CHÀO 2017,
BẦY VỊT MỪNG NHAU TRÊN ĐỈNH LŨ
Ghi vội
mùa Giáng sinh 2016
Trên đường đến Bêlem, một thiên sứ nhí hỏi:
- Nếu những người chăn chiên đang ngủ, làm sao mình báo tin cho
họ được?
Một Sêraphim đáp:
- Thì mình thổi loa đánh thức họ dậy.
(Vô Ngôn
Thư)
Sau bữa sáng 24-12-2016, một nữ tu ở Tòa Giám mục Qui Nhơn đặt
tượng Hài đồng tí teo vào cái nôi nhựa nhỏ, phủ giấy bóng gương lên và thả xuống
bể cạn trong hòn non bộ cạnh nhà hưu dưỡng. Hệt như người đàn bà họ Lêvi đem đứa
con đỏ đặt vào thúng, thả vào đám sậy trên sông Nil. Lúc người nữ tu thả chiếc
nôi xuống nước và lặng ngắm Đấng Emmanuel chia sẻ thân phận bèo trôi của người
dân miền Trung khốn khổ, cũng là lúc tôi lên đường cử hành lễ Giáng sinh với
anh chị em ở một họ đạo xa xôi hẻo lánh vừa bị nhận chìm trong lũ lụt.
Tỉnh lộ 639. Km 44,100 - rẽ trái, gặp ngã tư - rẽ phải 100 mét, có
ngã ba bên trái. Tôi tiến vào khuôn viên nhà thờ An Mỹ, một Giáo họ biệt lập của
Giáo xứ Phù Mỹ, nằm trên địa bàn thôn An Mỹ, xã Mỹ Cát, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình
Định. Ngoại trừ nhà thờ, tất cả các nhà khác, kể cả nhà xứ, còn in ngấn nước
trên tường 3 tấc, 5 tấc, một mét hoặc hơn... Nước lũ chỉ mới buông tha cho giáo
họ chưa được 5 ngày để vừa quét dọn vừa chuẩn bị trang trí mừng lễ Giáng sinh. Chiều
24, gần 5 giờ cha quản nhiệm vẫn còn tất bật ở “công trường”. Hai nữ tì Chúa
Giêsu Tình Thương và thầy xứ làm việc quần quật, chạy vào ăn vội chén bún rồi
chạy ra lo cho các em nhỏ trong đội văn nghệ.
Bảy giờ, trời lại mưa. Đám đông chạy dạt lên hè nhà thờ, nhưng
chỉ chừng 15 phút là thôi mưa, trời ấm. Lời chúc và thông điệp Giáng sinh được
trao tận tay từng người qua cánh bướm màu photocopy. Chương trình canh thức lược
tóm lịch sử cứu rỗi, nhấn vào chủ đề hạnh phúc gia đình. Giáo họ chỉ đếm được
300 người lớn nhỏ nhưng vẫn đủ những mục
hát múa và thoại kịch đông vui. Nhiều người nhà xa hằng chục cây số vẫn có mặt
trên sàn diễn. Bà con đến xem đứng chật sân nhà thờ. Sau diễn nguyện, các em nhỏ
chen nhau nhận quà. Cộng đoàn chia tay bà con lương dân, rồi vào nhà thờ cử
hành thánh lễ.
Sáng ngày 25, không có thánh lễ. Hai nữ tu sẽ về lại cộng đoàn ở
Làng Sông trong buổi sáng, do đó giờ ăn sáng cũng là lúc nhìn lại mọi việc để
rút kinh nghiệm cho năm sau. Ban chiều, lễ ở đây xong, cha quản nhiệm sẽ đi cử
hành lễ Giáng sinh tại giáo điểm Mỹ An, cách nhà thờ hơn 20 cây số. Nghe nói sẽ
có rửa tội cho hai gia đình, 10 người, tôi rất muốn tham dự, thế nhưng đã trót hẹn,
phải về lại Qui Nhơn.
Tôi nhờ thầy xứ chở bằng xe máy ngược đường tỉnh 639 để thăm một
vài gia đình. Nhà anh Tưởng cách nhà thờ hơn chục cây số, mới được ơn trở lại,
đang học giáo lý. Do bị mất giống lần thứ ba, vừa sạ lại, sáng nay vợ chồng anh
tranh thủ ra thăm nước. Ở nhà chỉ có người con dâu và bà cụ, gần 90 tuổi, bị
lòa. Nghe có linh mục đến thăm, bà mừng muốn khóc:
- Cha ơi, tôi không thấy gì cả, nhưng mừng lắm. Cha thằng Tưởng
mất khi nó mới bốn tuổi, nay nó đã 56. Sau 75, đâu còn nhà thờ nhà thánh gì,
tôi ở đây một mình, chỉ đọc kinh sáng kinh tối một mình. Ăn cơm, tôi làm dấu,
con nó hỏi, phải nói tránh đi: Cứ gần ăn cơm là má bị ngứa trán, má gãi chút
mà! Bây giờ nó được ơn trở lại, có cha có thầy đến, mừng sao là mừng.
Về nhà đã 12 giờ. Tôi ghé hòn non bộ viếng Chúa Hài Nhi. Lá rơi
trên bể cạn, chiếc nôi bập bềnh thê lương, có lẽ đã chẳng mấy ai để ý. Cơn lũ
giết người cũng lùi vào quá khứ, những nạn nhân của nó chỉ mới hơn một tuần cũng
đã bị trôi dần vào quên lãng. Chúa Hài Nhi của người nữ tu bị bỏ rơi trong góc
vắng. Phải chi đêm qua tôi ở nhà, hẳn tôi đã làm cái gì đó để các bạn trẻ chú ý
tới tác phẩm của chị. Họ sẽ kéo nhau đến chụp hình. Tôi sẽ kể cho họ câu chuyện
Môsê ngày xưa và Môsê của thời Tân ước. Rồi chờ khi họ động lòng với câu chuyện,
tôi sẽ bảo họ:
- Này em, tên của Hài Nhi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở
cùng chúng ta. Ngài vẫn ở với em trên mọi nẻo đường, cả khi em chới với một
mình giữa mưa dày lũ cuốn. Hãy thầm nói với Ngài một đôi lời rồi em sẽ thấy
sáng bừng lên sự thật, và em sẽ hiểu ra Ngài chấp nhận bị bỏ rơi để cho em cũng
như bất cứ ai khác trong loài người không còn thấy lẻ loi giữa những bế tắc
trong cuộc sống.
Lời đã làm người. Lời đang gọi nhưng hỏi có ai nghe chăng? Thưa
có. Trên điện thoại của tôi, có không ít tin nhắn và cuộc gọi của anh chị em
lương dân hướng về niềm vui ngày lễ, và một cách nào đó cũng là đang hướng về
Chúa Cứu Thế.
Hai giờ có điện thoại. Một giảng viên Đại học hẹn gặp. Ba giờ
chiều, chị đến cùng một bạn đồng nghiệp, cũng là tín hữu. Ồ, tại sao các chị lại
chọn lúc này mà đến thăm? Có biết bao bạn hữu của các chị, đã ghé tới khuôn
viên các nhà thờ đêm qua, và hôm nay đang mở lòng muốn nghe các chị nói! Tại
sao các chị không đáp ứng? Tôi chỉ nghĩ thế thôi, không nỡ nói ra điều mình
nghĩ. Có lẽ Chúa đang gửi họ đến cho tôi như một món quà, như một gợi ý và cũng
để tôi giúp họ đôi phần trong nỗi băn khoăn của người tín hữu trí thức. Phố thị
bên ngoài ồn ã, nhưng tại những góc thinh lặng nào đó, không thiếu những con
cái Chúa đang đến với nhau trong đức tin và đức mến. Trong cái vắng lặng của
nhà hưu dưỡng này cũng thế, có hai tâm hồn
đang muốn biết mình phải làm gì cho Chúa. Tôi đã lắng nghe và chia sẻ với
họ gần một tiếng đồng hồ.
Đúng 5 giờ, anh T. nhờ một người bạn đến đón tôi. T. tổ chức bữa
ăn mừng lễ với một nhóm bạn. Ngoài chủ nhà, có một giáo dân “đạo gốc”, chính là
người vừa làm tài xế xe ôm đón tôi, một vị lão thành mới lãnh bí tích thánh tẩy
hơn ba năm, một người sau nhiều năm lưu lạc nay đang trên đường hội nhập lại
vào đời sống Hội thánh, một dự tòng, một nhà báo rất gần gũi với Đạo Chúa và một
linh mục. Người trẻ nhất trong nhóm đã hơn năm mươi tuổi. Trong bầu khí ấm áp, chúng
tôi chia sẻ cho nhau những ghi nhận, suy tư và cảm nghiệm về cuộc sống, về nỗi
đau của con người và về ơn cứu rỗi. Các bạn cũng nêu những câu hỏi liên quan đến
Kinh thánh để mọi người cùng góp ý.
Tôi hỏi anh T., tổ chức bữa ăn Giáng sinh gia đình, sao lại
không có ai khác trong nhà cùng tham dự? Câu trả lời thật bất ngờ:
- Vị lão thành trong bàn ăn hôm nay là một Phật tử kỳ cựu, đọc
nhiều hiểu rộng, đến tuổi 72 mới ngộ ra rằng ngoài Chúa Kitô, không thể tìm thấy
ai khác là Đấng Cứu Rỗi. Thế nhưng cụ vẫn còn phải mất hai năm để chọn giữa những
hướng tuyên xưng khác nhau trong Kitô giáo. Trước đó, một người con rể của cụ
là thành viên “Chứng nhân Giê-hô-va” đã từng thuyết phục cụ theo giáo phái này
nhưng cụ không quan tâm. Cuối chặng đường đời, sự ngập ngừng của cụ là giữa Hội
thánh Tin lành Việt Nam và Hội thánh Công giáo. Năm qua, người con rể từ Úc về thăm
mấy tháng, đã mượn phòng khách nhà bố vợ, quy tụ một số người vào chiều Thứ Bảy
hằng tuần để diễn giải Kinh thánh. Con may mắn có mặt ở đó kể như từ đầu. Sau mấy
lần tham dự, con tự thấy nhu cầu phải tìm hiểu Kinh thánh, đồng thời tự hỏi:
Người ấy có khác gì mình đâu? Anh ta chỉ là một thành viên thường, không phải
là chức sắc gì của giáo phái, tại sao anh ta làm chứng nồng nhiệt đến thế, còn
mình dù từ nhỏ đã biết đến sứ mạng làm chứng của người tín hữu mà mãi gần cuối
đời vẫn còn ngập ngừng chưa dám nói và chưa biết nói về Đấng Cứu Thế của mình?
Thưa cha, lý do là như thế.
Dự tính ban đầu của tôi cho chiều ngày lễ Giáng sinh là cùng đi
với một anh em linh mục tới dự giờ hát thánh ca và chia sẻ của một Hội thánh
Tin Lành nhưng rồi “mộng chưa thành”, tôi nhận lời dự buổi chia sẻ ở nhà anh T.
Ai ngờ tại đây Chúa đã cho tôi được gặp những anh chị em các hệ phái khác qua một
đường dây vô hình. Mà sao vẫn cứ thấy còn ray còn rứt? Hình như chỉ gặp gỡ
trong tâm tưởng thôi không đủ, bởi lẽ: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh...
Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp-têm; chỉ có một Đức Chúa Trời và một
Cha của mọi người, Ngài là trên cả mọi người, giữa mọi người và ở trong mọi người”
(Ê-phê-sô 4,4-6 - Các trích dẫn Kinh thánh trong bài đều trích theo bản dịch
Tin lành, ấn bản 1990). Những người tôi gặp chiều nay đều là trí thức, nếu họ hỏi
tại sao các môn đệ Chúa lại chia rẽ, tôi có thể trả lời không khó. Thế nhưng
làm sao trả lời gãy gọn được nếu một học sinh hỏi rằng: “Mấy người cứ bảo là đạo
yêu thương, thế tại sao người Công giáo lại bôi bác người Tin lành và người Tin
lành lại bêu xấu người Công giáo?” “Mấy người đã rủ người lương chúng tôi đi cứu
trợ lũ lụt, còn Công giáo và Tin lành sao chưa thấy rủ nhau?”
Hơn 9 giờ tối, tôi qua cổng nhà thờ lớn về lại nhà hưu dưỡng.
Trong khuôn viên nhà thờ Chính Tòa và chủng viện, người lương đi chơi lễ thật
đông, đa số là thanh niên nam nữ và các phụ huynh trẻ. Phải chi tôi kịp lôi những
tấm panô ở An Mỹ về đây giăng đầy dãy hàng rào xung quanh để khách đi chơi có
cơ hội học biết sứ điệp Giáng sinh. Phải chi tôi còn trẻ, tôi sẽ đứng đây đến
khuya, đến lúc người khách cuối cùng ra về, tôi sẽ rao bán Kinh thánh với một
giá rẻ rề và sẽ cho người mua cả số điện thoại của tôi để họ có thể gọi bất cứ
lúc nào họ cần đến. Thế nhưng, rồi chợt thấy nặng lòng: Làm sao người ta có thể
tin được khi chính các con cái Chúa chưa yêu thương hiệp nhất với nhau?
Tối 27-12. Đèn màu của chủng viện và nhà thờ Chính tòa vẫn còn
thu hút một số người đến chụp hình và xem hang đá. Phải chăng đây là những người
đã “nghe chuyện bọn chăn chiên nói và lấy làm lạ” (Lu-ca 2,18). Tôi nhìn quanh
không thấy “bọn chăn chiên” đâu cả. Nhưng kìa, đã có em bé vừa sinh giữa cánh đồng
Bết-lê-hem (x. Ma-thi-ơ 2,1), để sẽ trở thành người chăn chiên đích thật và duy
nhất (x. Giăng 10,2). Tôi chợt nghe văng vẳng: “Ta là người chăn hiền lành; người
chăn hiền lành vì chiên mình mà phó sự sống mình. Ta là người chăn hiền lành,
ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta. Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng
nầy; ta cũng phải dẫn nó về nữa, chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy,
và một người chăn mà thôi” (Giăng 1,11.14.16).
Tôi thấy tiếc nhớ làm sao cái dự định không thành, muốn thông
công đôi chút với anh em Tin lành nhân mùa Giáng sinh, trước khi bước vào thời
khắc kỷ niệm 500 năm cuộc Cải Cách của Martin Luther và 50 năm hành trình tìm về
đoàn tụ. Hầu như ai cũng biết các môn đệ của Chúa Cứu Thế đã chia rẽ nhau nhưng
ít ai biết rằng hơn một thế kỷ nay, Đức Thánh Linh/Chúa Thánh Thần đã thổi xuống
trên tâm hồn các Cơ đốc nhân/Kitô hữu một luồng gió mới, một nỗi khát khao hiệp
một/hiệp nhất. Thế nhưng ít ai biết được, trong 50 năm qua, cuộc đối thoại giữa
Hội thánh Công giáo và các hệ phái ly khai đã tiến nhanh tới mức nào. Cụ thể tại
Việt Nam này, rất ít ai biết, kể cả giữa vòng các tín hữu Tin lành và Công
giáo. Hỏi mấy ai biết đến bản tuyên bố chung 1999 giữa Công giáo và Tin lành
cùng khẳng định một giáo lý về ơn cứu rỗi (trong tiếng Anh và tiếng Pháp là
“justification”, còn trong tiếng Việt, thuật ngữ Tin lành gọi là “sự xưng công
nghĩa”, thuật ngữ Công giáo gọi là “ơn công chính hóa”)? Hỏi mấy người đọc được
nó khi mà đã 17 năm rồi nó vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt? Tôi thấy mình
đang cùng thổn thức với Đấng Christ/Đức Kitô Cứu Thế qua ý nguyện của Ngài
trong đêm cuối đời: “Ấy chẳng những vì họ mà Con cầu xin thôi đâu, nhưng cũng
vì kẻ sẽ nghe lời họ mà tin đến Con nữa, để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở
trong Con, và Con ở trong Cha; lại để cho cả họ cũng ở trong chúng ta, đặng thế
gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến” (Giăng 17,20-21).
Tôi muốn tìm một ai đó đã dự một phần trong các cử hành Giáng
sinh năm nay của anh em Tin lành để hỏi thăm, nhưng rồi lại tự nhủ: tại sao
mình không đến thẳng nhà thờ Tin lành mà hỏi? Phút chốc, tôi rời cổng nhà thờ
Chính tòa, thả bộ lên Hội thánh Tin lành ở đường Hai Bà Trưng. Mặt tiền và
khuôn viên nhà thờ đã trở lại dáng vẻ ngày thường, như một Bêt-lê-hem thầm lặng,
không đèn hoa nào lôi cuốn người qua đường phải chú ý. Riêng văn phòng Mục sư vẫn
mở cửa, sáng đèn. Cổng lớn đóng nhưng may mắn, cổng nhỏ đang mở. Tôi vừa chào,
Mục sư Nguyễn An Toàn đã nhận ra. Ba năm trước đây, tôi đã có lần cùng cụ
Trương Hồ đến thăm Mục sư.
Hằng tuần vào tối thứ Ba, cả trong và ngoài Thành phố có 17 nhóm
học Kinh thánh dành cho chị em phụ nữ, mỗi nhóm vài ba chục người, tất cả đều học
đồng loạt vào cùng một giờ để vừa học, vừa hiệp thông trong tâm tình cầu nguyện.
Tối Thứ Ba nào Mục sư Toàn cũng đi dự giờ học với một nhóm, riêng tối nay người
đứng đầu lớp học tại đây vắng mặt, vị Mục sư phải ở nhà giúp thay. Có thế,
chúng tôi mới may mắn được gặp nhau.
Tôi hỏi thăm và vui mừng tạ ơn Chúa vì những ơn lớn lao Thiên
Chúa đang ban cho Hội Thánh Tin Lành Quy Nhơn. Chỉ khoảng nửa giờ thôi nhưng
tôi nhận được nhiều thông tin lý thú. Nhiệm kỳ phục vụ của các mục sư tại mỗi Hội
thánh là 4 năm. Mục sư Toàn về đây được 5 năm, đang phục vụ năm đầu của nhiệm kỳ
thứ hai. Với những Hội thánh còn ở giai đoạn tự dưỡng, Hội đồng Tổng liên hội
chủ động bổ nhiệm mục sư, không cần hỏi ý kiến tín hữu. Với những Hội thánh đã
có khả năng tự trị, Tổng liên hội cử đến ba ứng viên để anh chị em tín hữu bầu
chọn. Mỗi vị trong ba ứng viên sẽ giảng lễ một chúa nhật, rồi tín hữu bỏ phiếu.
Vị nào được nhiều phiếu hơn cả, và phải hơn 50% số phiếu, sẽ được bổ nhiệm. Hết
nhiệm kỳ I, sẽ có bỏ phiếu tín nhiệm, phải được hơn 60% số phiếu, vị mục sư mới
có thể tiếp tục nhiệm kỳ II. Sau nhiệm kỳ II, phải đạt tới 80% số phiếu mới có
thể tiếp tục nhiệm kỳ III. Cách làm việc này tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiệp
nhất mạnh mẽ giữa mục sư và cộng đồng tín hữu.
Ngày Mục sư Toàn mới nhận nhiệm sở, mọi hoạt động đều tập trung tại
nhà thờ ở đường Hai Bà Trưng này. Nay thì nhà thờ ở Chợ Dinh đã là trụ sở của một
Hội thánh tự trị. Mục sư Toàn phụ trách mười điểm nhóm tại nội thành Quy Nhơn
và trên địa bàn huyện Tuy Phước, mấy năm qua đã có thêm nhà nguyện tại Phú Tài
và Phước Sơn. Mùa Giáng sinh năm nay, do chỉ có một mình, vị Mục sư phải phân bố
cả một chương trình 8 ngày, từ 17 đến 25-12, mới truyền giảng đều khắp cả mười
điểm nhóm. Không riêng tại Quy Nhơn và Tuy Phước, khó khăn lớn chung cho Hội
thánh Tin lành Việt Nam hiện nay là thiếu nhân sự. Vừa qua, một trường đào tạo trung cấp đã được
mở tại Đà Lạt. Các học viên học hai năm, thực tập hai năm rồi quay lại học thêm
một năm, mới có thể ra trường làm Thầy Truyền đạo. Nói chung, những năm gần
đây, nhờ ơn Chúa, Hội thánh Tin lành đang lan rộng.
Đầu tháng 12, cha Lê Kim Ánh, cha sở Chính Tòa và là Hạt trưởng
Giáo hạt Qui Nhơn đã trao đổi với Mục sư Toàn để thực hiện một buổi hát thánh
ca chung mừng lễ Giáng sinh 2016, nhưng thời giờ quá eo hẹp, không kịp chuẩn bị,
nên năm nay dự án tốt đẹp ấy chưa thực hiện được. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta
sắp có tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp một các Cơ đốc nhân (nói theo người Công
giáo là sự hiệp nhất các Kitô hữu), 18-25 tháng Giêng, nếu xúc tiến ngay thì vẫn
không muộn để đánh dấu kỷ niệm lịch sử của 500 năm chia cách và 50 năm tìm về đoàn
tụ.
Câu chuyện chia sẻ tới đây thì chị em học viên của lớp giáo lý bắt
đầu đến. Tôi lưu luyến ra về để Mục sư bắt đầu giờ lớp.
Rời phòng khách vị Mục sư, tôi có một niềm vui rất siêu nhiên, đồng
thời cũng có một nỗi buồn vừa rất siêu nhiên vừa có phần nhân loại. Niềm vui là
niềm vui Thánh Phaolô nói trong thư Phi-líp: “Song có hề gì! Dẫu thế nào đi nữa,
hoặc làm bộ, hoặc thật thà, Đấng Christ cũng được rao truyền; ấy vì đó tôi
đương mừng rỡ, và sẽ còn mừng rỡ hơn nữa” (Phi 1,18). Kết quả việc truyền giảng
những thập niên qua của anh em Tin lành rất cao. Những con số thống kê cho phép
người ta dự đoán rằng muộn lắm là 15 năm nữa, số tín hữu Tin lành tại Việt Nam
sẽ đạt tới 10 triệu người.
Nỗi buồn của tôi là, với cách nói, cách làm, cách nghĩ và cách sống
hiện nay, vào cũng thời điểm ấy, liệu Giáo hội Công giáo có đạt tới con số ấy
chưa? Mà đó lại chính là lúc người Công giáo đang nô nức kỷ niệm 500 năm Tin mừng
đến với Dân tộc (1533-2033)! Thiên Chúa và tiền nhân đang đợi chờ gì nơi ta vào
thời điểm ấy? Có phải lúc ấy Giáo hội trên khắp 26 giáo phận Việt Nam sẽ dâng
lên Chúa Cứu Thế cái cảnh nức lòng, đâu đâu cũng nườm nượp những đoàn người
gánh lúa về kĩu cà kĩu kịt? Hay lại cũng chỉ có những lễ hội hoành tráng như
bao nhiêu lễ hội hoành tráng khác đã qua đi, chỉ nửa ngày sau khi bế mạc là
trôi theo cơn lũ, để lại những rệu rã, mệt mỏi, chán chường và phân hóa?
Tôi không thể không nghĩ tới kinh nghiệm ở Hàn Quốc. Người Tin
lành đến Hàn Quốc (1884) saungười Công giáo (1603) đúng 281 năm, và rồi “vào năm
1945 cả hai hệ phái (Công giáo và Tin lành) chiếm khoảng 2% dân số. Sau đó họ
tăng trưởng rất nhanh: năm 1991, có 18,4% dân số (8,0 triệu) là Tin Lành, và
6,7% (2,5 triệu) là Công giáo” (https://en.wikipedia.org/wiki/Christianity_in_Korea).
Theo thống kê mới cập nhật tháng 8-2016 thì hiện nay Công giáo chỉ chiếm
7.6% dân số, đang khi Tin lành chiếm 24% (http://www.indexmundi.com/).
Trong những yếu tố đem lại
kết quả cho mùa gặt Tin lành tại Hàn, có một chi tiết rất đáng ghi nhận: “Năm
1924, người Tin Lành thành lập Hội đồng Kitô
giáo Toàn quốc Hàn để điều phối hoạt động bằng cách chia thành các khu vực
được phân công cụ thể cho các hệ phái Tin Lành khác nhau” (https://en.wikipedia.org/wiki/Christianity_in_Korea).
Tôi nhớ câu chuyện một mục sư trẻ đã kể cho tôi. Ở một vùng nọ
người ta nuôi rất nhiều vịt. Mỗi bầy vịt có một người lùa đi ăn, rồi lại lùa về
chuồng. Bọn vịt chỉ nhìn thấy những bầy vịt khác từ xa, chẳng khi nào có dịp giao
lưu gặp gỡ. Một hôm chẳng biết do đâu, lũ về dâng cao đột ngột. Ai nấy hớt hải
chạy người, chạy của. Trâu, bò, mèo, chó, heo, gà đều hoảng hốt tìm đường sống
sót. Chỉ có bọn vịt là nước càng lớn, càng mừng reo thỏa thích. Rồi mọi hàng
rào của các chuồng vịt đều lần lượt bị nhận chìm dưới sâu, những người chăn vịt
bó tay, mọi con vịt đều đang bơi trên đỉnh lũ, chúng í ới chào gọi nhau, chẳng
còn ai phân biệt được vịt nào của chuồng nào...
Chẳng biết có sự kiện nào tương tự xảy ra tại Bình Định này
trong đợt cuồng lũ cuối năm nay chăng nhưng trên thế giới thì có. Cơn lũ tục
hóa đã khiến nhiều bầy vịt là con cái Chúa bị bó buộc phải gặp nhau. Đức Thánh
Cha Phanxicô đang hô hào sự gặp gỡ, đang lớn tiếng kêu gào các bầy vịt ngoi đầu
lên khỏi cơn lũ, bơi xích lại gần nhau. Kính thưa Đức Thánh Cha, nghe lời Cha,
đêm nay ở cái xứ sở năm nào cũng lũ lụt này, có một con vịt Công giáo bơi sang thăm
chuồng vịt Tin lành.
Tôi về đến nhà thờ Chính Tòa mới hơn 8 giờ. Điện vẫn sáng choang
rực rỡ. Các cây xanh ở chủng viện vẫn thả xuống những chuỗi đèn màu huyền hoặc.
Tại khuôn viên Tòa Giám mục chỉ có mấy dây đèn màu trên hòn non bộ. Tôi nhìn xuống
kiếm tìm, phải chú ý lắm mới thấy chiếc nôi của Chúa Cứu Thế dạt vào một mé của
bể nước. Bóng điện nhỏ đặt trên chiếc nôi chiếu sáng khuôn mặt Hài Nhi đã hết
pin, mấy bóng màu chớp nháy trên khối đá không đủ soi xuống bể nước. Chính lúc
này, hình ảnh những trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và những thai bị gạt khỏi cuộc sống, mới
xoáy sâu vào lòng tôi.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm người chăn cừu trở thành con cừu
và nói bằng tiếng nói loài cừu, người chăn vịt trở thành con vịt và dùng ngôn
ngữ của vịt, Đấng làm ra con người trở thành con người cho ta được mắt thấy tai
nghe. “Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng
ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật giống như vinh hiển của Con Một đến
từ nơi Cha” (Giăng 1,14).
Nơi chiếc nôi bé bỏng, tôi hiểu ra rồi. “Vì chúng ta không có thầy
tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy
tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội”
(Hê-bơ-rơ 4,15). Tôi hiểu ra rằng chính là để đoàn tụ chúng ta mà Chúa Cứu Thế
đã sẵn lòng để mình bị bỏ rơi. “Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã
gánh sự buồn bực của chúng ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Đức Chúa
Trời đánh và đập, và làm cho khốn khổ. Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị
vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu, chúng ta
được bình an, bởi lằn roi người, chúng ta được lành bịnh. Chúng ta thảy đều như
chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy
chúng ta đều chất trên người” (Ê-sai 53,4-6). “Đức Chúa Jêsus sẽ vì dân mà chết;
mà không những vì dân thôi, mà cũng để nhóm con cái Đức Chúa Trời đã tản lạc lại
làm một đoàn” (Giăng 11,51-52).
Tất cả những hang đá huy hoàng trong mọi nhà thờ trên thế giới đều
bắt nguồn từ một giờ chiêm niệm của Thánh Phanxicô Assisi. Cả Thánh Gioan Thánh
Giá cũng lắm lần ngắm nhìn ngây ngất, rồi ôm lấy Hài Nhi vào lòng mà múa nhảy.
Thế nhưng ngày nay, dưới những ánh điện sáng choang, hang đá Bê Lem có còn đủ sự
giản đơn nghèo khó để dọi ánh sáng vào lòng người tăm tối? Cả tiếng chuông
vang, cả lời kinh ngân nga dìu dặt, những bài thánh ca và âm nhạc đã từng có sứ
mạng dẫn dắt lòng người vào chiều sâu chiêm niệm, nhưng thử hỏi ngày nay chúng
còn đóng đúng vai trò ấy chăng hay chỉ là những lợi khí giúp cuộc đời biến việc
cử hành lễ Giáng sinh thành một lễ hội dân gian trần tục? Cứ đều đặn hằng năm,
khi mùa đông đến, người ta lại theo thông lệ rước tượng Hài Đồng về để tổ chức
lễ hội. Ôi Chúa Cứu Thế, Đấng Emmanuel, khi được long trọng mời về dự ngày lễ của
chính Người, Người buồn hay vui?
Hãy để cho lễ hội qua đi. Hãy về lại với đêm sâu chiêm niệm. Hãy
nghe điều Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Chúa
Cha chỉ nói một lời rằng đó là Con Ngài. Ngài hằng nói lời ấy mãi trong thinh lặng
vĩnh cửu, thì linh hồn cũng phải lắng nghe Ngài trong thinh lặng” (Châm ngôn, 99).
Sáng 30-12, nơi hang đá trong phòng nguyện nhà hưu dưỡng, Chúa
Hài Nhi tỏa ánh sáng ấm cúng của Ngài, chiếu lên khuôn mặt Thánh cả Giuse và Đức
Mẹ. Gia đình bé nhỏ này thật sự là Thánh vì có Chúa Giêsu ở giữa. Khuôn mẫu ấy gợi hứng cho các gia đình con
cái Chúa hướng về hạnh phúc thật. Sau thánh lễ, tôi dừng chân trước máng cỏ cầu
nguyện cho các gia đình trên thế giới. Tôi nhớ đến những gia đình ở An Mỹ. Chiều
hôm qua cha Mai gọi vào cho biết, gió quá mạnh đã thổi bay cả hang đá ngoài sân
nhà thờ, Thánh Gia lâm cảnh màn trời chiếu đất. Bão nữa chăng? Tôi ra ngoài,
lân la lại gần bên ngọn non bộ. Chiếc nôi bị bỏ quên trong bể cạn, chiếc nôi được
cảm hứng từ câu chuyện của em bé người Hípri mới ba tháng tuổi. Ba tháng, em
chưa có từ và chưa có ý nhưng đã có cảm xúc. Tôi lặng nhìn và đọc ra nơi tâm hồn
bé bỏng ấy cái chấn động thảng thốt: “Mẹ! Mẹ! Mẹ ở đâu? Mẹ ở đâu?”
Ở nhà, Mẹ của bé đứng ngồi không yên, thấp thỏm mong chờ đưa con
gái đem tin lành về. Đang khi đó, bên bờ sông, chị đứa bé làm như đang ngồi vọc
cát, mắt không ngừng hướng về phía chiếc nôi, miệng cứ mấp máy: “Em ơi, đừng sợ!
Mẹ đang lo cho em và đang có chị ở đây!”
Tôi nhìn chiếc nôi Hài Nhi lênh đênh trong bể cạn mà hiểu ra người
mẹ của Hài Nhi không xa đây, và hơn nữa tôi còn hiểu ra mẹ của Hài Nhi cũng là
mẹ của tôi, mẹ của Đầu cũng là mẹ của mọi chi thể, cả Công giáo lẫn Tin lành. Làm
sao chúng ta có thể ngập ngừng không dám gọi Mẹ Đấng Cứu Thế là mẹ chúng ta khi
mà chính Ngài không thẹn gọi chúng ta là anh em Ngài? (x. Hê-bơ-rơ 2,11). Bất
giác, tôi nhớ ra một điều kỳ diệu: ngày đầu năm dương lịch này, bắt đầu kỷ niệm
500 năm chia cắt và 50 năm tìm gặp lại, cũng là ngày lễ của Mẹ và cũng là bắt đầu
kỷ niệm 100 năm Mẹ ngỏ lời tại Fatima để ủi an và gọi mời nhân loại. Thì ra, Mẹ
ở đây. Mẹ vẫn ở đây với chúng con, chăm lo cho chúng con, để giữa lũ chồng lũ,
chúng con tìm thấy suối hồng ân, và sau cuồng phong bão táp lại là ngọn gió yên
lành của Thánh Linh Thiên Chúa .
Qui Nhơn, 01-01-2017
Linh mục Trăng Thập Tự