GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG
TRƯỜNG 2015
BẢN TIN 11
Thưa
quý độc giả và quý tác giả,
Tháng vừa qua, cùng lúc chúng tôi phải lo những việc khá
phức tạp với sự cẩn trọng cần thiết trong giai đoạn cuối của Giải Văn thơ Linh
mục Đặng Đức Tuấn (dành cho các em ở độ tuổi học sinh giáo lý Giáo phận Qui
Nhơn, sẽ trao giải vào tối 28-7-2015), bên cạnh đó là việc tổng kết điểm chấm
sơ khảo, chọn ra danh sách những bài được vào chung khảo của Giải Viết Văn
Đường Trường. Do đó bản tin lần này bị chậm trễ, xin quý độc giả và quý tác giả
rộng lòng thông cảm.
Tới lúc này, 5 vị giám khảo từ ba giáo phận Sài Gòn, Xuân
Lộc và Qui Nhơn đang miệt mài với việc đọc và lượng giá 60 bài được vào chung
khảo để chọn ra những tác phẩm xứng đáng đạt giải. Chúng tôi hy vọng sẽ có kết
quả trước cuối tháng này và có thể chuẩn bị các thủ tục xuất bản để kịp có
tuyển tập của cuộc thi trước ngày trao giải.
Điều đáng mừng là sự lan tỏa cuộc thi đã rộng khắp hơn
những năm trước. Thống kê cho thấy các tác giả dự thi lần này đến từ 19 trong
số 26 Giáo phận. Ngoại trừ vài trường hợp không ghi rõ Giáo phận, con số đếm
được như sau: Bắc Ninh (5), Ban Mê Thuột (5), Bùi Chu (2), Cần Thơ (2), Đà Lạt
(2), Hà Nội (1), Hải Phòng (1) Huế (2), Hưng Hóa (2), Kontum (2), Long Xuyên
(3), Nha Trang (15), Phan Thiết (2), Phát Diệm (2), Qui Nhơn (13), Sài Gòn (7),
Thanh Hóa (2), Vinh (16) và Xuân Lộc (6).
Kết quả cuộc thi năm nay sẽ được công bố trong lễ trao
giải được tổ chức tại Chủng viện Qui Nhơn tối Thứ Bảy 19-9-2015. Tất cả các tác
giả có bài vào chung khảo đều được mời tham dự ngày họp mặt các tác giả văn thơ
Công giáo lần thứ IV, từ chiều 18-9 đến tối 19-9-2015. Chúng tôi sẽ gửi thư mời
riêng đến từng người.
Xin
mời quý độc giả tiếp tục theo dõi những bài đã được chọn qua vòng sơ loại dưới
đây, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào
xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả
đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm, đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự
họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Quý
độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi
đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình
chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.
Cũng
mong quí độc giả nào phát hiện có truyện dự thi đã sao chép từ một truyện khác,
xin gởi thông tin về cho Ban tổ chức qua email: gopnhattho@yahoo.com – Khi có đầy đủ bằng chứng xác thực, chúng tôi sẽ loại
bài đó và cả những bài khác của cùng tác giả ra khỏi cuộc thi.
Xin
chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá
chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả
đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Chúc tất cả luôn đầy ơn phước Chúa trong cuộc
sống.
Qui
Nhơn, ngày 04-07-2015
Thay
lời Ban Tổ chức
Linh
mục TRĂNG THẬP TỰ
BÀI DỰ THI
Mã số: 15-121
(6/1999)
“Viết
để nhớ về thuở ấu thơ”
Buổi sáng, mặt trời chưa kịp
vươn mình ra khỏi khóm tre thì lũ ve đã xướng lên “dàn đồng ca mùa hạ”. Hè về
rồi. Một năm học đã qua có biết bao nhiêu điều muốn nói. Trẻ con trong xóm lại
tụ tập với nhau để bày trò và tán gẫu. Mới một năm học thôi, thế mà đứa nào
cũng muốn chứng tỏ “kiến thức của tao bây giờ thế này này…”. Gốc me bọn trẻ
đang ngồi nay lại nhộn vui sau thời gian vắng bóng.
- Tao đã thuộc bảng cửu
chương 9 rồi nha!
- Sặc! Vậy cũng khoe!
- Tao được học sinh khá nên
má tao sẽ thưởng cặp mới. Hihi.
- Sướng dữ mậy! Tao chỉ cầu
lên lớp để không bị ăn đòn!
- Hahaha…
Hiếu ngồi tựa gốc me, nghe
các bạn kể chuyện lòng nó thấy vui vui.
Khu xóm của Hiếu nằm ở phía
Đông đường quốc lộ 1A, nơi có đường tàu hỏa cắt ngang. Ở đấy, lũ trẻ lớn lên
bằng tình thương của mẹ cha miệt mài bên ruộng vườn. Ở đấy, lũ trẻ quen lắm
những trò đuổi bắt, thả diều, câu cá, đá banh, bắn bi, bắn ná, đánh cù, ném
lon, ném đất… Tuổi thơ chúng gắn với những gì thật tha thiết, gần gũi với quê
hương, xóm làng như con trâu, cái cày, cái cuốc hay lũy tre xanh cùng những
đoàn tàu Bắc Nam vẫn ngang qua đều đặn. Nhưng ở đây, phần đông lũ trẻ không
biết và không quen với nhà thờ cùng tiếng chuông âm vang sớm tối, càng không
biết thánh lễ và những giờ giáo lý. Ở đây không có nhà thờ nhưng có một số ít
giáo dân như gia đình H và một vài hộ khác. Các sinh hoạt tôn giáo của họ diễn
ra tại dòng Phan Sinh ở xã cạnh bên.
Hiếu vừa học xong lớp 4.
Trường học nằm cách làng một cây số. Để đến trường, lũ trẻ thường men theo
đường ruộng, qua khỏi dốc đứng gần đường tàu rồi cứ thế mà đi. Tuy nhiên, việc
đi lễ và học giáo lý của Hiếu thì nhọc hơn. Những năm đầu, ba mẹ cho Hiếu sinh
hoạt tại nhà thờ quê Ngoại gần thị trấn, cách nhà mười ba cây số. Tại đây, nó
đã được học giáo lý để lãnh nhận bí tích xưng tội và rước lễ lần đầu. (Sau này,
vì hoàn cảnh xa xôi nên anh em Hiếu sinh hoạt tại dòng Phan Sinh). Nhà tuy xa
nhưng ba mẹ luôn cố gắng đưa Hiếu đi nhà thờ đều đặn mỗi tuần. Dần dà, tự nhiên
nó ý thức tầm quan trọng của thánh lễ và việc học giáo lý. Nó chăm chỉ học
hành.
Cuối năm học vừa qua, Hiếu đã
được rước Mình Thánh Chúa. Đó là niềm vui lớn của Hiếu và gia đình. Nó nhớ rất
rõ niềm hạnh phúc lâng lâng khi được xếp vào đoàn rước cùng các bạn, có cha mẹ
đi hai bên. Thánh lễ diễn ra sao trang nghiêm và linh thiêng quá. Cảm giác chờ
đợi thật lâu, nhưng giây phút được rước Chúa vào lòng đã khỏa lấp niềm mong ước
lâu nay. Nó thầm thỉ: “Lạy Chúa, con thật hạnh phúc vì có Chúa ở với con. Từ
nay, con có Chúa là bạn đồng hành trên mọi nẻo đường. Xin cho miệng con không
ngừng gọi tên Chúa!”. Hiếu vui thật sự. Chính vì niềm vui ấy, nó thấy mình có
nhiệm vụ phải giới thiệu Chúa cho mọi người, nhất là bọn trẻ trong xóm.
- - - - - - - - - -
Bọn trẻ vẫn đang thao thao về
đủ thứ chuyện của chúng. Cơ hội đã đến nhưng Hiếu chưa biết nên bắt đầu thế
nào. Nó gãi đầu gãi tai. Nó nhớ lại lời cô dặn giờ giáo lý cuối năm:
- Các con đã được học và nghe
giảng về Chúa, lại được rước Chúa vào lòng rồi, các con có nhiệm vụ đem Chúa
đến với mọi người, nhất là bạn bè của chúng con. Hãy giúp các bạn nhận ra tình
thương của Chúa qua những việc làm cụ thể nhất theo khả năng của mình. . . Các
con nhớ chưa?
- Dạ nhớ ạ! (Cả lớp đồng
thanh)
Hiếu đứng phắt dậy. Những lời
ấy đang thúc bách nó. Nó nhủ thầm: “Lạy Chúa Giêsu, con nên làm gì?”. Và rồi nó
chợt nãy ra sáng kiến. Nó chạy thẳng về nhà. Lúc trở ra, nó mang theo một bị
táo, mấy trái ổi và chén muối ớt.
- Tụi mày ơi, ăn táo này-
Hiếu hớn hở.
Bọn trẻ hồ hởi:
- Ngon quá! Cho tao một trái!
- Tao nữa.
- Hấp dẫn quá! Táo nhà mày hả
Hiếu?
Hiếu “ờ” một tiếng rõ to. Rồi
chớp thời cơ, nó đưa tay lên làm dấu thánh giá trước mặt các bạn. Một đứa trong
nhóm hỏi liền:
- Ê, mày làm gì đó Hiếu?
- À, tao làm dấu thánh giá.
Bên đạo tao trước khi ăn gì cũng làm dấu vậy đó!
- Hê, ngộ dữ mày!
Đứa khác tỏ vẻ quan tâm,
miệng vừa nhai vừa nói:
- Vậy mày kể cho tụi tao nghe
đạo của mày với nào!
- Ừ. Sẵn sàng! Đạo của tao là
đạo Công giáo, tin vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là người Do Thái…
Hiếu vui lắm! Nó bất ngờ vì
kế hoạch suôn sẻ quá. Nó say sưa kể những gì đã học được ở nhà thờ hay được
nghe từ bà, mẹ và dì nó. Nó cảm thấy hài lòng với sáng kiến của mình. Nó tin
Chúa Giêsu đang âu yếm nhìn nó, nghe nó nói và hỗ trợ nó sau lưng. Nó tự tin
hơn và như thấy một dòng suối nhỏ đang chảy trong lòng nó mát rượi. Cứ thế,
dòng suối tuôn chảy, nhè nhẹ cuốn theo những lời nó nói.
Có con chim sâu bay đến đậu
trên cây me nơi bọn trẻ đang ngồi. Tiếng hót lích chích như hòa điệu cùng lời
kể của Hiếu. Hiếu ngạc nhiên vì sự chú ý từ các bạn. Thật ra, mọi người đều
biết gia đình Hiếu có đạo. Chỉ có điều nơi miền quê này, trẻ con quan tâm gì
nhiều đến chuyện đạo hạnh của ai. Chúng chỉ thích những gì thuộc thế giới trẻ
thơ của chúng. Đó là những lần tụ họp chơi đùa, chia nhau trái cây, rong ruổi
trên cánh đồng bắt châu chấu, đi mót củi. . . Hiếu thích lắm. Nó nhớ vào những
mùa rộ lên trò bắn ná hay ống thụt, cả bọn thường lén lút mẹ cha, bỏ ngủ trưa
đi nhặt sỏi, hái cò ke về làm đạn dược. Và những lúc ấy, hẳn có đôi lần nó đã
bình luận “đạo của tao” cùng chúng bạn, nhưng chỉ với hình thức chuyện tầm
phào. Rõ ràng khi đó, Hiếu thấy các trò chơi hấp dẫn hơn đạo Chúa nhiều. Nó
thấy trong các bạn có những cao thủ đáng bậc thầy của nó. Nhận thầy rồi, nó
năng nghe cao kiến của thầy. Và dĩ nhiên, thầy của nó luôn là số một.
Nhưng đó là lúc trước. Bây
giờ, Hiếu đã nghĩ khác. Sau những bài giáo lý và lần xưng tội rước lễ lần đầu,
thầy của nó giờ là Chúa Giêsu. Nó say mê một ý tưởng độc đáo là từ nay, dù đi
đâu, làm gì nó cũng có một người Thầy luôn yêu thương, chân thành và thấu hiểu
nó. Người Thầy ấy sẽ chẳng bao giờ bỏ rơi nó. Thế nên, nhiều lần nó hỏi lòng
“tại sao không chia sẻ niềm vui này cho các bạn?”
…
Hiếu còn đang nói thì có đứa
thắc mắc:
- Chứ ông cha đi tu có cạo
đầu không Hiếu?
- Không, vẫn để tóc bình
thường hà!
- Ủa, theo đạo vẫn được ăn
thịt chó hả mậy?
- Chứ sao! Hihi.
Hiếu cố gắng trả lời các câu
hỏi, nhưng vốn kiến thức còn ít nên nó cũng gặp khó khăn.
- Thế Chúa Giêsu có bất tử
như Đức Phật không?
- À, vì yêu thương tao, tụi
mày và hết mọi người nên Chúa đã chịu chết trên thánh giá, nhưng ba ngày sau
Ngài đã sống lại và không chết nữa.
- Xạo mày! Chết rồi sao sống
lại được? Dóc tổ!
- Đúng rồi. Với lại Chúa
Giêsu của mày ở bên Do Thái cách đây 2000 năm, làm sao biết tụi tao mà thương
với yêu? Nổ mậy!
- Tao nói thật mà!
Thấy những điều Hiếu nói
không thuyết phục lắm, thằng Lớn bắt đầu chán. Nó lên tiếng:
- Thôi, để khi khác tụi tao
nghe nữa nha Hiếu. Táo của mày ngon lắm! Bây giờ tụi mình chơi ném lon đi!
- Ờ, hay đó! Chơi đi!
Ý kiến đó được cả bọn tán
thành. Hiếu ấp úng:
- Nhưng mà…tao nói thiệt đó!
- Thôi đi! Mày có chơi thì
lại đây mau!
Biết không thể nói gì thêm,
Hiếu vội vàng:
- Uh, chờ tao với!
Cả bọn xúm xít oản tù tì. Kết
quả thằng Cùng bị phạt đầu tiên. Bọn trẻ vui vẻ cầm trên tay chiếc dép của
mình. Đứng sau đường kẻ, Hiếu thấy thằng Cùng mặt buồn xo đang đứng gần vòng
tròn. Thằng Lớn hỏi:
- Cùng, bắt đầu được chưa?
- Rồi! – Cùng đáp.
Trò chơi bắt đầu. Thằng Lớn
đứng trước, giơ tay ném chiếc dép đầu tiên bay vèo. Chiếc dép đập vào lon sữa
bò làm nó văng đi. Thấy thằng Cùng chạy theo cái lon, thằng Lớn mau chóng lượm
dép rồi co chân chạy về mức. Cú ném quá chuẩn nhưng chẳng đứa nào ngạc nhiên vì
thằng Lớn là cao thủ bắn chim và ném… xoài mà! Cả bọn theo nhau ném tới tấp,
chỉ có thằng Hiếu là đứng nhìn. Nó thấy Cùng cứ lui hui chạy lượm lon, mồ hôi
vã ra và miệng thở hồng hộc. Nó thấy tội thằng Cùng.
Thấy Hiếu cứ đứng nhìn mà
không chịu ném, hai đứa trong bọn nói lớn:
- Hiếu, mày không ném lẹ đi!
Đứng đó làm gì?
- Ờ, mày choán chỗ quá!
Nghe vậy, Hiếu khịt mũi mấy
cái rồi cũng giơ dép ném vèo. Cú ném đại khái của nó bay chệt cái lon. Rồi nó
cũng chẳng chịu lượm dép. Thằng Lớn la to:
- Hiếu, lượm dép đi mày!
“Tu tu tu. . . ”- Tiếng còi
tàu vang lên. Một đoàn tàu Bắc Nam chạy ngang qua. Hiếu vẫn đứng im, mắt nhìn về
phía ấy. Cả bọn nhìn mặt nó, chẳng hiểu chuyện gì. Thằng Lớn lại lên tiếng:
- Mày bị gì vậy Hiếu? Mày có
chơi nữa không?
- Khoan đã! Tao…
- Gì nữa? Mày lại muốn giảng
đạo à?
- Không! – Hiếu cười – Lần
này tao không giảng nữa. Tao muốn…
- Muốn gì? Lẹ lên!
- Tao muốn bị giùm thằng
Cùng! - Vừa nói Hiếu vừa tiến lại chỗ Cùng đang đứng.
- !!!
Đoàn tàu đã chạy qua và chẳng
có gì khác thường. Ấy vậy mà hết thằng Hiếu giờ lại đến bọn trẻ ngơ ngơ ngác
ngác nhìn về phía ấy như người mất hồn. Câu nói của Hiếu làm cả bọn khựng lại
mấy giây.
- Bị giùm? Mày bị giùm thằng
Cùng?
- Ờ, đúng vậy! - Giọng Hiếu
chắc nịch.
- Haha. Mày khùng hả?
- Thôi kệ đi! Bữa nay nó ấm
đầu!
Thằng Lớn nãy giờ quan sát,
mặt nó đỏ lên trước thái độ của Hiếu. Nó bĩu môi:
- Mày điên rồi! Tao hồi giờ
chưa thấy ai như mày! Mày muốn làm thánh à?
Thằng Hiếu im lặng. Nó vẫn
vui vì lựa chọn của mình. Bị bọn bạn rủa “điên khùng” liên hồi, nó đã thấy sóng
gió nổi lên nhưng có gì đó thôi thúc nó cứ can đảm. Nó nhìn thằng Cùng, nở nụ cười
rồi cúi xuống nhặt cái lon, đặt trong vòng tròn rồi đứng thẳng dậy.
- Tao sẵn sàng rồi đó.
Bọn trẻ thấy Hiếu cười thì
không thể kiên nhẫn hơn. Chúng thấy ngứa tay với thằng Hiếu “điên” quá sức!
Thái độ ngạc nhiên của chúng giờ đã chuyển sang sự khó chịu. “Phải cho thằng
Hiếu một bài học”- Chúng nóng lòng.
Thằng Lớn chẳng nói gì thêm.
Vẻ mặt lạnh của nó là câu trả lời. Nó không hài lòng về thái độ của Hiếu. Nó
cảm nhận rõ ràng thằng Hiếu tự dưng tách riêng ra và đang đối đầu với chúng nó,
những người bạn lâu nay. “Vì cái gì?”- nó tự hỏi. Lập tức, nó nhận ra chỉ vì
chuyện đạo hạnh nãy giờ. Môi nó nhếch lên. Nó cười mỉa Hiếu. Nó đâu hiểu được
những gì đã xãy ra với Hiếu lâu nay: những câu chuyện về Chúa, những lần đi nhà
thờ, những bài giảng giáo lý…, nhất là cảm giác được rước Chúa vào lòng mới
đây. Những điều đó đã âm thầm thay đổi Hiếu. Thằng Lớn đã không biết điều đó.
Theo lệnh thằng Lớn, bọn trẻ
dạt ra hai bên. Nhìn chiếc dép tổ ong trên tay nó, đứa thì cười, đứa khác nhỏ
to:
- Coi dép nó “bự” chưa kìa!
- Khặc khặc, chân nó to như
quỷ sứ!
Mắt đăm đăm nhìn kỹ cái lon,
thằng Lớn vung tay không hề chia trí.
Bốp! Kinh kinh kinh…
- Trúng rồi!
Bọn trẻ reo lên. Cú ném quá
mạnh làm cái lon văng xa. Hiếu luống cuống chạy theo, vừa chạy vừa khom lưng
xuống, với tay ra nhặt thật nhanh cái lon rồi đặt vào trong vòng tròn. Hàng
loạt cú ném liên tiếp theo nhau. Những chiếc dép bay như một cơ đội, xà xà sát
mặt đất. Cái lon bị mục kích một cách đáng thương, móp méo và chẳng nằm yên một
chỗ quá ba giây. Mục tiêu của dép là cái lon, nhưng mục đích của bọn trẻ là làm
cho Hiếu tỉnh lại.
Hiếu hiểu điều đó nhưng nó
không hối hận. Nó đã thấy thằng Cùng bị phạt và đó là tất cả. Vì con tim có
những lý lẽ mà lý trí không hiểu hết được.
Hiếu nhớ lại lần đầu tiên
trong đời câu được con cá. Tất cả nhờ công thằng Cùng. Nó đã quan sát thật kỹ
và ra hiệu cho Hiếu giật cần thật nhanh.
- Rô phi, rô phi đó Hiếu!
- Haha, thành công rồi! To
quá nè Cùng!
- Ừ, bằng bàn tay táo đó chứ!
Phải, Hiếu đã làm được. Nó
vui và biết ơn Cùng lắm. Nhưng đang lúc hò reo nhảy múa, nó thấy mặt thằng Cùng
rất tươi, rất sáng dưới ánh nắng chiều. Lạ nhỉ! Và nó đã nhìn thật lâu. Từ đó,
hình ảnh con cá đầu tiên bao giờ cũng gợi lại một gương mặt sáng. Và chính lúc
này, gương mặt ấy lại hiện ra, hỗn mang cùng “cơ đội dép”, cái lon và những dấu
chân in đầy trên đất.
Hiếu đã thấm mệt. Mồ hôi nó
đầm đìa. Những lời châm chọc vẫn chưa ngưng. Những chiếc dép vẫn bay vô tình.
Hiếu thấy mình đang bị bỏ rơi. Nó buồn. Tự dưng nó thấy nơi khóe mắt cay cay.
Nó sợ bị phát hiện nên cứ cúi mặt xuống đất. Chẳng ai biết nó đã nghĩ “Chúa ơi
xin giúp con!” bao nhiêu lần. Tội nghiệp! Bỗng:
- Á…
Một chiếc dép bay trúng mặt
thằng Hiếu. Môi nó bị dập và đang rỉ máu. Bọn trẻ ngừng tay, mặt ngơ ngác.
Thằng Lớn hỏi:
- Dép của đứa nào?
- Của thằng Rin đó.
- Ê, đâu phải tại tao! Tại
thằng Hiếu nó không chịu né chớ bộ! – Rin bào chữa.
- Ờ đúng! Tao cũng thấy thằng
Hiếu không chịu nhìn ngó gì hết.
- Ai bảo mày quăng mạnh quá
chi! Nó khóc rồi kìa.
Cả bọn ồn ào. Tiếng Thằng
Lớn:
- Tụi mày ồn quá! Thôi nghỉ
đi!
Thằng Lớn vừa quay đi vừa
liếc nhìn Hiếu. Vẻ mặt nó thật khó hiểu. Bọn trẻ cũng lục đục kéo theo.
Hiếu quỵ hai gối trên nền
đất, một tay sờ môi bị rỉ máu, tay còn lại đưa lên quệt hai hàng nước mắt. Thật
ra, môi nó bị dập cũng đau thật nhưng nó thấy chiếc dép bay tới thật đúng lúc.
Nó đã lo lắng và sợ rằng sẽ khóc. Nó đã cố nén để không khóc ở đây và lúc này
vì như thế thì xấu hổ lắm. Nhưng khi chiếc dép đập vào mặt, tuy bất ngờ nhưng
như thế cũng đủ hợp lý cho nước mắt chảy ra. Nó không kềm nữa, không giấu nữa.
Mặt nó ướt mem. Nó thổn thức với Chúa vì nhận ra một điều:
- Chúa ơi, bây giờ con biết
làm chứng cho Chúa không dễ lắm đâu!
Nắng đã lên cao và bạn bè đã
đi đâu hết. Hiếu chống tay chực ngồi dậy thì thấy một bàn tay chìa ra. Bàn tay
này là… Chợt nó thấy một tia ấm áp xuyên qua lồng ngực. Nó ngẩng đầu lên, tươi
tỉnh hẳn. Đằng sau lớp sáng còn nhòe nước mắt, nó nhận ra đúng gương mặt ấy.
Nắm lấy bàn tay, Hiếu đứng dậy. Nó bảo:
- Bằng con cá đầu tiên!
…
Hai đứa trẻ cùng đi vào làng,
bỏ lại sân chơi đầy dấu chân chằng chịt. Chân chúng đi in hình mới trên đất –
hình những dấu chân non.
Mã số: 15-122
Trưa nắng nóng, mấy cành
trứng cá ủ rủ, khô khốc vì cái nắng của ông trời. Âý thế mà giờ này tôi phải
đội nắng ra đường! Ghét ghê! Chả là thầy giáo bộ môn Công Nghệ bảo tụi tôi phải
đi tìm sâu hại lúa hoặc hại cây trồng để đem lên trường học. Đến mạ người ta
còn chưa cấy nữa mà… Hầy (thở dài )!
“Đành phải hy sinh thôi”- Tôi
thầm nghĩ. Rồi tôi vào nhà, tìm mọi thứ có thể để trùm lên người lúc này. Nhìn
tôi giống hệt một con Ninja thôi, chỉ chừa mỗi con mắt. Rõ chán mà! Tôi đi
loanh quanh hết ruộng này đến ruộng khác “vạch lá tìm sâu”… và kết quả … không
có gì cả … Mặt nóng hừng hực tôi bước về nhà …
Ngồi ở nhà, dưới gốc xoài,
hưởng vài cơn gió cho mát người, tôi bất chợt nhìn sang nhà ông hàng xóm. Ô hô
hô đây chứ đâu mà tìm, giàn mướp nhà ổng bị sâu ăn quá trời kìa! Chẳng lẽ không
còn sót lại một con nào trên đó. Nói là làm liền, tôi phi thẳng xuống nhà ông
hàng xóm mà quên đi cái bực tức vừa dâng tràn. Hên thật! Vẫn còn một con sống
sót. Tôi hớn hở cho con sâu vào một cái hộp tôi đã chuẩn bị sẵn, và không quên
cắt cho nó mấy cái lá mướp xanh tươi mơn mởn. Tôi toan quay đầu đi, thì nghe
thấy tiếng gọi :
- Đứa nào đó bây?
…Tôi im lặng.
- Đứa nào đó hê?
À, đây là bà Phi! Bà là mẹ
ruột của ông hàng xóm nhà tôi đấy! Bà già rồi, lại còn hay bị bệnh nữa. Bà hay
đãng trí, đi tùm lum, lượm bậy bạ về nhà. Tôi mới ở đây có vài tháng thôi, mà
đã thấy bức xúc. Vì bà hay bị con cháu trong nhà mắng chửi lắm. Nhưng bà có
muốn như vậy đâu, chỉ là do con bệnh thôi mà. Mà từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ,
tôi chưa thấy cái nhà nào như cái nhà ông này, buổi sáng sớm đấy, trong lành,
tinh khôi thế đấy, ông ta mở nhạc nào là: Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình ….
hay là mẹ yêu ơi, mẹ yêu …. bla bla bla, vậy mà chiều về, ông ta lại la mắng
bà. Có một hôm, ông Diệp, hàng xóm nhà tôi có khách, bà không nhận ra nên hỏi
là ai, thế là bị cô con dâu mắng cho một trận. Thiệt đau lòng mà. Đáng nhẽ bà ở
với cô Hiền sẽ tốt hơn. Tôi thấy cô lo cho mẹ lắm! Nhưng cô cũng còn gia đình,
còn con nhỏ nữa, trong khi con cái ông Diệp đã lớn và có chồng con hết rồi.
“Thôi, không quan tâm nữa”.-
Tôi gác mấy cái suy nghĩ đó sang một bên. Bỏ qua luôn câu hỏi của bà, tôi chạy
ào về nhà, vừa tránh nắng và khỏi mất thời gian ….
* * *
Thả cặp cái rầm xuống bàn,
tôi lăn trên giường hậm hực. Bỗng ai gõ cửa sổ phòng tôi :
- Bị sao mà dậm đùng đùng đó?
À, là Quang, người tôi thầm
để ý từ lâu. Nó không những học giỏi mà còn cao ráo, đẹp trai, lại còn biết
chơi bóng rổ nữa chứ! Đúng là lí tưởng mà. Chắc tôi “say nắng” đến chết thôi…
Ngay lập tức nghe tiếng Quang thì tôi vội vàng mở cửa sổ, vẻ mặt buồn rười rượi
:
- Hầy …
- Sao ?
- Tức chứ sao ?
- Sao đồng chí tức ?- Quang
chọc cười tôi (Đúng là đáng yêu mà).
- (Phì cười )… Nghĩ sao không
tức! Bắt tui trưa nắng đi tìm sâu, mệt muốn chết. Vậy mà đem nộp thì thầy kêu
tiết này bận, tiết sau nộp, giờ tui phải nuôi con sâu đến thứ Hai, 3 ngày lận.
- Thôi mà, học thì chịu, sùng
sùng gì?
- Ớ, mới đó còn…
- Hehe… Đùa thôi chứ hái cho
nó vài cái lá, đục cho cái lỗ để nó có oxi thở nha… Lỗ nhỏ chớ không nó bò mất
á.
- Biết rồi.
- Tui đi tập bóng đây.
- Ừm! Bai…
Tôi vẫy tay và nhìn Quang đi
mất hút (cảm giác vui vẻ được phần nào rồi)…
Thay đồ lẹ lẹ rồi tôi phi
thẳng xuống nhà ông Diệp. Đi đâu hết trơn à, chỉ còn bà Phi thôi. Tôi cắt mấy
cái lá còn xanh mơn mởm đem về cho con sâu. Công việc xong xuôi, tôi lại nghe
có tiếng gọi :
- Đứa nào đó bây?
Lại là bà Phi đó! Tôi định
không trả lời nhưng tôi khựng lại khi nhìn bà. Bà đang ăn cơm. Rơi vãi lung
tung, bà già rồi mà đem cho bà ăn cơm với nước cá kho. Khô thế bà ăn sao nổi,
không có miếng cá, thịt gì cho bà luôn, canh cũng không có.
- Đứa nào đó bây, Hiền hả con?
- Dạ, con Hiền đây má- Tôi vờ
làm cô Hiền.
- Sao lâu quá không thấy thăm
má con?
- Dạ… con…
- Thôi ngồi xuống đây má hỏi
xíu.
- Dạ!
Tôi cũng ngồi xuống, nhưng
nhìn thấy bà tôi lại không ngồi được. Tôi lấy khăn lau miệng cho bà và nói:
- Má chờ con xíu nha!- Nói
rồi tôi chạy về nhà, bưng bát canh bồ ngót xuống cho bà.
- Má ăn đi.
- Ừ!
Bà ăn đàng hoàng hơn, dễ nuốt
hơn. Bà ăn xong tôi dìu bà vào cái chõng tre xiên xẹo, cho bà ngủ rồi tôi mới
về nhà. Hên thật, tôi về tới nhà rồi thì ông Diệp mới về.
* * *
Hôm nay tôi lại đi cắt lá cho
sâu nữa. May là vợ chồng ổng đi hết rồi. Tôi thanh thản đến ngắt một cái lá
mướp cho con sâu. Và rồi bà Phi lại gọi tôi nữa:
- Ai đó bây, Hiền nữa hả con
?
Và tôi tiếp tục đóng vai cô
Hiền ngồi lại nói chuyện với bà. Bà nói cho tôi nhiều chuyện lắm. Tôi thấy cần
thiết nghe bà nói. Bà nói tối bà ngủ lạnh lắm! Cái chòi bé xíu, có biết bao
nhiêu lỗ hổng trên đó… Tối bà ngủ run cầm cập. Đợi bà nói hết và ngủ, thì tôi
mới đứng lên, rồi tôi thấy bứt rứt trong người. Tôi thấy thương bà, không muốn
bà lạnh. Nhìn cái chòi nhỏ xíu chất biết bao nhiêu là bao trấu, bao gạo, vỉ
phơi bánh tráng… Tôi nghĩ, và đích thân tôi đi khiêng từng cái vỉ phơi bánh ra,
lấp đầy chỗ trống của cái chòi. Vì cũng nhiều nên khá kín, tôi làm như vậy để
mong bà tối ngủ sẽ được ấm hơn.
* * *
Càng ngày tôi càng thương bà.
Hôm nay, mặc dù không đi hái lá cho sâu nhưng tôi vẫn xuống thăm bà. Tôi định
đem cho bà mấy trái quýt căng mọng nước. Hôm nay cũng như mọi khi, tôi xuống
thăm bà. Nhưng cảm giác như thế nào ấy, hình như tôi bị theo dõi. Đi vài bước…
quay lại… không có ai, vài bước nữa, quay lại cũng không có ai… Cảm giác sờ sợ,
tôi nhăn mặt, ngước đầu lên… Rồi lấy hết dũng khí, nhắm mắt lại, quay đầu lại
và chạy về nhà. Bất ngờ ùm một phát…
- A!- Tôi hét lên, nhắm tịt
mắt.
- Cái thứ gì dẻ trời (Ai nghe giọng quen quen dữ ta?).
- Ô!- Tôi mở mắt ra và thấy
Quang- Ông làm cái gì dẻ?
- Định hù bà cái mà ai ngờ …
- Chơi ngu … - Tôi tức giận
- Xin lỗi nhá, mà bà đi đâu
đó?
- À... thì…
- Bà đi hái trộm mận phải
hông?
- Xấc, ông nghĩ mặt mũi tui
vầy đi hái trộm là sao?
- Chứ bà đi đâu?
- Đi… đi…
- Đi đâu?
- Trời ơi, tui đi thăm bà
Phi.
- Thì nói đi thăm bà Phi. Sao
mà ấp a ấp úng chi… Mờ ám…
- Kệ tui.
- Mà bà thăm bả chi? Quen
biết hay họ hàng?
- Không phải, tại mấy bữa đi
cắt lá mướp á, bả thấy tui, mà cứ tưởng là cô Hiền miết, nên tui giả làm cô
Hiền luôn!
- Trời vậy cũng giấu, điên
mà.
- Đi chết đi!
- Hehe… đùa thôi mà, mà bà
cho tui đi chung với.
- Xí!
Tôi với Quang vào thăm bà. Bà
cũng đang ăn cơm, miệng mồm lại từa lưa. Như thường lệ, tôi lau miệng cho bà.
Bà ăn cơm xong, tôi lột cho bà mấy trái quýt. Bà cũng hỏi tôi vài câu linh
tinh, lặp đi lặp lại nhiều lần. Tôi trả lời và dìu bà lên giường, đợi bà ngủ.
Bà ngủ rồi, tôi với Quang
lặng lẽ đi ra.
- Thương người ta quá bây! -
Quang nhìn tôi và cười.
- Tại tui thấy bức xúc… Cầu
Chúa cho bà luôn mạnh khỏe!
- Ừ! Tôi cũng sẽ cầu nguyện
chung với bà.
- Cảm ơn!
- Rồi ít bữa bà đi ai lo cho
bả?
- Tui không biết. Ông nè!
- Tui hả, tui có biết gì đâu.
- Ai cần biết? Lâu lâu xuống
thăm, nói chuyện với bả là được rồi, nghe bả nói, giúp đỡ bả.
- Ơ, tui không quen bả.
- Thì coi như ông là thằng
Thiên cháu bả đi. Bả không còn nhớ ai là ai đâu.
- Ờ… thì…
- Đi, đi năn nỉ á…
- Ok, chiều bà nốt lần này
đó.
- Hê hê, cảm ơn Quang đẹp
trai.
- Không có gì.
- Mà hứa đi, tui mới tin, ông
gian lắm!
- Hứa, móc ngoéo nà.
- Tốt, việc làm của ngươi sẽ
là chìa khóa rộng mở để ngươi đến Thiên Đàng… haha- Tôi giả giọng …
- Xì… Đi chơi bóng rổ với tui
không? Bóng rơ, bóng rổ …
- Đi… đi…
- Mà bà là đồ chân ngắn, sao
ném bóng cho tới… hahaha.
- Ai… xì, cái ông này.
- Đùa thôi, thích thì đi…
- Phải vậy chứ!
Rồi hai đứa mất hút.
* * *
- Chiều nay đi phải không?-
Quang hỏi khi còn đang ném bóng.
- Không, chiều mai- Tôi buồn
rười rượi, tay ôm bóng (Tôi sắp chuyển nhà rồi).
- Ờ- Quang vẫn cứ tâng bóng
rồi ném, tâng rồi ném.
- Sao à?
- Đâu có sao đâu!
- Ông nhớ là phải xuống thăm
bà Phi đấy.
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi
…
- Bữa nay ông sao vậy? Ông có
chuyện gì à?
- Sao đâu? Bình thường mờ…
- Không giống mấy bữa, bữa
nay ông im lặng quá à…
- Nói mỏi miệng, không nói!
- Ừ…
- Mà nhà mới của bà ở đâu?
- Xóm mình đi xuống, có cái
ngã ba ngay trường tiểu học á. Vô khoảng 30m là tới
- Ờ…
- Ừ…
Tự nhiên cả hai đứa tôi im
lặng đến lạ. Quang có chuyện gì muốn nói mà buồn lắm. Tôi cũng không hỏi gì
nữa, nhìn Quang chơi bóng.
- Ok, hôm nay là lần cuối
cùng tôi chơi bóng rổ với ông, đấu trận cuối đi.
- Toàn thua mà đấu chi.
- Kệ tui, tui thua chớ ông
thua ne!
- Thích thì chiều! – Quang
cầm trái bóng, ném vào đầu tôi.
- Ai- da… đau…
- Xin lỗi –Vẫn tiết kiệm lời.
Trận đấu bắt đầu. Tôi cố cười
để quên đi cái u buồn, nhưng Quang vẫn im lặng. Trận này, Quang nhường tôi
nhiều lắm. Quang nhường đến nỗi đây là lần đầu tiên tôi thắng Quang.
Trời bắt đầu tối, tôi sắp xếp
ra về. Trên đường về, Quang cũng chẳng nói một lời.
- Bữa nay ông sao ấy…
- Sao đâu hê?
- Nói láo quá đi, tui sắp đi,
nhớ tui quá phải hông?
- Bà nghĩ tui có nhớ bà
không, haha, ảo tưởng à!
- Xấc… Hông thôi, Quang thất
tình, tình, tình, tình, tình…
- Thất tình nề- Quang cốc đầu
tôi.
- Ai da, đau!
- Đáng!
- Không thèm chơi nữa, tui về
trước.
- Từ từ- Quang kéo tôi lại
–Nè …Quang đưa cho tôi một cái hộp nhỏ.
- Cái gì đây?
- Về mở ra rồi biết.
- Đưa điện thoại ông đây …
- Chi dả?
- Đưa đi…
- Nè!
Tôi cầm điện thoại Quang, tự
lưu tên và số trong đó.
- Tui sẽ gọi ông để hỏi về bà
Phi thường xuyên đó.
- Gặp ở trường được rồi.
- Ông học lớp xa quá.
- Ờ…
- Thôi tui về trước, bai bai…
- Ừ, bai!
Tôi chạy về nhà vào phòng và
mở quà của Quang. Woa, đẹp thật đấy! Một cái dây da và một bức thư. A, hình như
hắn cũng có một cái dây y như vầy. Thôi kệ, tôi mở bức thư ra. Trong đó là
những dòng chữ quen thuộc của Quang:
Chào
Minh!
Cái
vòng da đẹp hông? Ngày mai mà không thấy bà đeo là chết với tui đó. À… mà tôi
định cảm ơn bà vì bà mà tôi nhận ra được một vài điều khá là ý nghĩa. Thật ra
là thấy bà đi học giáo lí hoài tui cũng bắt đầu đi theo chứ trước giờ tui toàn
đi nhà thờ không à, thời gian đi học giáo lí thì tui đi tập bóng. Từ ngày bà
về, tui có vẻ kết bà hẳn. Tui cũng bắt đầu đi học giáo lí, biết thêm được nhiều
điều, hi vọng bắt đầu lại từ bây giờ cũng không còn muộn nhỉ. Cảm ơn bà lắm lắm
luôn á, nhờ bà mà tui nhận ra mình nên sống trong thương yêu á. (Như Chúa dạy
đấy). Bà thật sự là một người tốt, tui hứa sẽ đi thăm bà Phi giúp cho bà. Nhưng
bà cũng phải thường xuyên về thăm bả đó. Ngày mai bà đi rồi, đi vui vẻ nhá. Nhớ
tui nha, đồ ngốc!
Gấp lá thư lại, tôi có có cảm
giác vui mừng lạ! Chẳng biết vì sao mà hắn lại tặng tôi cái vòng đó, giống hắn
y chang. Hay là ….
Đấy! Bạn thấy không, Chúa
chẳng bỏ quên ai cả. Ta cho đi chút ít yêu thương thì ta lại được nhận về cả
biển yêu thương.
Mã số: 15-124
Ông – một con người lãng quên
Chúa đã hàng chục năm, thỉnh thoảng tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật như một
hình thức.
Ông – một Pha-ri-sêu luôn tỏ
ra am hiểu và nói về Kinh Thánh nhưng trống rỗng trước danh xưng Thiên Chúa.
Ông – một Ki-tô hữu thực sự,
có đạo nhưng chẳng sống đạo. Ông tách gia đình mình khỏi cộng đoàn giáo xứ, tìm
mọi cách trốn tránh nghĩa vụ và chối bỏ mối dây liên kết với cộng đoàn dân Chúa
trong xứ đạo…
Nhắc đến tên ông, người ta
nghĩ ngay một con người như thế, một lối sống như thế. Người ta bĩu môi, người
ta chê trách, người ta hững hờ.
Một ngày nọ, ông bị trượt
chân té ngã ở bậc thềm. Tuổi già mà. Ông nhập viện. Bác sĩ bảo ông bị tai biến
nhưng may kịp thời nên cứu được. Ông qua khỏi giai đoạn mà nhiều người nghĩ
chắc Chúa đến tìm ông. Nhưng bác sĩ không thể chữa được đôi chân vốn lành lặn
nay trở thành khập khiễng. Gần hai tuần, ông xuất viện. Dân làng khuyên ông tìm
đến với cộng đoàn An-tôn của cha xứ để các thầy giúp cho. Dường như đó là
phương án cuối cùng nên cậu út chuyên cần lắm. Hai lần một ngày, cậu chở ông
tới các thầy để châm cứu. Mấy tuần sau, ông đi lại bình thường. Người ta ngỡ
ngàng, hân hoan khi ông được khỏe mạnh như trước. Nhưng chắc hẳn ngỡ ngàng và
hân hoan hơn khi chứng kiến một sự “lột xác” mà cả trong tưởng tượng, người ta
cũng chẳng dám nghĩ đến.
- Này bà kia, bà đi đâu thế?
Người phụ nữ mặc áo trắng,
mái tóc đen dài buông xõa, hai tay dắt hai đứa trẻ chừng lên bảy, lên mười. Họ
vẫn đi, không thèm ngoái đầu lại, mặc cho tiếng ông hét khản đặc. Họ hướng về
ngôi thánh đường ở cạnh dòng sông. Đúng rồi, trước năm 1986, gia đình họ ở
ngoài ấy mà. Bà hỏi thăm gia đình ông Quang. Người ta chỉ cho bà quay lại ngoài
con đê, đi vào trong xóm rậm rạp cây cối ở kia vì theo chính sách của Đảng, ông
đã chuyển vào đó để khai phá đất mới. Xa xăm lắm, mơ hồ lắm, nhưng cũng đủ để
ông nhận ra họ là ai. Người vợ quá cố và hai đứa con trai của ông!
Ông mệt đừ, mồ hôi ướt sũng.
Ông sợ hãi. Ông muốn chạy trốn. Đã bao đêm nay, người phụ nữ và hai đứa trẻ cứ
tìm đến với ông trong giấc mơ. Ông phải đặt con dao đầu giường đề phòng bất
trắc. Ông không muốn đi cùng họ. Mỗi lần tỉnh dậy, ông hoang mang, tê dại trong
miền kí ức.
Ngày ấy, chẳng hiểu sao cô
gái trẻ đẹp, ngoan hiền ấy lại chọn một gã thanh niên tàng tàng như ông. Ngoại
hình chẳng có, tiền bạc không, lại hay nhậu nhẹt. Có chăng là thương anh chàng
mỗi tối đánh xe bò kéo, nửa đêm đi bốc gỗ. Hay cô muốn “cảm hóa” con người ấy?
Dân làng chỉ biết dùng “duyên, phận” để giải thích cho cuộc hôn nhân của đôi
đũa lệch.
Họ sống hạnh phúc được một
thời gian và có hai đứa con trai. Nhưng cái thói vũ phu đã ngấm trong máu ông
chắc không thể mất được. Mỗi lần uống rượu say, ông lại hành hạ vợ con một
trận, để sáng hôm sau, ê chề chẳng nhớ nổi cái thằng đàn ông khốn nạn, đê hèn
nơi mình. Cuộc sống nào ai đoán nổi chữ “ngờ”. Vợ ông mất trong một lần sang
sông đúng ngày đứa út lên bảy. Người đàn ông vốn nguội lạnh nay lại thêm cảnh
gà trống nuôi con. Vợ đi, ông cáu kỉnh, gắt gỏng và chìm trong ma men. Phải hơn
nửa tháng sau, ông mới vực đi làm lại.
Ông cưa gỗ cho một xưởng cách
nhà hơn chục cây số. Sáng đi, tối về, chiếc xe đạp lộc cộc gõ nhịp trên quãng
dường dài. Ông bỏ mặc hai đứa con ở nhà tự sống qua ngày. Mỗi ngày được một
bữa, thức ăn lại chẳng có. Bữa sướng nhất có cơm với muối, không thì mấy hạt
gạo sống nhai tạm cho đỡ đói. Có hôm nhà không còn hạt gạo nào, hai thằng bé
phải xin nhờ hàng xóm. Cái thời đó, có nhà nào đủ ăn để bố thì thường xuyên cho
hai đứa! Thằng Tuấn đã gầy gò từ nhỏ, nay lại phải sống như vậy nữa. Mấy tháng
sau, nó chết. Dân làng hiểu rõ vì sao Chúa gọi nó về sớm vậy. Họ thầm trách một
người cha nhẫn tâm chẳng đoái hoài tới máu thịt của mình. Còn thằng Minh, ngày
trước được mẹ chăm kĩ hơn nên còn sức gắng gượng. Nhưng sau khi anh nó mất, nó
còn phải sống tệ, sống nhục hơn nữa.
- Mày là thằng vô tích sự,
chết đi cho khuất mắt tao!
Ông đay, ông nghiến, ông dí
đầu nó xuống sát đất. Ông tìm hạnh phúc mới cho mình. Một người đàn bà đã một
đời chồng và hai đứa con. Bà chẳng điêu ngoa nhưng cũng chưa đủ hiền dịu để
biết cảm thông và che chở cho thằng Minh. Từ đây là những tháng ngày nhục nhã
của nó, không phải do mụ dì ghẻ mà bởi chính người cha ruột. Ông bảo nó siêng
ăn nhác làm, là cái của nợ tốn cơm tốn áo mà chẳng được cái gì ra hồn. Rồi như
một điệp khúc thường ngày, ông chửi, ông đánh. Ông làm cho nó một cái “giường”
nhỏ ghép từ những ống nứa gãy, đặt một góc trong xó bếp. Ông nói rằng nó là con
chó, không phải con trai ông, mà chó không được ngủ nhà trên, phải canh cửa
dưới bếp. Có nhiều bữa bị bỏ đói, nó chạy xung quanh xóm xin ăn. Người ta
thương cho nó nắm cơm, bắp ngô lót dạ. Nhưng người mà nó gọi bằng cha lại đi
chửi xóm làng thậm tệ, bảo không cần kẻ nào bố thí cho nó… Lúc đầu người ta còn
lén lút cho nó, sau làm ơn mà còn bị mắc oán, họ khuyên nó nên đi chỗ khác xa
hơn để xin. Tối ấy, nó đói lả, cồn cào, không tài nào nhắm mắt. Nó nhớ đến vạt
rau khoai sau bếp. Thế là có bao nhiêu rau, nó hái vào luộc ăn ngấu nghiến.
Sáng dậy, cha nó biết chuyện. Ông đánh đập, chửi bới. Ấm ức quá, nó cãi lại:
- Ông không cho tôi ăn cơm,
cũng chẳng cho người ta bố thí thì tôi hái rau trong nhà ăn mà sống chứ sao!
Câu nói như lời phản kháng mà
bao nhiêu năm qua nó vẫn nhẫn nhục chịu đựng. Lối xưng hô ấy có lẽ đã đoạn
tuyệt tình máu mủ. Hôm đó, có người trong xã bán hàng bún nhận nó về làm công
và cho ở lại trong nhà. Được ăn đầy đủ, nó có da, có thịt, đẹp trai. Thấm thoắt
tuổi đôi mươi, họ lo nốt cho nó khoản cưới vợ, xây nhà theo diện nó là một trẻ
mồ côi.
Ông thẫn thờ, gục đầu, run
lẩy bẩy. Ông sợ vợ con tới đòi nợ hay sợ hãi phần con người tàn nhẫn nơi ông?
Sống trong những mặc cảm tội lỗi, ông day dứt, hối hận, giằng xé tâm hồn.
Mùa Phục Sinh năm ấy, người
ta sững sờ chứng kiến sự “lột xác” của một con người. Sáng sớm, dù nắng hay
mưa, lạnh buốt hay mát mẻ, một ông cụ ngoài bảy mươi vẫn chuyên cần cùng chiếc
xe đạp cộc, gắn thêm cái đèn pin trước giỏ hướng về ngôi thánh đường. Dân làng
bảo ông được ơn riêng chữa lành lặn đôi chân, được Thánh Thần thúc đẩy nên hoán
cải đời sống. Nào ai hiểu cuộc chiến dữ dội trong tâm hồn ấy. Hơn một năm quay
về với Chúa, thằng út của ông vốn nát be nát bét nay cưới được cô vợ hiền,
nhanh nhẹn. Từ ngày có vợ, nó tu chí làm ăn, bỏ rượu, da dẻ hồng hào đẹp trai
hẳn. Trong gia đình ấy, ngày ngày rộn rã tiếng cười nói, đêm đêm âm vang tiếng
kinh cầu. Ông nghẹn ngào đọc chẳng hết đoạn lời Chúa trong sách I-sai-a, đôi
mắt đẫm lệ:
“Tội các ngươi, dầu có đỏ như
son, cũng ra trắng như tuyết;
Có thẫm tựa vải điều, cũng
hóa trắng như bông…”
Mã số: 15-125
Sau bữa cơm chiều, trời đã
nhá nhem tối, ông Tư ra trước nhà, bắc chiếc ghế dựa ở giữa sân rồi ngồi lên
đó. Tay ông lúc nào cũng cầm cái quạt mo phe phẩy. Lâu lâu, ông đập phành phạch
cái quạt vào chân để đuổi muỗi. Mùa này trời oi bức, trong nhà lại ngột ngạt,
ngoài sân tuy có muỗi nhưng lại thoáng. Sau một hớp trà, ông tằng hắng
gọi :
- Thanh ! Thanh à !
Thằng Thanh chạy ra :
- Thưa ba…
Ông Tư nói tiếp:
- Sao! Vấn đề hôm trước ba
nói với con đó, con nghĩ thế nào?
Thanh lúng túng:
- Ba để con suy nghĩ kỹ đã…
Ông Tư gằn giọng:
- Suy nghĩ gì nữa, một là đi-
hai là không, dễ quá. Mà dù gì đi nữa theo ba, con nên đi. Đó là một vinh dự.
Con không thấy trong họ đạo mình có cả chục đứa trai lẫn gái đã đến Cha sở ghi
tên rồi sao. Đây chỉ là dự tu, nếu có ơn gọi- đi luôn, còn không- thì về, mất
mát gì.
Thanh lí nhí:
- Nhưng mà con đã đăng ký thi
đại học rồi.
Ông Tư hạ giọng:
- Đại học mà ăn nhằm gì con.
Đi tu còn hơn thế nữa. Con sẽ học nào là triết học rồi thần học và biết đâu con
còn có dịp đi du học nữa. Học trình ở Đại chủng viện tương đương với cử nhân
hay cao học ở bên ngoài đó con. Hay là con muốn đi tu dòng như thằng Mẫn ?
Hồi xưa ba cũng từng đi tu đấy nhưng rồi Chúa không chọn. Chúa gọi thì nhiều mà
chọn thì ít, chứ không phải ai đi tu cũng trở thành ông cha, bà phước cả đâu…
Nói thế chứ trong thâm tâm,
ông Tư rất thèm có một đứa con đi tu làm linh mục, để đi đâu mọi người gặp ông
đều chắp tay chào ông cố oai ra phết. Ông vẫn tự nhận thấy mình còn lôi thôi về
nhiều mặt lắm, cần phải sửa chữa. Trong lễ Chúa Chiên lành, thánh lễ cầu cho ơn
thiên triệu linh mục và tu sĩ vừa qua, Cha sở có nói trong bài giảng rằng bản
thân người đi tu đạo đức một, cha mẹ phải đạo đức mười. Đạo đức tới mười không
biết mình có với tới nổi không, ông Tư thầm nghĩ.
Như để chuộc lỗi nãy giờ bắt
thằng Thanh phải đứng hầu, ông giả lả:
- À, con chạy vô lấy cái ghế
đẩu ra đây, cha con mình còn nói chuyện hơi lâu đó.
Thằng Thanh mang chiếc ghế ra
đặt bên cạnh, ông Tư tranh thủ tiếp:
- Nhà của bác Cẩm có hai đứa
con gái sinh đôi mà cả hai đều đi tu dòng cả, còn bác Thắng chỉ có độc mỗi
thằng con trai mà nó cũng đòi đi tu triều đợt này đó.
Thằng Thanh vẫn làm thinh,
trong lòng nó ngổn ngang những suy tư trăn trở. Nó không ngờ đến bây giờ nó
phải đối diện với một sự thử thách khủng khiếp như vậy. Vừa rồi nó có đem vấn
đề này ra bàn với Thùy Linh, Thùy Linh không nói gì nhưng đôi mắt của cô ấy đã
hoe hoe đỏ. Thanh lúc nào cũng quả quyết chỉ xem Thùy Linh là một cô bạn học
thân thiết. Thế nhưng đi đâu, làm gì, vắng Thùy Linh, thì nỗi buồn không tên
lại dâng trào trong tâm hồn Thanh như hắn vừa đánh mất đi một món quà đầy tiếc
nuối.
Ông Tư lại đập muỗi, tiếng
quạt phành phạch khiến Thanh giật mình :
- Ngày mai con sẽ lên Cha sở.
Ông Tư mừng rỡ :
- Con suy nghĩ kỹ rồi hả? Rán
nghe con, ba tin tưởng ở con đó.
oOo
Suốt một đêm trằn trọc không
ngủ, Thanh ngồi lên viết một bức thư dài cho Thùy Linh. Sau khi đọc đi đọc lại
nhiều lần, chàng cẩn thận bỏ lá thư vào phong bì và ngăn vào giữa quyển lưu
bút.
Một tuần sau, khi đang chuẩn
bị hành lý để lên đường vào Đại chủng viện thì Khắc Long em của Thùy Linh đến.
Nó đưa cho Thanh chiếc hộp rồi lặng lẽ ra về.
Trong chiếc hộp lại là quyển
lưu bút, lần này có cả xấp hình chụp những buổi sinh hoạt Thiếu nhi Thánh thể
có mặt cả hai đứa và bức thư màu xanh lấm lem những dòng mực tím của Thùy Linh.
Thanh mang tất cả ra góc vườn xé từng tờ một và đốt thành tro bụi. Những mảng
tro bị gió bốc lên cao bay đi tứ phía như những tình cảm, niềm say mê và cao
vọng của người thanh niên mới lớn như Thanh vẫn ngùn ngụt dâng trào dù nó đang
dịch chuyển, ít ra là trong lúc này.
Thấm thoát mà đã ba năm,
Thanh được mặc áo dòng. Chiếc áo chùng thâm làm Thanh trông đạo mạo hẳn lên.
Chàng khẩn nài bề trên cho mình được đi giúp xứ trong đợt này tại một họ đạo
nào xa xôi nhất, khó khăn nhất để tôi luyện bản thân và Thanh đã được toại
nguyện. Giáo xứ Kinh Cùng vắng linh mục nhiều năm, đường đi cách trở, giáo dân
ly tán, cư dân nghèo nàn. Những gian khổ đang chờ đón thầy Thanh ở phía trước.
Đường từ huyện lỵ về Kinh
Cùng chỉ non năm mươi cây số thế mà chiếc đò máy phải ì ạch đi mất ba tiếng
đồng hồ, vượt qua những khúc sông hẹp đầy dẫy lục bình. Người chủ đò đôi khi
còn phải dùng cây sào dài cắm xuống lòng sông để đẩy tiếp với máy, giúp chiếc
đò đi tới cho nhanh kẻo gặp nước cạn phải cắm sào ngồi chờ.
Nhưng rồi điều gì tới là tới.
Chợ Kinh Cùng đã hiện ra trước mặt. Một ngôi chợ lèo tèo với vài hàng quán xác
xơ. Một trường Tiểu học có hai phòng lớp và một trạm y tế với mái ngói rêu
phong nằm kề nhau phía bên kia sông, càng làm tăng thêm vẻ ảm đạm của một làng
quê nghèo.
Thầy Thanh vác hành lý rảo
bước trên con đường làng. Tiếng cô giáo giảng bài nghe quen quá. Chân thầy hơi
sựng lại đôi chút. Đúng rồi, không thể là ai khác. Tiếng giảng bài văng vẳng
như đuổi theo từng bước đi của thầy. Thầy cắm cúi bước thật nhanh về hướng nhà
thờ.
Mã số: 15-126
Ai cũng nói Phương may mắn
với công việc hiện tại. Cũng không biết có điều đó đúng hay sai vì
Phương không mấy tin tưởng chuyện hên xui, may rủi. Nhưng giờ ngẫm nghĩ
lại cũng thấy cái may mắn mà mọi người nói cô cũng có lý. Nói chi
xa, đám bạn cùng tuổi, toàn kỹ sư, bác sĩ chứ có đùa đâu với đủ
thứ bằng cấp vậy mà vẫn thất nghiệp dài dài. Mấy đứa có việc thì
hầu hết nhờ chấp nhận làm trái nghề.
Phương làm ở một bệnh viện
phụ sản. Đây là nơi cô trụ lại lâu nhất sau khoảng thời gian bôn ba khắp nơi
cùng với đủ mọi công việc. Đến giờ này, hơn 4 năm gắn bó vậy mà không ít lần cô
cứ nghĩ mình đang mơ. Với cô, còn gì hạnh phúc hơn được làm công việc mình yêu
thích và đúng chuyên môn nữa. Sự thật là vậy, Hậu sản là khoa luôn tràn ngập
tiếng cười và niềm hạnh phúc. Không có những gương mặt thấp thỏm đợi chờ hay
nhăn nhó đau đớn của các sản phụ chuẩn bị lên bàn sinh như khoa Tiền sản, nơi
Phương làm chỉ có nhưng nụ cười của những người được làm cha mẹ, của thân nhân,
bạn bè đến chia vui. Và cả những niềm hạnh phúc rạng ngời trong ánh mắt của
những người vừa trải qua hành trình vượt cạn thập tử nhất sinh. Phương yêu lắm
những bàn tay, bàn chân bé xíu, những làn da lán mịn nhưng cũng thật mỏng manh
của các em bé sơ sinh; Nhất là những gương mặt hồn nhiên thánh thiện tựa như
thiên thần. Nhưng với những dịch vụ mâu thuẫn nhất thì phải kể đến khoa Điều
trị hiếm muộn và khoa Kế hoạch hóa gia đình. Đây cũng là 2 khoa có nguồn thu
vượt trội ở bệnh viện với nhu cầu người đến khám và điều trị hằng ngày khá lớn.
Bên này người ta muốn có con bằng mọi giá thì bên kia cũng bằng mọi giá nhưng
người ta muốn bỏ con. Một bên với những người bỏ ra cả gia tài để chắt chiu,
ước mong cơ hội được làm mẹ cha. Thì ngược lại, bên kia có những con người đang
chối từ cái quyền thiêng liêng ấy, chỉ muốn trục những sinh linh bé bỏng ra
khỏi cơ thể mình càng nhanh càng tốt. Như ông bà xưa vẫn thường nói “kẻ ăn
không hết, người lần không ra”. Không ít phụ nữ, chỉ trong một thời gian ngắn
nhưng lại đến khám và đều trị ở cả 2 khoa . Đơn giản là khi còn trẻ đã nhiều
lần đến nạo, phá thai. Đến lúc lập gia đình, tìm một mụn con còn khó hơn mò kim
đáy biển. Vậy là tìm về chốn xưa (cũng bệnh viện ấy) nhưng nay lại là khách
hành của khoa Điều trị hiếm muộn. Trớ trêu đến thế là cùng…
****
Hôm đi rửa tháng lương đầu
tiên, tụi bạn Phương phấn khởi ra mặt:
- Mừng vì bạn mình có
việc làm đúng nghề. Và càng mừng hơn khi từ nay chúng ta có chuyên
gia tư vấn những chuyện thắc mắc…không biết hỏi ai. Ai có … lỡ khôn,
lỡ dại thì cũng liên hệ bạn mình luôn để được “giải quyết” kín
đáo, êm đẹp nhe các bạn !
Có lẽ hiểu nhau nhiều từ
hồi học chung mấy năm cấp 3 và cũng có thể do thời buổi này việc
ngủ chung, sống thử đã không còn là chuyện quá ghê gớm nên tụi nó
nói huỵt toẹt ra như vậy. Xa nhà, thiếu thốn tình cảm, tiết kiệm chi
phí, xem tính tình có hợp nhau không… nói chung là có 1001 lý do để người
ta giải thích sau đã góp gạo thổi cơm chung. Thích thì dọn đến, chán thì dọn
đi bảo là không hợp, chia tay sớm cho bớt đau khổ… Được gì, mất gì sau những
cuộc tình đó thì ai cũng hiểu, có điều “Con cá trong lờ đỏ lơ con mắt, con cá
ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”. Không ủng hộ cũng chẳng phản đối, với
Phương đó là một thực tế rất phổ biến không chỉ nơi người trẻ mà cả
người sồn sồn, trung niên thậm chí đến các cụ ông cũng cứ thế mà…thử. Đó là một
lựa chọn cá nhân của mỗi người. Chính vì không lựa chọn như số đông nên Phương
và một vài đứa trong nhóm bạn bị gán cho cái biệt danh “ Những phụ nữ trung
trinh tiết liệt của thế kỷ 21”. Tụi nó cứ thay nhau châm chọc: “Cái màng ấy
trước sau gì cũng mất thì dại gì ko mất cho sớm để cho biết mùi
đời”, “Cuộc đời đó có bao nhiêu mà hững hờ”.
Phương vẫn tâm niệm, tất cả là nhờ ơn Chúa nên
cho đến lúc này cô mới không sa ngã. Chứ tự bản thân mình chẳng làm được gì. Có
lẽ đức tin của cô đã được hun đúc nhờ những ngày tháng được, sống được yêu
thương cùng gia đình nơi xóm đạo miền quê. Ở đó có ngôi nhà thờ với tháp chuông
vươn cao giữa ruộng lúa xanh ngát bạt ngàn. Để rồi giờ đây, đó là chốn quay vể
mỗi khi cô muốn tìm lại bình an trong tâm hồn.
Nhưng nói như thế, không có
nghĩa hành trình bảo vệ đức tin của cô không hề gặp những cám dỗ, thử thách.
Lần đó vào một buổi cuối tuần, Thái rủ Phương đi xem phim. Đến giờ hẹn, đang
loay hoay tìm ổ khóa đã thấy Thái đẩy cửa bước vào cười tủm tỉm:
- Eo ơi son môi mới kìa, hôm
nay “ấy” xinh quá, cho anh… thơm một miếng nhe!
Cũng nụ hôn này, cũng đôi môi
này nhưng hôm nay cô cảm nhận có cái gì đó khác hơn. Hình như ngọt ngào và cũng
lâu hơn mọi khi… Phương thấy mình như đang dần tan chảy của trong vòng tay ấm
áp của anh, cô muốn buông xuôi tất cả …bất chợt tiếng chuông từ ngôi nhà thờ
gần đó vang lên những âm thanh quen thuộc làm Phương bừng tỉnh... Nhẹ nhàng gỡ
tay tay người yêu, cô nhắc khéo:
- Chúa nhắc mình đến giờ… đi
cine rồi kìa anh !
Thái giả vờ như không thấy,
không nghe gì cả nên càng siết Phương chặt hơn, hôn tới tấp lên môi, lên má rồi
dần xuống cổ, xuống ngực. Một chiếc nút, hai chiếc nút nhanh chóng bung ra…
Dùng hết sức, cô thụt chỏ thật mạnh vào bụng Thái rồi lao ra trước hiên dãy nhà
trọ đứng chống nạnh miệng thở hổn hển:
- Em đã nói nhiều lần
rồi. Em sẽ cho anh tất cả, nhưng trước tiên anh hãy trả lời đi, chúng
ta sẽ thu xếp cuộc sống như thế nào khi em có thai ? Đồng lương của 2
đứa đã đủ để nuôi con chưa? Và còn biết bao nhiêu hệ lụy nữa anh à !
Thái lí nhí trong miệng:
- Phương, cho anh xin lỗi…
Tỏ ra mạnh mẽ, cứng rắn nhưng
thật sự lúc này đây Phương thấy mình thật yếu đuối. Cô thầm cảm tạ Chúa đã soi
sáng để cô có thể dứt khoát với những đòi hỏi của người yêu và nhất là thắng
vượt những cảm xúc của chính mình. Sau lần đó, Phương “cấm tuyệt” Thái
bước chân lên nhà trọ nữa ở vì không muốn chuyện đó lặp lại lần
nữa. Thôi thì phòng bệnh vẫn tốt hơn trị bệnh.
****
Bước ra khỏi phòng nhân sự,
Phương như người mất hồn. Cô hoàn toàn không ngờ có ngày mình phải
đối mặt với hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Tiếp tục làm việc hay nộp
đơn xin nghỉ? Tồn tại hay không tồn tại ? Theo quyết định điều chuyển,
Phương sẽ về phụ trách việc cấp phát thuốc phá thai ở khoa Kế hoặch
hóa gia đình. Lúc nảy, Phương đã nài nỉ thậm chí van xin bà trưởng
phòng nhân sự :
- Con theo đạo Công giáo
chắc không làm việc này được cô ạ. Con có thể làm bất cứ việc gì
trừ việc này, con …con…không làm được.
Trưởng phòng nhân sự vẫn
cương quyết:
- Ai cũng lựa chọn công
việc theo ý mình thì có lẽ cái bệnh viện này sẽ loạn lên hết.
Người ta có thai ngoài ý muốn nên mới cần mình hỗ trợ họ, cũng là
làm phước mà thôi. Nghĩ kỹ đi, cái bào thai thì đã là con người đâu
mà con lo nghĩ sâu xa. Chuyển công tác thu nhập của con sẽ tăng lên
đáng kể. Cứ suy nghĩ rồi sáng mai trả lời!
Càng nghe, Phương càng
thấy rợn người trước những lời lẽ thản nhiên đến lạnh lùng của họ.
Lạnh lùng nên nơi đây mỗi ngày hàng chục thai nhi phải chết tức tưởi,
phẫn uất trong sự lặng im, thờ ơ của những người cha người mẹ vô
trách nhiệm. Không ít lần Phương đã tận mắt chứng kiến cảnh những chàng
thanh niên ngồi ghế chờ ngoài hành lang mải miết chơi game mà không hề mảy may
có biểu hiện lo lắng cho bạn gái. Thậm chí, có cô gái "mặt búng ra
sữa" cứ lủi thủi đi đi lại lại dọc hành lang chờ bác sĩ gọi tên, còn chàng
trai chỉ biết ngửa cổ hỏi: Xong chưa? Thấy cô gái khẽ lắc đầu, cậu thanh niên
còn tỏ vẻ khó chịu ra mặt: Mất thời gian. Nhanh lên, không thì tự đón taxi mà
về. Nói xong, thanh niên nọ lại cúi xuống chơi game tiếp…
Cũng như các bệnh viện
khác, ở đây việc nạo phá thai được hợp thức hóa với những từ ngữ
hết sức mỹ miều: hút điều hòa kinh nguyệt, kế hoặch hóa gia đình.
Phương vẫn nghĩ, cho dù phương pháp nào đi nữa thì phá thai cũng là
một hành vi hết sức tàn ác. Nếu thai nhi đã lớn thì phương pháp
kovax thường được ưu tiên. Người ta sẽ đặt túi nước vào tử cung người
phụ nữ để kích thích thai nhi ra ngoài. Nhiều ca phải lấy kềm răng
kẹp bất kỳ vị trí nào đó của thai thi lôi ra ngoài hết sức man rợ.
Còn những thai nhi dưới 7 tuần tuổi người ta phải dùng đến 2 loại
thuốc khác nhau; Đầu tiên, người phụ nữ được cho uống loại thuốc phá
thai, 48 giờ sau sẽ là loại thuốc kích thích tử cung co bóp mạnh để
tống khứ thai nhi ra ngoài. Nạo phá thai dù 1 lần hay nhiều lần đều để lại
những hậu quả khôn lường như: băng huyết, viêm nhiễm, thủng tử cung, sốc
thuốc, hôn mê … Các tai biến có thể dẫn đến vô sinh ở lứa tuổi có khả năng
sinh sản khá cao. Còn những sang chấn tinh thần, khủng hoảng tâm lý thì
có lẽ chẳng ai đếm được. Việt Nam là nước có tỉ lệ nạo phá thai ở tuổi vị
thành niên cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới. Một “thành tích”
hết sức đau lòng và quá xấu hổ. Chẳng lẽ giờ đây Phương lại đồng lõa,
lại tiếp tay cho những tội ác khủng khiếp ấy. Nếu không cô sẽ bị
đuổi vì không tuân hành sự sắp xếp điều chuyển của cấp trên. Đồng
nghĩa với việc cô sẽ phải chấp nhận quay về khoảng thời gian bôn ba
tìm việc như lúc mới ra trường. Một vấn đề hết sức quan trọng vậy
mà Phương phải suy nghĩ và quyết định trong vòng chưa đầy 24 tiếng
đồng hồ nữa…
****
Chiều muộn, Phương vẫn chưa
vội rời bệnh viện dù ca trực đã kết thúc từ lâu. Cô rảo bước tìm đến chiếc ghế
đá quen thuộc dưới hàng cây rợp mát. Chưa kịp ngồi xuống Phương chợt nhận ra tờ
giấy học trò ai đó gấp đôi để quên trên ghế. Cô ngồi xuống tò mò mở ra xem. Thì
ra là một bài thơ được chép tay với tựa đề “Lời của thai nhi”:
Con muốn tỏ cho mẹ cha được biết
Con đã là người với tim, óc, tứ chi
Mẹ cha đừng nghĩ, con chẳng biết gì
Chỉ có nói là con chưa biết nói !
Hãy
sinh con ra ! Nghe theo tiếng gọi
Của
chính con, của nhân loại lương tri
Nhẫn tâm
giết, tội sát nhân gớm ghiếc
Cho con thành người, con mong mỏi quá
đi.
Con
kết tinh của tình yêu tha thiết.
Của
mẹ cha, của linh khí anh hoa
Của
son sắt, của tơ duyên vĩnh cửu.
Của yêu thương, của tình ái chan hòa.
Sao
giờ đây mẹ cha lại dè bỉu
Chính
đứa con, giọt máu của mẹ cha
Chính
đứa con đã kết nụ đơm hoa
Từ ái ân từ tình yêu trân quí ?
Cho
con ra đời, dù không hoan hỉ
Cứ bỏ
con nơi bố thí, viện tế bần.
Dù
cùng cực, dù vạn lần khốn khó
Xin
một lần, cho con thấy ánh bình minh
(Con muốn sống, muôn ngàn lần hơn chết)
Những
lời này thật vô cùng tha thiết
Là
những lời oà vỡ tự trái tim
Xin
ngưng tay, hãy bớt giận, con xin…
Để con sống dù không nhìn con nữa !
Con
lạy mẹ cha trăm ngàn lạy nữa
Hãy
dể con, cho con được sinh ra
Ngày
chào đời bằng tiếng khóc oa oa…
Chính ngày đó, con vô cùng sung sướng !
Xin
hãy gắn, hãy thương con, rộng lượng
Cha
mẹ không tủi hổ bởi con đâu.
Con
nằm đây, chắp hai tay cầu khẩn.
Xin
Thượng đế cho mẹ cha can đảm
Mẹ
cha ơi, xin chớ bỏ con nhe …
Gấp tờ giấy đặt lại chỗ cũ,
Phương mới nhận ra cặp kính đang nhoà đi với hai giọt nóng hổi. Cô thầm nghĩ,
nếu được đọc những vần thơ thống thiết này có lẽ không một người phụ nữ nào có
thể nhẫn tâm tước bỏ sự sống thai nhi mà họ đang cưu mang. Và Phương nhận ra
điều Chúa đang nói cùng cô. Không! Phương không thể thỏa hiệp với cái ác
của tội lỗi , cô sẽ không bán rẻ linh hồn mình vì miếng cơm manh áo
như vậy. Cô vững tin rằng khi Thiên Chúa đóng cánh cửa này thì đồng thời Người
sẽ mở cho cho cô nhiều cánh cửa khác: “Trước
hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất
cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33). Mặc kệ ánh mắt hiếu kỳ của những
người xung quanh, Phương chắp tay trước ngực tạ ơn Thiên Chúa rồi bước nhanh
đến phòng nhân sự nộp đơn thôi việc…
Mùa Chay 2015
Mã số: 15-127
Nó bắt đầu cuộc hành
trình với rất nhiều gánh nặng phải cám dỗ 100 người trong vòng 2
tháng. Nó là một tân bình không biết phải cám dỗ loài người sao đây,
mấy ông quỷ già ai cũng gào lên:
- Mày mà không cám dỗ
được bằng ấy người tao cho mày xuống địa ngục chơi với mấy đứa tội
lỗi ở đó… hú hú…khà khà…
Địa ngục tuy là nơi nó
được tạo ra nhưng chẳng con quỷ nào muốn ở đó hết, ở đấy toàn nghe
tiếng khóc, tiếng rên là, cầu xin…. Chẳng có gì là vui cả. Nhưng làm
sao nó tìm được bằng ấy người đây. Nó đang lang thang thì nhìn thấy
một thằng bé, nó đang đứng trước một ổ bánh mì để trên ghế đá ngay
trước của nhà, có lẽ ai đó để quên, hay cố tình để đó, nhưng cái
quan trọng là bụng thằng bé đang sôi ùng ục… Nó tiến lại gần thằng
bé:
- Sao không lấy đi đợi gì
nữa.
Tiếng lương tâm thằng bé
thét lên:
- Không được, như thế là
ăn cắp!
- Không đúng, ăn người ta
vứt đi rồi, chứ đồ ăn ai lại để ở ghế, bỏ đi phí lắm, lấy ăn đi,
với lại đang đói mà.
- Không được, cậu mới đi
xưng tội hôm qua mà.
- Thì mai xưng tiếp, ngày
nào cha lại không giải tội, có thực mới vực được đạo mà… ăn đi mai
có tiền mua trả có sao đâu mà…
Thằng bé bước lại gần ổ
bánh mì, mặc cho thằng cha lương tâm gào thét “đừng”… Thằng nhóc thò
tay chạm vào ổ bánh, cầm lên bỏ sát mũi hít một hơi thật sâu… Con
quỷ hả hê lắm vậy là nó đã cám dỗ được một người… Thấy mấy con
quỷ sống lâu nói khó cám dỗ nhất là trẻ con vậy mà nó thấy dễ
ợt…Nó bĩu môi…Bỗng thằng bé bỏ ổ bánh mì xuống, “Nó không ăn sao?”-
Con quỷ không hiểu, nó chạy lại hỏi thằng nhóc:
- Sao không ăn, đang đói
mà.
- 40 ngày Chúa không ăn
còn chịu được, mình mới hai bữa mà, phải làm chắc chắn sẽ có ăn,
như vậy khi nhìn lên thánh giá mới không thấy hổ thẹn.
Thằng quỷ thất vọng tràn
trề, vậy ra mấy ông quỷ già nói đúng. Nó chẳng biết được rằng ngày
nào thằng bé ấy đều làm một việc đơn giản là cầu nguyện. Chính
việc đó đã cho thằng bé sức mạnh lớn lao đến vậy.
Nó lại tiếp tục lang
thang, nó nhìn thấy một người phụ nữ vừa giặt quần áo vừa khóc, cô
ta liên tục vang lên lời trách móc:
- Sao số tôi khổ thế này,
mẹ chồng thì quái ác, thằng chồng thì nhu nhược, đứa con thì bệnh
hoạn…
- Chết đi – Nó thì thào
bên cạnh người phụ nữ ấy.
Cô ta như bừng tỉnh: “Phải
rồi!”.
- Chết đi là giải thoát
hết, chết cho thằng chồng nó mở mắt ra, chết cho con già chồng mang
tiếng suốt đời, dòng họ nhà này mãi mãi không ngẩng mặt lên được
vì họ mà cô phải chết…
- Đúng rồi!
- Giờ cô đi kiếm một sợi
dây thừng, mang vào buông bên cạnh cửa có cái xà đó, cột giây lên.
Thắt cổ nửa tiếng sau là cô được giải thoát.
Người phụ nữ đứng lên, ra
sau bếp cô tìm thấy một sợi dây thừng dai, cô cầm lên hơi do dự khi
lương tâm lên tiếng: Chết là mang tội giết người đó. Nhưng con quỷ làm
hiện lên trước mắt cô những tủi nhục, ái oán của một thời gian dài,
Cô bước nhanh về chiếc xà ngang trong buồng cô đóng chặt cửa phòng
lại đưa dây ngang qua xà, mọi việc làm rất nhanh chẳng có gì khó khăn
hết vì… Con quỷ đang giúp cô một tay. Nó biến cái dây thành một con rắn
xiết lấy cổ của cô càng ngày càng chặt, trong lúc giãy giụa bỗng cô
nghe tiếng khóc của con thơ, đứa bé chưa tròn một tuổi khát sữa gọi
mẹ, nhưng cô đang giãy giụa trong nước mắt, cô thấy ân hận, cô cầu xin:
- Lạy mẹ Maria cứu con,
kẻ tội lỗi này không xứng nhưng còn con của con. Xin Mẹ, Mẹ ơi….
Nhưng trễ quá rồi cô không
thể thở được. Con quỷ đứng đó cười ha ha, vậy là con mồi đầu tiên
sập bẫy… Nếu cô ta cũng giống đứa bé kia thay vì trách móc mà cầu
nguyện như bây giờ có lẽ cô ta đã bị con quỷ cám dỗ. Bỗng có tiếng
phá cửa, thì ra bà mẹ chồng đã về… Bà phá cửa rồi đưa đứa cô con
dâu xuống, bà vội chạy xuống bếp gọi to thằng con đang ngoài rẫy,
sẵn bà cầm con dao lên. Nhanh như chớp bà cầm theo chai nước phép rẩy
khắp phòng, thằng con trai về nó nhanh chóng đưa vợ đi cấp cứu, còn
bà mẹ chặt cái dây thừng ra làm ba phần.
Lại một lần nữa nó về
tay không, người phụ nữ đó còn sống, nhưng ít ra người phụ nữ đó đã
bị nó cám dỗ. Thành công bước đầu rồi.
Ngày thứ ba có vẻ hăm hở
với chiến công của mình, nó nghiệm ra rằng phụ nữ rất dễ sa ngã như
xưa Satan cám dỗ Eva vậy. Nó vào nhà thấy một người phụ nữ đang
ngồi suy nghĩ về việc lấy vợ cho con:
- Không biết lấy con bé
này có hạnh phúc không, lỡ hai đứa nó không hợp, khổ thì sao…
Người phụ nữ này cứ
trằn trọc mãi mà không ngủ được. Nó nghĩ không biết có cách nào
giúp người phụ nữ này không nhỉ? Nó tiến lại gần bà ta:
- Sao không đi xem bói? Ông
thầy Năm bói linh lắm đó nha, coi đi nếu hợp thì cho cưới, không thì
dẹp luôn.
Tiếng lương tâm gay gắt:
- Người có đạo sao lại
xem bói. Cha giảng nhà thờ rồi mà… không nên.
- Có sao đâu, xem cho chắc,
mai mốt đi xưng tội mấy hồi.
- Ừ nhỉ! (Bà ta nghĩ
thầm)
Vậy là sáng ra bà ấy đã
đi tìm thầy Năm.
Mục đích của nó chỉ có
vậy. Hoàn thành trong vui vẻ quỷ tự đắc tìm con mồi tiếp theo… Và
kìa bên kia có một chàng trai đang uống rượu ừng ực. Nó tiến lại
gần.
- Uống đi, uống cho quên
sự nghèo, nghèo là cái tội. Chúa nói người giàu vào nước trời khó
hơn cả việc con lạc đà chui qua lỗ kim, còn thằng nghèo như mày lấy
được Vân còn khó hơn lấy sao trên trời, ha ha…
Người thanh niên dốc cạn
hết chai này tới chai khác cho đến khi chẳng còn biết gì nữa. Con
quỷ lại thều thào.
- Tới nhà Vân, gọi cô ta
ra, mày cướp đời nó, cần thì cho nhà nó một mồi lửa, cháy là nhà
nó cũng nghèo hà… đi đi!
Chàng trai đứng lên, loạng
choạng tiến về phía ông chủ quán, lấy ví tiền ném xuống bàn nhếch
miệng nói:
- Trả tiền, rồi lấy cho
tôi cái quẹt.
Rồi anh chàng thất thểu
bước tới nhà Vân. Nhà cô ở cuối xóm, có hàng cây ngọc lan trước
nhà, Vân nói lan thơm tinh khiết trắng trong nên Vân rất thích. Chàng
trai lấy hộp quẹt ra, nó bật xoẹt xoẹt nghe có vẻ thích thú, chàng
cười hề hề. Con quỷ cũng hề hề, bỗng trong nhà có tiếng:
- Lạy Cha chúng con ở trên
trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…
Tiếng kinh làm con quỷ
sợ, bối rối nên chạy biến đi. Còn một mình chàng trai thẫn thờ một
chút rồi thập thững quay về nhà. Hôm sau quỷ quay lại tìm chàng trai
thì thấy chàng ta có vẻ rất bình thường. Nó lại thầm thì:
- Sao không đến nhà Vân
nữa, nó yêu mày rồi phụ mày mà.
- Yêu Vân đó là quyền của
tôi, Vân có yêu tôi không lại là quyền của cô ấy, phải yêu người như
chính mình ta vậy. Chúa có cách sắp xếp của người. Kính mừng Maria
đầy ơn phúc…
Con quỷ biến đi chỗ khác,
nó nghĩ chỉ một chút xíu nữa thôi là nó đã cám dỗ được anh ta,
nếu gia đình Vân không đọc kinh, và nếu chàng trai đó không đọc Kinh
thánh thì có lẽ quỷ đã thắng… Nó nghiệm ra rằng: Những kẻ không
cầu nguyện là những kẻ yếu đuối, nó sẽ cám dỗ những cái đơn giản
thôi, những cái làm nên sức mạnh của loài người.
- Cả ngày mệt rồi đừng
đọc kinh nữa, làm dấu thôi đủ rồi.
- Cả tuần mới có bữa
nghỉ ngơi, tuần sau đi lễ bù rồi xưng tội, đời còn dài mà…
- Thôi không đọc kinh một
bữa không chết đâu, mai đọc bù…
- Hôm nay mệt đọc kinh
riêng đi, đừng đọc cả nhà nữa…
Góp gió thành bão… Nó đi
khắp nơi và bắt đầu…
Mã số: 15-130
Ngày chị lên xe hoa, mẹ ốm
liệt giường không dậy được. Nhà chồng chị vừa trải qua một sự kiện buồn, lẽ ra
ngày cưới hoãn lại nhưng vì lý lẽ “bán sầu mua vui” của hai họ mà hôn lễ vẫn
được cử hành. Mẹ đã tất bật tiếp khách, lo lắng, thương tủi con gái quá nhiều
đến kiệt sức. Thế là ước mong chụp một tấm hình với mẹ trong ngày lễ hạnh phúc
nhất cuộc đời chị đã không thể thực hiện. Chị không dám khóc, không dám buồn sợ
mẹ chạnh lòng. Trang điểm, váy áo, hoa cài đầu, môi cười, mắt cười. Chị bước
vào buồng thỏ thẻ bên tai mẹ:
- Mẹ! Đừng lo cho con gái,
con sẽ không bao giờ chối bỏ Niềm Tin vào Thiên Chúa mà ông bà, ba mẹ đã dạy
con từ thủa bé. Con yêu Kiên và con cũng sẽ khiến Kiên yêu Chúa. Có điều mẹ hãy
cho con thời gian...
Cô dì chú bác đứng quanh
giường động viên: “Con gái vui thế còn gì, sao phải buồn?”. Mẹ cầm tay chị,
miệng cười mà nước mắt vòng quanh:
- Các chị không biết đấy
thôi, con bé này nhà em tính nó rắn rỏi, miệng cười tươi thế, nhưng nước mắt
chảy vào trong. Em lo là lo nó lấy chồng xa vất vả, mà về bên đó, họ không cùng
tôn giáo, một thân một mình, giữ đạo làm dâu đã khó, liệu nó có giữ trọn đạo
làm con Chúa? Rồi khi có con cái nữa, ai lo dạy dỗ chúng?
Trái tim chị nhói đau. “Ôi mẹ
! Lúc nào mẹ cũng kín kẽ, bao bọc che chở, chỉ sợ người khác nghĩ sai về con
của mình, chỉ sợ con cháu không giữ trọn đạo nghĩa bao đời để lại”. Chị hoa
cười nắng đẹp nhưng lòng như có cơn bão vừa đi qua. Lúc yêu Kiên chị quyết tâm,
mạnh mẽ bao nhiêu thì ngày cưới lại ngổn ngang, âu lo bấy nhiêu. Chị không giấu
được mẹ. Câu nói của mẹ khiến chị vội quay đi, vì sợ không kìm được cơn nức nở.
Khi còn nhỏ, chị vốn không
được khỏe mạnh, suốt ngày ốm đau quặt quẹo, theo ba hết bệnh viện này đến bệnh
viện khác, những buổi trưa trời nắng như đổ lửa, mẹ vác cuốc tha thẩn khắp các
sườn đồi, bãi hoang để kiếm rễ cỏ tranh, bông mã đề, dâu ngô…về sao sao, cắt
cắt, ủ ủ bịch to, bịch nhỏ để dành cho chị uống. Nhưng căn bệnh ho gà của chị
không giảm mà còn nặng hơn.Tối nào chị cũng thấy mẹ ngồi trước bàn thờ lẩm nhẩm
đọc kinh. Chính mẹ đã chọn cho Thánh nữ Teresa làm bổn mạng cho chị vì một
người bạn của mẹ đã tặng mẹ cuốn sách Một Tâm Hồn. Và mẹ đã say mê đọc nó. Có
lần mẹ còn nói, nếu Chúa muốn, mẹ mong ước dâng chị cho Chúa.
Năm ấy, chạy chữa cho chị
không được, mẹ nghe người ta nói đến Lòng Chúa Thương Xót ở nhà thờ Chí Hòa. Mẹ
lại khăn gói, bồng bế chị lên Sài Gòn với niềm tin đơn sơ của một giáo dân quê
mùa trộn lẫn với tấm lòng bao la của người mẹ. Chuyện chị khỏi bệnh giống như
một phép lạ nhãn tiền mà không mấy ai hiểu được.
Năm tháng thoi đưa, càng lớn
chị càng như một bản sao từ mẹ. Rồi chị lên thành phố học, mỗi lần về quê, các
bác trạc tuổi mẹ cười cười: “Ngày xưa mẹ con là hoa khôi đấy, bao người xóm
trên nhòm ngó, nhưng mẹ không thích lấy chồng bên lương vì mẹ sợ mất đạo”. Câu
nói xa gần ấy như chạm phải nỗi băn khoăn trong lòng người thiếu nữ 19. Mẹ chị
lấy ba không phải vì ba đẹp trai hay tài giỏi nhưng mẹ thích ba vì cái chất
hiền từ và đạo đức vốn có của một ông thầy tu. Ông từng là tu sinh dòng
Phanxico, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn và gánh nặng gia đình trên vai người anh
cả quá lớn nên ba đành phải hy sinh ước mơ. Ba lo cho cô Tư xong thì gặp mẹ. Và
chị có mặt trên đời với cái tên: Têrêsa Nguyễn Trần Đỗ Quyên.
Chị quen Kiên khi năm hai đại
học. Anh không có đạo nhưng chân thành và giản dị. Anh chưa biết Chúa nhưng yêu
chị anh hứa sẽ tìm hiểu về Đạo Chúa. Ba mẹ gàn chuyện yêu đương của chị vì nghĩ
rằng khi yêu thì có điều gì mà người ta không thể thề hứa nhưng rồi sau đó thì
lại thất hứa thật nhanh. Chị hiểu nỗi lo của ba mẹ nhưng chị yêu Kiên và anh
cũng vậy.
Kiên đã không thất hứa, khi
mỗi chiều Chúa Nhật anh lại lẽo đẽo chở chị qua nhà thờ Thánh Tâm dự lễ. Chị
hay chọn hàng ghế cuối nhà thờ vì sợ anh ngượng ngùng và lạc lõng với những
nghi thức mà chị và mọi người làm. Anh kiên nhẫn nghe chị giải thích về Dấu
Thánh Giá, về Màu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chị cố nghĩ ra đủ mọi cách để cảm
hóa tâm hồn Kiên. Mỗi lần đi sinh hoạt nhóm sinh viên Công giáo chị lại lôi anh
đi cùng, chị mua sách cho Kiên đọc, những cuốn sách viết về những câu chuyện
đời thường như Viết cho em, Sỏi đá nở hoa… Chị tải cho anh những bài hát Công
giáo nhẹ nhàng mà sâu sắc về cuộc sống… Lần đầu tiên anh khen và nói thích bài
hát Làm Dấu của Phan Đình Tùng. Chị mừng như đứa học trò được điểm 10. Chị biết
nói về Chúa cho một người chưa biết gì về Ngài chỉ như muối bỏ biển Đông. Những
ngày đầu anh khó hiểu và nản không muôn đến nhà thờ nữa. Những lúc ấy chị chỉ
biết cầu nguyện. Vì tự sâu thẳm chị hiểu rằng: Chúa mới là tác nhân chính làm
thay đổi cách nhìn phiến diện của Kiên về thứ tôn giáo mà người anh yêu đang
theo. Chị là cộng tác viên. Phần Kiên, anh yêu chị và anh không muốn đánh đổi
chị chỉ vì những bất đồng tôn giáo. Ba mẹ anh cũng nghĩ thoáng vì cho rằng tôn
giáo là quyền tự do của con người, hai bác không ép buộc chị và Kiên.
Nhưng khó khăn hơn cả là ba
mẹ chị phản đối ngay từ khi chị thưa chuyện yêu Kiên. Một phần vì ba mẹ không
muốn gả con gái quá xa. Mặt khác mẹ chị lo xa:
“Con gái tại gia thì tòng
phụ, xuất giá thì tòng phu, phu tử thì tòng tử… Bố mẹ lo rằng khi “thuyền theo
lái, gái theo chồng” làm sao con có thể giữ đạo nổi khi thằng Kiên là con út
trong một gia đình lương dân. Bao nhiêu đứa con gái trong làng này lấy chồng
bên lương, không cùng thuyền cùng bến có mấy đứa được hạnh phúc đôi đường ? Như
cái Thanh nhà bác Ki, sinh hai đứa rồi mà người ta đâu có cho rửa tội, đi nhà
thờ thì mẹ chồng liếc ra, liếc vào… Con phải suy nghĩ thật kỹ rồi mai mốt
thuyền đóng ván ba mẹ không thể giúp gì được nữa”.
Trong im lặng, chị hiểu những
điều ba mẹ lo lắng, nhưng lý trí chị lại bắt bẻ: “Khi yêu người ta còn vượt qua
được cả những hận thù huống chi là những khác biệt về tôn giáo”.
Với cá tính bướng bỉnh từ nhỏ
của chị, Ba mẹ biết không thể làm chị từ bỏ ý định kết hôn với Kiên nên đành để
hai người tự do qua lại tìm hiểu. Mùa xuân năm ấy, Kiên đã đăng ký lớp giáo lý
dự tòng.
Có lần ngồi bên Kiên chị thỏ
thẻ :
- Yêu em anh sẽ vất vả hơn
những cô gái khác.
- Ngốc! Không được nói vậy,
không thì anh sẽ trói em chặt hơn nữa đó.
- Anh phải cùng lúc hiểu Chúa
và hiểu cả em. Em biết niềm tin vào Thiên Chúa của em, trong giới hạn về khả
năng diễn đạt cũng như những am hiều giáo lý còn hạn chế. Nếu em nói khô khan
quá thì anh cũng phải ráng nghe nhé! Ai bảo anh yêu con chiên của Chúa ? “Thiên
Chúa là Tình Yêu”, đó là định nghĩa ngắn gọn nhất, đầy đủ nhất mà người ta hay
nói về Ngài. Ngài dựng lên anh, nên em, muôn người và muôn vật. Ngài yêu tất cả
nên Ngài cho ta quyền tự do.
- Thiên Chúa có thật không em
? Sự tự do ấy là gì ?
- Chắc chắn là Ngài có thật. Nếu
không niềm tin của gia đình em và hàng tỷ người trên thế giới này là trống
không, là vô nghĩa hay sao ? Sự tự do em nói là sự tự do để lựa chọn. Ngay cả
việc lựa chọn Ngài… Em nhớ hồi học phổ thông em rất thích môn hóa học. Anh cũng
thừa biết là H2O được cấu tạo từ hai nguyên tử H2và O2. Trong O2 lại có
điện tích dương (Proton) và điện tích âm (Electron). Chẳng ai nhìn thấy chúng
tại sao ta vẫn tin là có chúng trong nước ? Thiên Chúa cũng vậy ! Ngài luôn
hiện hữu nhưng không ai nhìn thấy hình dáng Ngài. Anh chỉ thấy Ngài khi có “con
mắt đức tin”.
- Là sao ?
Chị mỉm cười, dù chẳng biết
Kiên có hiểu được những lời chị diễn đạt hay không? Chỉ thấy anh trầm ngâm rồi
nói:
- Tin nghĩa là chấp nhận cả
những khi anh không được “thấy tận mắt, bắt tận tay” đúng không ?
- Anh tiến bộ hơn em tưởng.-
Chị nói tiếp vì chị biết Kiên là người kiên nhẫn và có thiện chí.- Không phải
những gì em tin được chứng minh một cách khoa học cũng không phải niềm tin ấy
có lợi cho những người theo đạo mà vì: Đạo Thiên Chúa giáo có một lịch sử lâu
dài, có những sử liệu bất khả kháng (Sách Cựu ước, Tân ước…). Lời Chúa được
truyền đạt thông qua những nhân vật có uy tín như các ngôn sứ, các tiên tri. Lời
đó được xác thực hóa qua thời gian.- Chị lôi ra cuốn Tân ước nhỏ và mở tới trang
290 câu 18 rồi đọc: “Thiên Chúa chưa bao giờ có ai thấy cả nhưng Con Một vốn là
Thiên Chúa và là Đấng hằng có nơi cung lòng Chúa Cha, chính người sẽ tỏ cho
chúng ta biết” (Ga1,18). Con người vĩ đại ấy là Chúa Giêsu – là chính Thiên
Chúa xuống thế làm người. Ngài đã được sinh ra, sống như bao người rồi chết đi
và phục sinh trong vinh quang. Để hiểu tại sao Ngài phải hạ cố để làm những
điều đó hôm nay anh phải đọc hết chỗ em đánh dấu này nha!
- Đồng ý, vì em…- Kiên dí dí
ngón tay lên trán chị âu yếm.
Chị chỉ tay lên bầu trời và
nói:
- Đố anh biết trên bầu trời
có gì ?
- Màu đen và những ngôi sao.
- Chưa chắc, nhiều hơn thế ?-
Chị tủm tỉm cười.- Nhà bác học Newton bảo là : “Tôi đã nhìn thấy Chúa đi qua
ống kính viễn vọng của tôi”. Vũ trụ này là một sáng tạo kỳ diệu của Chúa… Anh
tin không ?
- Điều đó còn tùy ở cô giáo
của anh nữa…
- Vậy là em được khảo bài bất
cứ lúc nào…
Họ ngoắc tay nhau như hai đứa
trẻ thề hứa một điều gì quan trọng…
Và cuối cùng cũng qua 6 tháng
để Kiên theo học lớp giáo lý dự tòng tại một nhà thờ gần chỗ làm của chị. Suốt
thời gian ấy chị vừa là người yêu và vừa là giáo lý viên của Kiên.
Ngày chị theo chồng, tiễn con
ra xe, chỉ có ba dặn dò chúc phúc: “Cố gắng sống tốt phận làm dâu nhé con! Khi
nào không biết xoay xở thì hãy cầu nguyện, Chúa sẽ giúp con”. Chị ngoái nhìn
bàn thờ có hình gia đình Thánh Gia và mấy cây nến đang chảy nhòe nhoẹt, thầm
nhủ : “Lạy Chúa, xin ở bên chúng con mọi bước đường.” Chị nhìn lại ngôi nhà
thân thương của mình, ngoái nơi tuổi thơ đã neo đậu, nghĩ đến những buổi tối cả
nhà quây quần đọc kinh, nhớ những mùa Dâng Hoa tháng năm ríu rít cùng lũ bạn
quanh xóm… Nhớ những bản thánh ca du dương mà một thời chị đã từng hát. Từng
giọt nước mắt rơi chầm chậm tựa tiếng chuông chiều xa xăm rơi vào khoảng không
trống rỗng.
Đám cưới xong, hai vợ chồng
chị lên thành phố làm. Hai năm sau ngày cưới, ba chồng chị mất. Trong đám tang,
mọi nghi thức vẫn được làm như tục lệ của đàng nhà chồng. Khói hương nghi ngút,
cúng vái, gọi hồn, trống kèn suốt ba ngày, … Đêm về, chỉ mình chị lẩm nhẩm
những lời kinh cầu nguyện cho linh hồn ba chồng dù ông không là một Ki-tô hữu. Bổn
phận làm con chị vẫn muốn sống trọn và chị tin Chúa sẽ cứu rỗi cả những linh
hồn lương thiện. Lo tang cho ba xong, mấy chị em bàn bạc xem ai sẽ về ở với mẹ.
Vì lâu nay, ba mẹ chồng chị vẫn ở một mình. Các anh chị đều có cơ ngơi riêng.
Chị cả ở vậy nuôi con, khi chồng chị tai nạn mất bẩy năm về trước, một mình chị
đi làm thuê nuôi hai đứa con ăn học ở Sài Gòn. Người về ở với mẹ đương nhiên
không phải là chị. Anh Tú-người khá giả nhất nhà làm công an ở một huyện cách
xa nhà 60 km, vợ anh có một tiệm vải khá lớn. Anh nói : “Vợ chồng anh bận làm
ăn không thể về được đâu”. Vợ chồng anh Quang thì đang làm công nhân ở khu công
nghiệp Sóng Thần. Chị nói : “Vợ chồng em mà về với mẹ thì đói nhăn răng, giờ
chỉ còn vợ chồng chú Kiên. Chú là con út liệu mà về ở với Mẹ.”
Mấy chị em đẩy tới đẩy lui,
ai cũng có lý do. Ngồi nghe họ nạnh hẹ. Chị thấy chạnh lòng cho cả người còn
lẫn người đã khuất.
Kiên xua tay : “Thôi thôi! Ba
mới mất, mấy chị em mình như vậy, ba không vui đâu. Mẹ nghe được cũng buồn. Để
vợ chồng em tính”.
Rồi vợ chồng chị về với mẹ.
Kiên phải chuyển sang một chi nhánh của công ty xây dựng khác gần nhà. Còn chị
nhờ chỗ quen biết xin về dạy ở một ngôi trường cấp II trong xã. Từ ngày vợ
chồng chị về mẹ vui hẳn. Ngày hai bữa, chị nấu đủ hai món canh và kho mà mẹ
thích. Mẹ ho vài tiếng, chị liền chưng tắc với đường phèn. Tối nào chị cũng xoa
bóp, đấm lưng cho mẹ chồng như thói quen khi còn ở nhà. Chị để dành được ít
tiền, thuê người đổ đất xốp, sửa lại mảnh vườn nhỏ, rồi chị trồng thêm bầu bí,
đậu bắp và đủ các loại rau… Mẹ có chỗ lui ra, lui vào cũng bớt buồn mỗi khi vợ
chồng chị vắng nhà.
Mẹ gặp ai cũng khoe: “Con dâu
tôi là con nhà có Đạo nên nó khác lắm, không giống như mấy đứa lớn. Ở với con
dâu là sướng nhất, nó hiểu ý mình hơn con gái”.
Rồi thời gian cứ thế trôi đi
mải miết, chị luôn cố gắng sống ngoan hiền và đúng mực. Ngày mới về, mấy chị
dâu bỉu môi bình phẩm: “Cô em dâu có đạo, nhiều nghi thức phiền phức…”. Chị vẫn
an nhiên đi qua những lời ra tiếng vào ấy vì chị biết chỉ có thời gian mới giúp
chị sống chứng tá cho Chúa giữa gia đình và họ hàng đằng chồng.
Chiều cuối tuần, gió mùa về
sớm. Hôm nay, Kiên đến đón chị sớm hơn mọi ngày. Anh nói muốn chở chị đi lễ.
Lâu nay hai vợ chồng bận bịu tối ngày, anh áy náy vì thấy thiếu sót với vợ và
hơn nữa anh cũng là một Ki-tô hữu kia mà. Trên con đường tới trung tâm thị xã,
chuông nhà thờ bỗng rung lên một hồi : Boong…boong…boong… Trong thánh đường có
vài người đến sớm nhưng vẫn ngồi trật tự. Chị kéo Kiên lên sát phía bên trái
gian cung thánh, nơi có hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.Chị thỏ thẻ: “Em đã xin khấn
Đức Mẹ và Mẹ đã nhậm lời anh ạ!”. Chị kéo nhẹ tay chồng đặt lên bụng mình: “Em
có thai rồi, hai tuần…”. Mắt Kiên rưng rưng hạnh phúc. Anh nắm tay chị quỳ
xuống. Bóng hai người đổ dài len qua ô cửa dưới vạt nắng chiều còn sót lại vàng
thẫm…
Mã số: 15-131
Nửa đêm, có ai đó gõ vào cửa
sổ. Tôi choàng dậy. Hóa ra đó là ánh trăng. Tôi sực nhớ hôm nay là mười năm.
Ánh trăng khiến tôi nảy ra ý định “đi chơi”. Mỗi khi thấy cuộc sống quá tất bật
hay ngột ngạt tôi thường trở về quá khứ như một thói quen. Đó là một nơi vô
định nhưng thanh bình và yên ả hơn so với cái nhịp sống vội vã, ồn ào náo nhiệt
nơi đô thành. Hôm nay, vẫn là ánh trăng của năm xưa, của ngàn đời… Tôi lại lục
lọi những con chữ và lên đường…
Hồi ấy, tôi và lũ bạn trong
xóm nhỏ có thói quen đi chơi dưới trăng, trăng mùa thu dịu dàng, trăng đầu đông
lạnh lùng, trăng thượng tuần mùa hạ vằng vặc. Khi tiếng kinh trông cậy ré lên
chua lè từ cổ họng bà quản Hai, chúng tôi đứa nào đứa nấy như tỉnh táo hẳn.
Giọng của bà là thứ âm thanh cũ rích, tôi chưa bao giờ thấy nó thay đổi một sắc
thái hay âm vực nào. Nó giống một thứ báo thức mà tôi không bao giờ phải để mẹ
cù léc mới bò ra khỏi giường như ở nhà. Thật là thích thú mỗi khi giọng bà cất
lên-giờ kinh đã kết thúc. Điều đó đồng nghĩa với việc chúng tôi được “sổ lồng”
khỏi “căn” nhà thờ chật cứng người. Giọng của bà đánh thức chúng tôi khỏi cơn
mơ ngủ gật gù để chuyển sang một trạng thái vui tươi hơn. Tôi vô cùng thích cảm
giác được đứng giữa cái sân nhỏ, ngửa mặt lên trời rồi vươn vai một cái thật
dài… Và nhanh như chớp mắt lũ chúng tôi mất hút vào thứ ánh sáng kỳ ảo như dát
vàng trên con đường làng phủ đầy lá tre. Tan giờ kinh, nhà thờ rôm rả tiếng nói
cười. Lâu nay, người lớn cũng ham nói chuyện chẳng khác gì chúng tôi ham chơi
giữa đêm trăng. Đàn ông thì ngồi quanh chiếc bàn cũ mèm kê ở mái hiên. Chỉ cần
một ấm nước trà xanh với bao thuốc lá “Du lịch” là họ có thể ngồi cho đến khi
bóng trăng tà tà khuất dần phía đồi bạch đàn cuối xóm. Thường thì họ xoay quanh
những câu chuyện về thời vụ hoặc về những chuyện xóm trên, xóm dưới. Đại khái
như chuyện nhà ông Năm xóm Ngò mới bị mất một con trâu hay chuyện Bác Doanh mới
mua được giống lúa mới khăng dân, nghe nói rất năng xuất… Mấy bà giống như mẹ
tôi thì ngồi ở chiếu dưới rôm rả về chuyện hôm nay ai ngắm hay nhất, chuyện cấy
hái, hay chợ búa gì đó. Tóm lại, chúng tôi không quan tâm nhiều vì đó là chuyện
của người lớn. Điều thu hút đang đợi chờ chúng tôi nằm ở phía “sân kho”. Đó là
điểm hẹn bất di bất dịch không chỉ của lũ trẻ nít chúng tôi mà các anh chị
thanh niên cũng coi “sân kho” như một nơi để gặp gỡ, giao lưu, chuyện trò.
Nhưng tất cả những điều ấy chỉ được thực hiện sau khi giờ kinh tối của cả xóm
kết thúc.
Xóm tôi nằm lọt thỏm giữa
những quả đồi nhấp nhô. Chúng không quá cao nhưng cũng đủ cho lũ chúng tôi bở
hơi tai mỗi khi đi kiếm củi. Xóm trên, xóm dưới đều là xóm lương dân. Chúng tôi
và những đứa trẻ của hai xóm ấy ghép lại được ba lớp tiểu học. Lớp học được
mượn lại từ ngôi nhà cũ kỹ của một nông trường giải thể. Ở trường, những đứa
trẻ xóm đạo chơi co cụm và như rụt rè hơn với những đứa trẻ xóm trên và xóm
dưới. Nhưng có một nét không bao giờ lẫn với chúng là chúng tôi không bao giờ
nói bậy vì chúng tôi tin nói bậy là “phải tội”. Bọn chúng xầm xì khi thấy chúng
tôi làm dấu để chia nhau gói bim bim, hay một thứ gì đó mang từ nhà đi. Khi
chúng tôi buột miệng kêu “lạy Chúa” thì chúng nhại cách mỉa mai: “Lạy
Chúa...Lạy Chúa…Đúng là một lũ bên đạo…”. Ở trường, ngoài học chữ thì chúng tôi
không tìm thấy niềm thích thú nào. Ngoài giờ học, giờ ra chơi thì chúng tôi
thích nhất giờ ra về… Về tới xóm nhỏ bỗng lũ chúng tôi đứa nào cũng cảm thấy an
toàn và không còn phải e dè trước sau.
Niềm vui đỉnh điểm chỉ xuất
hiện khi hoàng hôn đung đưa trên ngọn tre đầu xóm. Ấy là lúc đàn trâu đã no
tròn bụng cỏ và đủng đỉnh từ đồng về. Nhanh nhẹn tắm gội, rửa chân, xỏ dép tinh
tươm rồi chờ cơm bố mẹ. Có khi chúng tôi trốn cơm để đi nhà thờ…
Gọi là nhà thờ chứ thực ra đó là nhà của một
cụ già nằm ở giữa xóm. Người ta gọi cụ là cụ Thân. Tường nhà thờ làm bằng đất
đỏ trộn sỏi, mái được lợp bằng rơm của lúa nếp thơm, mưa nắng đã làm mái xẹp
xuống và mục nát. Ngôi nhà thấp lè tè, có xà, có cột nhưng tất cả đều làm bằng
tre. Thứ duy nhất được làm bằng gỗ có lẽ là cây Thánh Giá treo phía bức tường
đối diện với gian buồng cụ Thân ở.
Xóm tôi chỉ vỏn vẹn 50 hộ gia
đình, muốn đến nhà thờ xứ phải đi 20 cây số đường bộ, trời nắng thì bụi, trời
mưa thì lầy lội. Chúng tôi rất ít khi được tham dự Thánh lễ. Những lễ trọng thì
chỉ có người lớn may ra mới đi dự được. Dân làng trong xóm tôi chủ yếu là trồng
chè và hoa màu… quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà vẫn không đủ ăn.
Cả xóm nhỏ chẳng ai dám mơ ước một ngôi nhà nguyện khang trang. Những người dân
lam lũ ấy (trong đó có cả bố mẹ tôi) dù họ không được học rộng hiểu sâu nhưng
họ luôn có một tấm bằng : “bằng lòng”, bằng lòng với tất cả những gì Chúa ban.
Họ tin rằng: Đấng nuôi từng cánh chim, chăm sóc từng bông huệ, chiều chuộng
từng nụ hoa, để ý từng sợi tóc, săn sóc từng giấc ngủ, âu yếm từng mảnh đời
(Mt6,25-34; 10,29-30) không bao giờ bỏ những ai yêu mến, tôn thờ Người …Sự phó
thác thấm trong từng câu kinh, tiếng hát mà họ dâng lên cho Chúa sau mỗi ngày
lao nhọc.
Những ngày ấy, tình làng
nghĩa xóm khiến người ta có thể san sẻ ngay cả cái ít ỏi nhất của mình, người
ta nói: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” cũng chẳng sai. Giống như gia đình
tôi và nhà bác Lâm bên cạnh, hễ có gì cũng “bê” cho nhau, khi thì là đĩa bánh
đúc nóng hay khi thì là trái bưởi đầu mùa… Khi gia đình nào có đám cưới, đám
hỏi thì mỗi nhà lại dúm vào hộ nhau chút gạo nếp hoặc mấy cân thịt…Khi có đám
tang thì mọi người chạy tới chạy lui giúp đỡ, người đọc kinh cầu nguyện, người
lo bếp núc, người lo đào huyệt, các bà thì ngồi cắt khăn tang hoặc làm bất cứ
việc lặt vặt nào đó mà gia chủ không bao quát nổi. Dân làng nghèo nhưng tấm
lòng ai cũng chân chất và lương thiện vì họ tin rằng “sống hiền lành Chúa sẽ
thưởng công.” Khi còn là một đứa trẻ, tôi đâu thấu đáo được hết những điều ấy.
Chỉ khi sống ở nơi đất khách quê người tôi mới thấy thấm thía những gì là tình
quê. Nhưng đó là chuyện mãi về sau. Còn bây giờ tôi xin kể tiếp câu chuyện hồi
tôi 9 tuổi.
Ngày ấy, tôi hay thắc mắc :
“Mẹ ơi, Sao nhà cụ Thân lại gọi là nhà thờ ? Sao cụ lại ở một mình ?”. Mẹ cười
cười rồi giải thích : “Cụ đâu có ở một mình, có Chúa ở cùng cụ nên nhà cụ được
gọi là nhà thờ”. Tôi ậm ờ như đã hiểu ra lời giải thích của mẹ. Khi đi qua cái
tuổi lên 9, tôi mới hiểu trọn câu nói của mẹ. Cụ Thân đã tự nguyện hiến ba gian
nhà vách lá để mọi người đọc kinh. Đó là sinh hoạt duy nhất để dân làng đến với
Chúa giữ lấy đức tin mà cha ông để lại. Cụ chỉ nuôi một chú chó nhỏ. Ăn, uống,
ngủ, nghỉ, cụ đều sinh hoạt tất tần tật trong cái buồng nhỏ xíu có cửa sổ lồi
ra, lũ chúng tôi hay thò đầu vào cái “lổ” ấy để xin cụ đủ thứ. Khi thì củ khoai
lang luộc, khi thì miếng nước vối mát… Lâu ngày, tôi phát hiện ra căn buồng nhỏ
của cụ có duy nhất một chiếc giường là đáng giá hơn cả, một chiếc giường tre ọp
ẹp nhất mà tôi từng thấy. Trên chiếc giường mọt chân ấy khi nào cũng có một
tràng chuỗi, một cuốn sách kinh nhỏ với dòng chữ “Giáo Phận Bắc Ninh” mà tôi
thấy được mờ mờ vì nó quá cũ kỹ. Tôi còn thấy một khung hình nhỏ có hình ai đó
rất trẻ mà tôi không biết. Dường như đó là tất cả của cụ. Cụ ở một mình, chẳng
biết cụ đã ở vậy từ bao lâu ? Cũng chẳng ai biết nhà của cụ trở thành nhà thờ
từ khi nào ? Chỉ biết khi lớn lên, những đứa trẻ chúng tôi đã gắn bó với ngôi
nhà và hình ảnh một ông cụ râu bạc, tóc bạc, lông mày bạc mỗi khi đi nhà thờ.
Tôi nghe người lớn nói: Cụ cũng có mấy người con nhưng họ tha hương kiếm sống
chẳng mấy khi họ về thăm nom. Không ai biết cụ có buồn về điều đó hay không
nhưng trên gương mặt hiền từ ấy lúc nào cũng chực sẵn một nụ cười. Chúng tôi
khá quậy phá và ồn ào nhưng chưa bao giờ thấy cụ nổi nóng.
Tôi, thằng Tuyên, thằng Hữu
và cái Mây luôn là những đứa trẻ đến nhà thờ sớm nhất. Không phải vì chúng tôi
ngoan đạo hơn những đứa khác, cũng không phải vì ba mẹ muốn chúng tôi đi sớm
nhưng có khi là chúng tôi cố tình trốn đi sớm. Đi nhà thờ sớm đồng nghĩa với
việc chúng tôi có chút thời gian dư giả để chạy nhảy và chơi những trò chúng
tôi thích. Ra khỏi cổng, chưa bao giờ chúng tôi đến nhà thờ ngay, tôi thủ sẵn
một cuộn dây, thằng Tuyên với một bộ khăng hoặc những hòn bi ve… Chúng tôi chỉ
dừng lại những trò không biết chán ấy khi có những ánh sáng lập lòe phía bờ ao
nhà cụ Thân. Đó là những ánh đèn pin của người lớn đi đọc kinh. Lúc ấy đứa nào
đứa nấy không ai bảo ai ngoan ngoãn trờ lại nhà thờ như những chú cừu non được
chủ gọi về chuồng.
Giờ kinh của xóm nhỏ bao giờ
cũng chật cứng người. Những chiếc chiếu cũ rích, nhãng ra hết cỡ cũng được trải
xuống đất. Lũ chúng tôi hay được ngồi vị trí trên cùng gần với bàn thờ nhất. Phải
thú thực vị trí ấy tôi chẳng thích thú gì cho lắm. Vì ngồi trên đó là chúng tôi
phải kìm hãm những cựa quậy, những cái ngáp dài hay cơn ngủ gật không cưỡng
nổi… Dù có cố tỉnh thức đến mấy chúng tôi chưa bao giờ tập trung được trọn vẹn
từ đầu giờ kinh cho đến khi kinh trông cậy được cất lên.
Nội đã dạy tôi học kinh, tôi
thuộc nhất là kinh Lạy Cha và kinh “trọn tốt, trọn lành” và một số kinh mà do
nghe nhiều nên tôi thuộc…Nhưng dường như chưa bao giờ tôi thuộc trơn tru những
lời kinh trong cuốn sách nhỏ mà người lớn ngày ngày vẫn đọc. Với đầu óc hay
treo ngược cành cây tôi hay tưởng tượng ra đủ thứ khi mà mọi người đang ra rả
những lời kinh sốt sắng. Có khi tôi nghĩ ra hình ảnh một con rắn khô mộc chui
ra từ mái lá, rớt xuống giữa nhà thờ làm mọi người chạy toán loạn…Cảnh tượng đó
chắc sẽ rất tức cười. Dù có giàu trí tưởng tượng đến mấy, tôi cũng không tài
nào hình dung ra được là khi ấy tôi còn nghĩ được rằng : Nếu Chúa Giêsu tỉnh
lại và nói chuyện với mọi người. Chắc chắn tôi sẽ chạy lại xin Người một đoạn
gỗ nhỏ ở chân cây thánh giá kia để tôi đẽo một con quay thật tròn và nhẵn bóng.
Tôi sẽ ngẩng mặt cao, khoe với bọn thằng Tèo. Tụi nó luôn cười vào mặt tôi mỗi
khi chơi quay vì tôi đẽo quay xấu và chơi quay cũng rất dở. Lúc đó, tôi còn
nghĩ nếu tôi xin Chúa một cách lễ phép và khoe với Người về điểm 9 môn chính tả
sáng nay, chắc chắn Chúa sẽ gật đầu đồng ý. Hơn nữa tôi là một trong những đứa
trẻ chịu đi nhà thờ nhất trái đất này.
Ở cái tuổi lên 9, quả thực
tôi thật lắm thứ để tự hào kiểu như thế ! Thường thì những giờ kinh tôi hay
chia trí bởi hàng trăm những ý tưởng viển vông, hết sức li kỳ. Có lần thằng Tèo
thắc mắc: “Sao người lớn đọc kinh lại không ngủ gật bao giờ nhỉ?”. Khi ấy tôi
giải thích như một nhà hiểu biết rằng: Người lớn không ngủ gật vì họ thích đọc
kinh như tụi mình thích chơi trận giả vậy. Lúc ấy tôi đâu biết người lớn cũng
ngủ gật như thường, chẳng qua là chúng tôi bao giờ cũng gật trước thì làm sao
thấy được người lớn ngủ như thế nào? Chỉ đến khi không còn là một đứa trẻ tôi
mới biết và biết rất rõ điều này.
Hồi tôi 9 tuổi, người ngủ gật
mà tôi phát hiện ra đầu tiên và liên tục không ai khác đó là con Mây. Không
hiểu sao nó luôn gọi tôi là anh dù nó sinh cùng năm với tôi. Đi nhà thờ nó cũng
luôn chọn chỗ ngồi gần tôi. Có lần tôi giận nó vì đã méc tội tôi để trâu ăn xém
một góc lúa trong ruộng nhà bà Tám. Tôi nói to cho cả lũ bạn biết: “Tối qua,
lúc đọc kinh, cái Mây ngủ gật chảy cả nước miếng”. Nó quê quá liền chống chế
giải thích: “Vì tại lúc nhỏ mẹ em cho em uống nhiều nước cơm gạo nên vậy thôi”.
Chúng tôi cười sặc vì sự ngây ngô đến dễ thương của nó… Nhưng cũng có một chút
thắc mắc: Nước cơm gạo chắc bổ và ngon lắm nên con Mây mới béo trục, béo tròn
như vậy?!
Tuổi thơ của chúng tôi cứ
lặng lẽ và hồn nhiên như thế. Con đường dài nhất là từ trường về nhà và từ nhà
đến trường. Và con đường thích nhất là con đường từ nhà đến nhà thờ. Sở thích
đi nhà thờ ấy dù không chính đáng và hợp lý cho lắm nhưng không ai trách chúng
tôi vì khi ấy chúng tôi mới chỉ là những cô cậu nhóc con đang tuổi học, tuổi
chơi.
Tuổi thơ năm tôi 9 tuổi là
thế ! Thủa ấy, tôi lăng xăng đi nhà thờ, đi học, ăn, vui chơi và cười giòn tan
trước những niềm vui nho nhỏ, lăng xăng hạnh phúc với những yêu thương tôi nhận
được từ người thân quanh mình, từ những người láng giềng và từ những thằng bạn
“đầu đội trời, chân đạp đất” khắp cánh đồng trong chiều quê lộng gió.
Năm tháng trôi tuột, bay
nhanh như cánh diều đứt dây. Tôi lớn. Chuyện về những đứa nhỏ trong ngôi làng
xưa cũng đã bị lãng quên. Nhiều năm sau, tôi quay về xóm nhỏ, căn nhà thờ xưa
chỉ còn lại cái nền đổ nát, cụ Thân nằm kế sát, rêu phủ xanh ngôi mộ. Phía trên
đỉnh đồi, ngôi nhà nguyện có tháp chuông cao vút đã được xây kiên cố. Tuổi thơ
lưu lạc tận nơi đâu nay lại ùa về trong tôi. Rõ nhất là “âm hưởng” của những
lời kinh tối và những khuôn mặt sương gió thân quen trong xóm đạo nhỏ bé. Tôi
chợt nhận ra một khoảng trống trong mình vì đã để thất lạc đâu đó những thói
quen tốt và đánh rơi cả những lời kinh mà tôi thuộc nằm lòng thủa xưa đã rơi
rớt theo năm dài tháng rộng. Có khi tôi quên mất mình là một Ki-tô hữu, là
người con của xóm đạo năm xưa. Đổ thừa cho cuộc sống có lẽ là quá hèn với một
thằng con trai đã đủ trưởng thành. Mọi thứ xung quanh thay đổi hay đúng hơn tôi
đã đổi thay ???
Trăng mười sáu tròn như khuôn
mặt người thôn nữ, đang rọi sáng ký ức mịt mù trong tôi. Bỗng chợt thấy hiện
lên thật rõ nét những bông dâm bụt trước cổng nhà cụ Thú, những bông hoa cả đời
chẳng tặng cho ai, chỉ để rực lên một Niềm tin ngày trở về.