẹ và bà ngoại. Mẹ Trinh đi làm xa lâu lâu về một lần, cho ngoại và
Trinh ít tiền rồi lại đi. Nhưng từ năm Trinh mười ba tuổi, mẹ đi biền biệt và
không bao giờ trở về nữa. Mọi người bảo mẹ Trinh đã theo một ông nào đó ra nước
ngoài rồi. Trước khi đi mẹ để lại cho bà ngoại rất nhiều tiền bảo bà cố gắng
nuôi Trinh ăn học cho đến khi Trinh trưởng thành. Từ đấy hai bà cháu dựa vào
nhau mà sống.
Năm Trinh mười bảy
tuổi trong làng có anh hỏi cưới Trinh. Trinh nghĩ mình cũng cần một nơi nương tựa
cho cả cô và bà ngoại nên gật đầu đồng ý. Cô đã ngây thơ trao cuộc đời vào tay
người đàn ông ấy, đến khi cô có mang thì hắn “chạy làng” cưới một người đàn bà
khác già hơn Trinh, xấu hơn Trinh nhưng có học thức và “con nhà gia giáo” hơn
Trinh. Trước ngày hắn cưới, mẹ hắn đến nhà Trinh cầm xấp tiền đập vào mặt Trinh
mà chửi: “Mẹ là đĩ, con cũng là đĩ. Số tiền này tao bố thí cho mày đấy.
Còn cái đứa con
hoang trong bụng mày, mày thích làm gì thì làm không liên quan gì đến nhà tao”.
Trinh thản nhiên nhận số tiền mà cuộc đời “tát” vào mặt cô. Kể từ ngày ấy cô thực
sự trở thành “đĩ”.
Rồi Trinh sẩy thai.
Rồi bà ngoại Trinh mất. Vậy là cái tát cuối cùng của cuộc đời cũng in dấu lên mặt
cô. Sau này dù Trinh có gắn bó với bao người đàn ông, có mang trong mình sự sống
của bao sinh linh bé bỏng Trinh cũng không bao giờ để họ đi quá sâu vào cuộc đời
cô. Bởi cô sợ lại phải nhận những cái tát. Trinh khắc lên tấm bia mộ của bà,
tên của cô và cả tên của đứa con đầu lòng chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Từ
đó trong làng không còn ai nhắc đến tên Chi nữa. Chỉ thỉnh thoảng có ai đó lên
thành phố trở về và kể lại chuyện đã gặp một cô gái phong trần rất đẹp, tên Trinh,
trông rất quen mà “ai cũng biết là ai” đấy. Thế thôi.
***
Trinh khuyên bạn bỏ
đứa trẻ nhưng Tình nhất quyết không đồng ý. Với Trinh đó là chuyện rất đỗi bình
thường nhưng với Tình nó nặng hơn cả cuộc đời. Trinh bảo Tình là đồ ngốc, Tình
sùng đạo đến mê muội, nếu Tình bỏ đứa con Tình sẽ mang tội phạm Thánh, vậy thì
Tình cứ làm Thánh luôn đi cho rồi!
Tình nghĩ Trinh chẳng
bao giờ hiểu được ý nghĩa của hai từ “ruột thịt”. Trinh đâu biết sau khi đã mất
đi tình yêu thì tình thân trở nên quan trọng với Tình như thế nào. Đứa trẻ ấy
dù chưa chào đời, dù Tình chưa thể nắm tay con, chưa thể nhìn thấy con nhưng cô
có thể cảm nhận được mối liên kết của đứa trẻ trong thân thể cô. Tình mẫu tử bắt
đầu thật đơn giản như thế và Tình biết từ nay cô sẽ yêu đứa trẻ này hơn tất thảy
mọi thứ trên đời.
Tình quyết định trở
về nhà. Cô sẽ thú tội với ba mẹ, xin ba mẹ tha thứ cho cô. Cô tự nhủ như vậy, rồi
mọi sóng gió sẽ qua đi và hạnh phúc sẽ vẫn ở lại với cô. Nhưng mọi thứ đều
không đơn giản như cô nghĩ. Nếu ở thành phố, cô không chồng mà chửa mọi người
cũng chẳng thừa thời gian quan tâm, bàn tán và như thế đối với cô lại là một điều
an ủi. Nhưng khi về quê cô bỗng dưng trở thành trung tâm điểm của mọi cái nhìn
soi mói. Nó xoáy sâu vào cái bụng của cô, đốt cháy chút hi vọng cuối cùng còn
sót lại trong trái tim của người con gái đã trót lầm lỡ ấy.
Nghe tin cô chửa
hoang mẹ cô khóc ngất. Ba cô nhất quyết đưa cô sang thầy lang ở làng bên cạnh bốc
thuốc phá thai. Cô không chịu thì ba cô đòi từ mặt cô. Ba cô bảo: “Mày cứ quyết
tâm giữ nó thì chỉ có mày khổ thôi. Sau này làm gì có thằng nào nó chịu rước
mày”. Cô nói: “Nếu con từ bỏ con của con thì sau này cũng không có thằng nào chịu
rước con. Lỗi lầm do con gây ra con xin chịu. Ba mẹ đừng bắt con bỏ đứa bé. Tội
lắm”. Thế là ba cô cứ thế giày vò cô: “Mày lên thành phố rồi học đòi theo đạo.
Mấy đứa ấy nó dạy mày thì mày nghe, còn bố mày bảo thì mày không nghe. Mày định
bỏ cái nhà này, bỏ gia đình dòng họ để theo cái bọn không biết ông bà tổ tiên
là gì ấy à? Mày cút đi, tao thà không có mày thì còn hơn”. Những lời nói của ba
như cứa vào tim gan cô, đau lắm. Những tưởng rằng cô sẽ như “đứa con hoang
đàng” trở về và sà vào vòng tay tha thứ của ba mẹ, nhưng không, cuộc đời này
phũ phàng biết bao nhiêu. Có những giây phút người ta chỉ cần một bàn tay chìa
ra để vịn vào cho khỏi ngã mà khó quá.
Ngả tư đường giữa
lưng chừng đồi hồi còn ở nhà bao lần cô đi qua đây, rẽ phải để đến nhà bà ngoại,
rẽ trái để đến trường, nhưng lúc nào cô cũng đứng lại vài phút nhìn thẳng về
phía trước, cuối con đường hun hút sẽ dẫn ta đến đâu, cô vẫn tự hỏi như thế.
Hóa ra đi thẳng sẽ chẳng dẫn ta đến đâu cả nếu bản thân ta không biết trước điểm
dừng. Và cô quyết định ra đi như thế.
***
Tình không trách ba mẹ. Chỉ buồn vì ba mẹ không hiểu cho cô. Ba mẹ cô
không phải là người Công giáo. Gia đình cô, dòng họ của cô chẳng ai theo đạo cả.
Vậy nên mười tám năm đầu đời, Tiểu Tình nhỏ bé của ba mẹ cũng chưa bao giờ biết
đến ở ngoài kia lại còn có một ông Thiên Chúa đầy phép màu, như ông Bụt trong
những câu chuyện cổ tích bà kể.
Cho đến khi Tình vào đại học. Tình gặp một cô gái, một cô gái rất đỗi
bình thường, thậm chí chìm nghỉm giữa hàng trăm đóa hoa xinh tươi đang độ xuân thì
trong cái lớp học không một bóng nam sinh này. Nhưng cũng chính vì vậy Tình lại
đặc biệt chú ý đến cô ấy. Cách cô ấy ăn mặc, cách cô ấy nói chuyện và cả những cử
chỉ dù là nhỏ nhất của cô ấy. Tình nhận thấy cô ấy giản dị đến khổ sở, dịu dàng
đến yếu đuối và tất nhiên rất không hợp thời. Cô ấy như người cổ đại lạc lối đến
thế kỷ hai mốt và tốt nhất cô ấy nên trở về với thời đại của mình. Điều đó khiến
Tình thấy tội nghiệp cho cô ấy.
Tình chủ động làm quen với cô ấy. Tình tưởng rằng cô bạn đáng thương
ấy sẽ nhìn lại cô bằng ánh mắt biết ơn, hoặc giả sẽ bối rối khi nhìn nụ cười
thân thiện của Tình, nhưng không, cô ấy rất tự tin nhìn thẳng vào mắt Tình mà hỏi:
– Bạn nghĩ gì mà lại cho rằng tôi cần bạn?
Cuối cùng người bối rối lại chính là Tình. Nhưng cũng rất nhanh chóng
Tình lấy lại bình tĩnh mỉm cười đáp lại:
– Vì câu nói này của cậu chúng ta nhất định phải làm bạn.
– Cậu điên thật!
Hai đứa nhìn nhau rồi cùng phá lên cười. Có những tình bạn chỉ đơn giản
như vậy mà hóa thành tri kỷ.
Thế giới này luôn luôn công bằng. Đừng nhìn người khác bằng ánh mắt
thương hại để rồi nghĩ rằng mình cần phải ban phát một chút lòng tốt cho họ. “Ơn
huệ”, đó là một từ không nên dùng nếu muốn xây dựng những mối quan hệ tốt. Tình
đã học được bài học đầu tiên trong cách đối nhân xử thế từ cô bạn kì lạ kia.
Phạm Hồng Ân là tên của cô ấy. Ở Ân có những điều mà người khác không
có khiến Tình luôn nhìn Ân như nghiên cứu một vật thể lạ.
Thứ nhất: Ân lúc nào cũng cười, chưa bao giờ Tình thấy phảng phất một
nét buồn trên khuôn mặt bạn.
Thứ hai: Ân luôn luôn lạc quan, vì tin rằng thế giới này nếu đã có chữ
“vui” thì không thể tồn tại thêm chữ “buồn”.
Thứ ba: Không bao giờ thiếu tin tưởng người khác dù cho có bị lừa đến
mười lần vẫn tin lời nói dối thứ mười một.
Thứ tư: Sẵn sàng cho đi mọi thứ mà không cần suy nghĩ, tính toán.
Thứ năm: Tha thứ là một việc quá ư dễ dàng.
Chỉ với năm điều trên thôi Tình nói rằng Ân thừa điều kiện để ngồi vào
danh sách những con người cần cấp tốc bảo vệ vì sắp tuyệt chủng. Nghe Tình nhận
xét về mình, Ân phì cười. Ân bảo với Tình rằng tính cách của Ân được tạo nên từ
môi trường sống, môi trường giáo dục mà cô may mắn thừa hưởng. Điều đó khiến
Tình rất tò mò. Tình vẫn tuyệt đối tin vào câu đúc kết của cổ nhân “cha mẹ sinh
con trời sinh tính”, nhưng Ân lại chứng minh cho cô thấy những điều hoàn toàn
khác. Ân đưa Tình đến những nơi mà cô chưa bao giờ biết đến, tiếp xúc với những
người cũng vui vẻ, lạc quan, đầy niềm tin và có thừa lòng khoan dung mà Tình cứ
tưởng rằng chỉ duy nhất ở Ân mới còn tồn tại.
Trên giảng đường, Tình vẫn luôn được học rằng niềm tin tôn giáo là một
ý tưởng ngu muội phát xuất từ tập hợp những kẻ ngu ngốc, thiếu lý trí và không
có đầu óc khoa học. Nhưng những gì Tình nghe thấy, nhìn thấy từ cuộc sống của
Ân và những người xung quanh Ân khiến Tình dần dần tin tưởng rằng: Dù ai có nói
thế nào thì niềm tin vào Thiên Chúa vẫn cần thiết và mãi trường tồn. Và bởi vậy,
không quan trọng bạn là ai, bạn đến từ đâu và bạn làm gì, chỉ cần bạn có niềm
tin thế là đủ.
Tình quyết định cải đạo. Dù ba mẹ có phản đối thế nào cô cũng nhất quyết
không nghe. Ba mẹ cô nghĩ cô bị bỏ bùa mê của mấy ông thầy dòng nên họ đón thầy
cúng về làm phép đuổi tà cho cô nhưng “bệnh” vẫn hoàn “bệnh”. Cuối cùng họ đành
ngậm đắng nuốt cay để đứa con gái họ tự hào nhất cứ “dở dở ương ương” như thế.
Từ khi trở thành một con chiên ngoan đạo, Tình nhiệt tình tham gia vào
các hoạt động xã hội, từ thiện. Đặc biệt cô còn được bầu làm trưởng ban truyền
thông của đội sinh viên công giáo tuyên truyền hoạt động bảo vệ sự sống chống nạo
phá thai. Những gì cô được chứng kiến khi tham gia vào đội khiến cô có lý do để
tin tưởng rằng “phá thai” là bằng chứng thuyết phục nhất để chứng minh rằng con
người còn ác độc hơn loài cầm thú. Thế thì bây giờ Tình nỡ lòng nào mà giết chết
con ruột của mình kia chứ?
***
– A, mẹ Tình và dì Trinh về rồi!
Thằng bé nhảy lên ôm cổ rồi hôn chụt vào má mẹ nó một cái rõ kêu. Dì
Trinh vào bếp nấu cơm, thằng bé vẫn ríu rít bên tai mẹ nó và kể: “Hôm nay đi lớp,
bà sơ Hồng Ân khen Tĩnh ngoan lắm. Bà cho Tĩnh mười điểm về khoe với ba. Thế ba
là ai hở mẹ?” Thằng bé ngây thơ hỏi mà không biết nó vừa làm tan nát cõi lòng mẹ
nó. Tình vẫn chờ một ngày có thể kể cho con nghe về ba của nó, nhưng chưa phải
bây giờ. Cô chỉ nhẹ nhàng nói với con rằng: “Ba là người Tĩnh yêu như yêu mẹ vậy”.
Rồi cô kể cho con nghe về ông bà ngoại. Cô kể mà nước mắt rơi từ lúc nào không
hay. Thằng cu Tĩnh giơ bàn tay mũm mĩm lên xoa mặt mẹ và bảo: “Con sẽ vẽ tranh
cho ông bà ngoại. Trong tranh sẽ vẽ con và mẹ. Con sẽ bảo con và mẹ yêu ông bà
rất nhiều”. Tình xúc động ôm chặt đứa con trai bé bỏng vào lòng.
Cánh thư đầu tiên cô viết cho ba mẹ. Trong thư cô viết rằng dù có ở
nơi nào cô vẫn luôn nguyện cầu Chúa phù hộ cho ba mẹ được bình an, hạnh phúc.
Không có lỗi lầm nào là không đáng được tha thứ trong vòng tay của Thiên
Chúa. Chỉ cần bạn không mất niềm tin, bạn sẽ được cứu rỗi.
Mã số: 14-049
Gia đình ông Hòa đi
làm về thì trời cũng nhá
nhem tối. Vừa phóng xe vào đến
sân, ông Hoà đã nghe có tếng ai đó gọi mình từ ngoài ngõ. Ông Hoà nhìn ra thì
thấy bà Mỹ đang hớt hải chạy vào.
- Có chuyện gì thế bà Mỹ? - Ông Hoà hỏi.
Bà Mỹ vừa thở hổn hển
vừa rằn từng tiếng:
-
- Chiều nay
cái gì? Bà nói mau
lên, tôi sốt ruột
quá!
Cố lấy bình tĩnh bà Mỹ trả lời:
- Chả là chiều
nay Cha xứ bị khỉ cào ông ạ, rách hết cả mặt mũi rồi, giờ đang cấp cứu ở bệnh viện ấy. Ai gọi cho ông cũng không được nên nói tôi
ở gần thấy ông về thì chạy qua báo.
Bà Thuận tò mò:
- Mà sao con khỉ lại dám cào chủ nó được hả bà?
-Tôi cũng không rõ lắm, chỉ nghe nói cha mở cửa chuồng để lấy
cái gì đó, ai ngờ vừa chúi đầu vào thì con khỉ xông tới cào ngài tới tấp, nghe đâu
ngài phải loay hoay mãi mới thoát ra được. Chắc nó tưởng ngài bắt nó cũng nên.
- Rõ thật là! - Bà Thuận thở dài.
Chẳng kịp rửa chân,
ông Hòa khoác vội chiếc áo sơ mi dài tay rồi lên xe phóng đi một mạch. Bà Thuận
nhìn theo chồng lắc đầu.
Mặt trời đã lặn, bóng
ông Hòa cũng khuất dần, bà Mỹ vẫn còn đứng lại nói đôi ba câu với bà Thuận.
***
Ông Hòa phóng xe vào tận bệnh viện. Theo sự
chỉ dẫn của cô y tá, ông vào thẳng phòng cấp cứu. Căn phòng yên ắng, mọi người
đều đã về cả, chỉ còn mình cha nằm đó mặt mày sưng húp. Những vết khỉ cào tuy
đã rửa sát trùng và bôi thuốc nhưng nó vẫn hằn rõ trên khuôn mặt cha già. Ông
Hòa rón rén bước vào. Chắc vì mệt quá nên vị linh mục đã thiếp đi, ông Hoà không
dám đánh thức ngài, chỉ ngồi đó nhìn xa xa ra phía chân trời, lòng nặng trĩu.
***
Tối đó không có thánh lễ, nhưng chuông nhà thờ
vẫn đổ kêu gọi mọi người đi đọc kinh chung. Bình thường mọi người đi lễ rất ít,
kể cả lễ Chúa Nhật thế mà hôm nay số người đi đọc kinh lại đông hơn rất nhiều.
Có lẽ vì ai cũng muốn biết rõ sự tình ra sao? Rồi tình hình của cha xứ nữa chứ?
Đọc kinh xong ra khỏi nhà thờ, mọi người đều xôn
xao hỏi: Cha sao rồi? Nằm bệnh viện có lâu không? Một giọng nữ lên tiếng, hình như
là bà Xuyến: “Vẫn bình thường, chỉ xây xát mặt mày thôi, bác sĩ nói ở lại mấy
ngày cho vết thương khô lại là có thể về được”.
– Thế mà đồn ầm lên, tôi tưởng nặng lắm. - Ông
Đình lên tiếng.
– Tôi lại tưởng đợt này cha về nghỉ hưu luôn
nữa chứ? – Ông Nam thêm vào.
Nghe nói vậy mọi người đều phá lên cười. Cha
năm nay mới ngoài sáu mươi, nhưng thân hình ốm yếu, gầy còm lại thêm bệnh này
bệnh khác thành thử trông ngài có vẻ như đã lớn tuổi lắm vậy. Ngài đã về đây
được ba năm và là vị linh mục quản xứ đầu tiên ở đây. Vốn là một giáo xứ nhỏ
lại ở tận trên miền núi, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn nên trước đó mỗi
tháng giáo xứ chỉ có một thánh lễ. Các linh mục chỉ lên làm mục vụ thứ bảy hoặc
chủ nhật cuối tháng mà thôi. Từ ngày có linh mục về giáo xứ, mọi người đều vui
mừng và hy vọng. Thế là từ nay không còn phải đợi đến tận cuối tháng mới có
thánh lễ nữa. Ai cũng hy vọng đời sống đạo của giáo xứ sẽ được củng cố, đời
sống đức tin và luân lý cũng được nâng đỡ và thăng tiến hơn.
Thời gian đầu mọi người đi lễ rất đông, ai
cũng tấm tắc khen cha mình giảng hay lại sâu sắc nữa, mỗi tội dài quá. Lễ ngày
thường mà cha giảng tới ba mươi phút luôn! Dần dà số người đi lễ giảm rõ rệt,
ngày chủ nhật còn tàm tạm chứ ngày thường có khi trong nhà thờ chỉ có mười,
mười hai người, trong khi đó giáo xứ có tới hơn hai trăm nhân khẩu. Họ nói cha
giảng dài quá, ngồi nghe buồn ngủ cả ra. Giới trẻ thì phàn nàn mất thời gian
không còn thì giờ để học hành và giải trí... Bất kể mùa đông hay mùa hè, cứ
7h30 mới lễ đến 8h30 mới xong, về tới nhà là 9h có khi hơn nữa thì còn thì giờ
đâu mà làm các việc khác chứ. Người già thì trách cha xứ quá hiền lại ít cởi mở
nữa, lễ xong là ngài về phòng đóng cửa lại chứ không ra ngoài nói chuyện với
mọi người như các cha trước. Vì thế chẳng ai dám tới cả...
Cách đây một năm, thấy ngôi nhà thờ xứ đã
xuống cấp trầm trọng, mỗi khi mưa to là dột ướt hết cả lòng nhà thờ nên cha kêu
gọi mọi người góp công, góp của để xây dựng lại ngôi thánh đường. Mọi người đều
đồng tâm nhất trí, hiệp nhất với nhau. Nhà nào có nhiều thì đóng góp nhiều, nhà
nào có ít thì đóng góp ít, không ai bảo ai đều hăng hái tham gia xây dựng. Mới
khởi công mà mọi việc đều hết sức suôn sẻ. Sau đó một thời gian, cha dẫn về một
người khách lạ nói là họ về khảo sát tình hình để hỗ trợ giáo xứ. Họ nói sẽ hỗ
trợ hoàn toàn nếu giáo xứ xây dựng theo mô hình và sự chỉ đạo của họ. Cha xứ
không đồng ý, thế là người khách lạ ra đi đem theo luôn cả dự án hỗ trợ không
còn thấy trở lại nữa. Nghe vậy, giáo dân oán trách cha xứ, có người còn to
tiếng lên án, thậm chí còn rủ nhau về Toà giám mục để trình lên Đức Cha. Đó quả
là một cú sốc lớn. Một giáo xứ vẫn được tiếng là sùng đạo, sống hiệp nhất và
thánh thiện thế mà chỉ một vấn đề nhỏ đã dẫn đến chia rẽ, hiềm khích và chống
đối nhau. Những con người đó lại đinh ninh rằng mình đang sống trong một thế
giới hết sức vững chắc của niềm tin truyền thống nên không nhận ra là có một
vực thẳm đang mở toang ở dưới chân. Từ đó, lòng nhiệt thành của mọi người cũng
mất dần, chẳng ai có khí thế để tiếp tục công trình xây dựng còn đang dở dang
cả.
Bẵng đi một thời gian, chờ cho không khí lắng
xuống, vị linh mục lại mua nguyên vật liệu về và huy động mọi người tiếp tục
xây dựng. Nghe đâu có một vị ân nhân rất lớn đã quảng đại hỗ trợ cho giáo xứ để
có thể hoàn thành ngôi thánh đường. Mọi người lại bắt đầu đi làm nhưng tinh
thần thì không thể có được sự hiệp nhất như ban đầu nữa.
***
Đêm đen bao phủ mặt đất, ngoài sân ngôi thánh
đường đang xây dở dang lại nhộn nhịp, vui vẻ. Hình như đã rất lâu rồi không có
một buổi tụ họp nào đông đảo như thế này. Ông Đình rôm rả: “Này các ông, các bà
có nghĩ là phen này cha sẽ chuyển đi nơi khác không?”. Mọi người đều ngỡ ngàng:
“Sao ông lại nói thế?”.
– Thì mọi người không thấy sao, cả vườn cây
cảnh mấy chục chậu của cha bây giờ không còn được lấy một chậu à? Mấy hôm trước
tôi thấy cha kêu xe về chở đi đó, chắc là chuyến này ngài đi thật đấy.
– Ừ nhỉ! - Mọi người đều gật gù.
– Giáo xứ mình mà được vườn cây cảnh đó thì
khỏi phải lo tiền xây nhà thờ nhỉ?- Ông Thành cao hứng.
– Nói thế mà nói, việc gì ra việc ấy chứ, chỗ
đó cả mấy trăm triệu chứ bỡn à! – Ông Đình tiếp lời - Tính ra thì cũng đủ để
xây tiếp ngôi nhà thờ đấy, nhưng cha mình thì... một đời cũng chẳng có đâu,
đừng mơ giữa ban ngày nữa ông Thành ạ.
– Ước gì giấc mơ đó thành hiện thực nhỉ. - Ông
Hùng xen vào.
– Đúng thế, tôi thấy trong khi dân mình thì
nghèo, xe máy chẳng có mà đi, thế mà từ khi về đây ngài đổi tới hai chiếc xe
con rồi đó! - Ông Thành ca thán.
– Rồi tivi, tủ lạnh... toàn là đồ xịn cả,
chẳng thiếu thứ gì! - Bà Hảo thêm.
– Lợn, gà, chim, cá ngài nuôi vô số thế mà khi
nào có tiệc tùng cũng bắt mình cầm tiền của giáo xứ ra chợ mua chứ không à! -
Bà Tâm tiếp.
– Ngài thế nên có ai chịu nấu nướng cho đâu. Vì
thế mà phải về tận quê kêu một đứa nhỏ lên nấu nướng cho đấy. Khổ ơi là khổ!
Mọi người còn đang xôn xao thì có tiếng nói ở
phía sau: “Ở nơi tôn nghiêm mà các anh các chị dám nói hành, nói xấu người
khác, không sợ mắc tội à?”.
– Ớ... cụ!
Đó là cụ Thao. Năm nay cụ đã ngoài 90 tuổi
nhưng vẫn còn minh mẫn. Trong giáo xứ cụ là vị cao niên nhất và cũng là người
đạo đức, sốt sắng nhất. Trước đây khi chưa có linh mục, giáo xứ chỉ có lễ ngày
chủ nhật, thế mà không một tối nào hai vợ chồng cụ bỏ đi nhà thờ cả. Mấy năm
gần đây, sức khỏe có phần suy giảm nên hai cụ không còn thường xuyên đi lễ ngày
thường nữa, chỉ khi nào có người chở đi thì hai cụ mới dám đi. Thế nhưng, hai
cụ luôn thúc giục con cháu đến với Chúa. Đang ngồi cầu nguyện trong nhà thờ,
thấy mọi người nói những chuyện không nên, cụ không chịu nổi đành phải lên
tiếng.
– Các anh, các chị hãy nhìn lại mình trước khi
lên án người khác đi. Đó, cứ nhìn vào ngôi thánh đường này thì biết đức tin của
chúng ta lớn đến đâu, nó còn biểu lộ cả sự hiệp nhất của chúng ta đấy.
Nói tới đó rồi cụ bỏ đi, một mình chống gậy,
cụ đi vào giữa bóng đêm. Nghe cụ Thao nói, mọi người thấy lòng mình chùng
xuống, có lẽ trong họ ít ai có được những suy nghĩ sâu sắc như thế. Họ nhìn vào
thực tế của cuộc sống để đánh giá, nhưng lại không nhận ra được những ý nghĩa
đích thực ẩn ở đằng sau đó.
***
Ngày lễ khánh thánh
nhà thờ đã đến. Từ ngoài cổng, cờ và băng-rôn đã được treo lên. Từ phía đường
lớn nhìn vào, mọi người đều có thể thấy ngôi thánh đường. Một mình nằm trên
ngọn đồi thoai thoải với địa hình rộng lớn đã được san bằng phẳng. Thêm vào đó
là ngọn tháp cao vút được xây dựng theo lối kiến trúc Tây phương càng làm cho
ngôi thánh đường thêm vẻ trang nghiêm và thánh thiêng hơn. Hai bên của ngôi
thánh đường là cả một bãi đất rộng lớn, phía gần hành lang của nhà thờ là những
ô nhỏ để trồng các loại hoa có đủ màu sắc. Xa hơn một chút là những hàng dừa
cảnh đã được trồng lên. Còn ở tận ngoài xa là khu đất lớn để trồng cây ăn quả
và các cây lấy gỗ. Đó quả là một khuôn viên lý tưởng.
Mọi người đều đã
tập hợp ở sân nhà thờ, các em nhỏ xếp thành hai hàng thẳng tắp ở hai bên cổng
để đón tiếp Đức Cha và quý linh mục cùng các quan khách đang đến với giáo xứ. Tay
cầm bong bóng, miệng ca hát, ánh mắt đơn sơ của các em tỏ lộ rõ niềm vui sướng
và hân hoan.
Đoàn Đức Cha và các
cha đang tiến vào cổng nhà thờ, tiếng đàn ca vang lên, tiếng vỗ tay tưng bừng
như pháo nổ, tiếng hò vang chào mừng quan khách khiến cả bầu không gian ngập
tràn niềm vui. Sau màn chào mừng, Đức Cha cắt băng khánh thành nhà thờ và bắt
đầu dâng thánh lễ. Một thánh lễ thật trang nghiêm, sốt sắng, mọi nỗi lo âu đều
tan biến cả, những chia rẽ, oán than dường như không còn nữa chỉ còn lại niềm
vui, tâm tình tạ ơn và sự hiệp nhất. Sau thánh lễ, cha xứ dâng lời tạ ơn Thiên
Chúa, cám ơn Đức Cha và quý cha. Ngài cũng không quên cảm ơn sự đoàn kết, hiệp
lực của tất cả mọi thành phần trong giáo xứ. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất và
lòng đạo đức sẵn có cần phải được phát huy. Khi nói những lời ấy, giọng ngài
nghẹn ngào như cố che giấu một điều gì đó. Những lời nhắn nhủ của ngài như
những lời trăng trối của một người sắp đi xa. Nghe cha nói, ở dưới có người xì
xào: “Cha sắp đi thật rồi?”. Có những khuôn mặt lạnh ngắt không biểu lộ một
chút cảm xúc nào, cũng có những người, nhất là các bậc kỳ cựu thì đầu hơi cúi
xuống. Họ thấu hiểu. Họ đồng cảm.
Tiếp ngay sau đó, Đức
Cha cũng bày tỏ niềm vui và chúc mừng giáo xứ có ngôi thánh đường mới: “Thưa bà
con giáo dân, tôi rất cảm phục sự hy sinh, lòng nhiệt thành và tinh thần cộng
tác của tất cả bà con trong việc xây dựng ngôi thánh đường này. Một giáo xứ ở
miền núi còn nhiều thiếu thốn nhưng đã cố gắng để xây dựng một ngôi nhà khang
trang cho Chúa ngự. Đó là điều rất đáng khâm phục và khen ngợi. Qua vị mục tử
của bà con, tôi biết được việc hoàn tất ngôi thánh đường này phần lớn là do
công sức của tất cả bà con. Chính bà con và anh chị em đã hiệp nhất với nhau,
đã hy sinh công việc riêng của mình đến đây mỗi ngày để cùng nhau xây dựng... Chính
vì vậy mà ngôi thánh đường mới có thể nhanh chóng được hoàn thành như thế. Nhưng
nguyên vật liệu ở đâu ra? Ai là người đã cung cấp những thứ đó để bà con có thể
xây ngôi thánh đường này?”… Đức Cha dừng lại, tạo cho mọi người sự thắc mắc và
hồi hộp. Mọi người thì nóng lòng chờ đợi xem vị ân nhân của giáo xứ là ai. Họ
nhìn quanh nhưng trong nhà thờ thì không có ai xa lạ cả,. Họ nhìn về phía cha
xứ, cha xứ cúi mặt... Một câu hỏi đặt ra nhưng không có lời giải đáp. Đức Cha
dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Tôi xin được tuyên bố vị ân nhân đó không ai
khác chính là vị linh mục quản xứ của anh chị em. Người đã bị anh chị em nghi
ngờ và lên án là không có sự quan tâm và hết lòng vì đoàn chiên”. Mọi người đều
bỡ ngỡ, không ai nói với ai một lời nào nhưng trong đầu họ đều có chung một
thắc mắc: Chẳng lẽ...
Quả đúng như vậy,
điều mà mọi người nghi ngờ và gán ghép cho cha trước đây bây giờ mới ngã ngũ. Những
cây cảnh to lớn trong vườn của ngài, những đàn lợn, đàn gà... mà ngài tằn tiện
đem bán không phải vì ngài hà tiện hay keo kiệt gì, hoá ra ngài đã dành dụm tất
cả, ngay cả hà tiện với bản thân để có tiền cho giáo xứ mua nguyên vật liệu. Từ
trước đến nay họ nghĩ rằng họ đã hiểu cha, có một cái nhìn đúng đắn về cha,
nhưng không ngờ vẻ bề ngoài đó hoàn toàn đối nghịch với trái tim nhân hậu và
tấm lòng quảng đại của vị mục tử đã hy sinh hết mình vì đoàn chiên. Ngay cả
việc giảng lễ dài cũng là một dụng ý của cha. Khi về giáo xứ, ngài thấy đời
sống đức tin của con cái mình còn non yếu lại bị ảnh hưởng của những thói tục
bên ngoài nên đời sống luân lý cũng đang có nguy cơ tụt dốc. Với trẻ em thì đã
có những lớp giáo lý, nhưng còn với những người lớn, những bậc phụ huynh thì
sao? Vậy là ngài nghĩ rằng chỉ còn một cách là đưa vào trong giờ lễ. Ai ngờ,
điều đó lại không phù hợp với tâm lý của con người thời đại, thay vì sống theo
Lời Chúa dạy thì họ lại lên án và coi đó là cái cớ để không đến nhà thờ nữa. Bây
giờ họ mới nhận ra những mảnh vỡ của một vực thẳm ngay ở dưới chân mình. Tận
dụng lúc mọi người đang trầm lắng, Đức Cha tiếp tục một thông báo mới. Ngài
nói: “Hôm nay cha xứ của anh chị em sẽ được chuyển về Toà Giám mục để dưỡng
bệnh, còn giáo xứ tạm thời chưa có cha xứ mới. Giáo phận sẽ lo cho có cha về
làm việc mục vụ hàng tuần cho anh chị em”.
Bầu trời dường như sẫm lại, họ nghe như có cái gì đó đang tan ra ở dưới
chân mình.