GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG
TRƯỜNG 2017
BẢN TIN 04
Thưa quí độc giả và quí tác giả
Trước thềm Xuân Đinh Dậu, Ban Tổ chức
Giải Viết Văn Đường Trường xin kính chúc quí vị và gia đình một cái Tết vui
tươi đầm ấm và một Năm Mới an lành hạnh phúc trong tình thương Thiên Chúa. Xin
kính mời qui vị thưởng thức 7 truyện tiếp theo đã qua vòng sơ loại của cuộc thi
2017.
Đề tài cuộc thi giải Viết Văn Đường
Trường năm nào cũng mở rộng cho mọi khía cạnh thuộc về học thuyết Kitô giáo và
kinh nghiệm sống của người tín hữu. Sự mở rộng ấy có thể thuận lợi cho một số
người nhưng một số người khác lại cần có một chủ để để dễ tập trung suy nghĩ và
chỉ ra hướng sáng tạo. Năm nay chủ đề hướng về hai kỷ niệm lịch sử: 100 năm Mẹ
Maria hiện ra tại Fatima và 500 năm cuộc cải cách Tin Lành.
Về sự kiện Fatima có nhiều thông tin
trên mạng Internet. Bạn Võ Thị Phương, một tác giả viết văn đường trường, đã cống
hiến một thông tin tổng hợp dưới dạng kịch bản. Có thể xem tại:
http://vietcatholic.org/News/Html/196429.htm
Tại Việt Nam, thông điệp của Đức Mẹ
Fatima đã lan rộng qua một số bản thánh ca mời gọi ăn năn hối cải. Việc lần chuỗi
Mân côi đã có thời rất phổ biến, ngày nay gặp trở ngại do cuộc sống vội vã. Cuộc
sống tranh đua chạy theo vật chất hiện nay khiến người ta không còn quan tâm đến
việc lần chuỗi. Tuy nhiên, nếu biết dành thời giờ lần chuỗi, không cốt đọc nhiều
nhưng đọc chậm và lắng đọng để suy niệm thật thấu đáo các mầu nhiệm trong đời
Chúa, người ta sẽ có được sự thanh thản, tự do và tự chủ hơn trước sức ép của
văn minh vật chất tiêu thụ. Việc tôn sùng Trái tim Đức Mẹ cũng nổi bật qua
phong trào hành hương. Hầu như giáo phận nào cũng có trung tâm hành hương kính
Đức Mẹ. Ước mong chủ đề cuộc thi sẽ giúp dân Chúa quan tâm tới tiếng gọi hoán cải
theo Tin mừng mà thông điệp Fatima đã và vẫn đang gởi đến từng người.
Việc hoán cải bắt đầu từ bản thân
đúng là một cuộc chạy đua hào hứng cần có giữa các tín hữu Công giáo và Tin
Lành. Những tác giả dự thi quan tâm nhiều hơn tới cuộc đua này, chắc hẳn sẽ
không ngồi một chỗ tưởng tượng, nhưng sẽ đi ra, giao lưu, nhập cuộc, gặp gỡ các
nhóm bạn Tin Lành để thấy rõ những mặt mạnh của anh chị em mình. Thoạt đầu
chúng ta hơi ngập ngừng lúng túng, cảm thấy khó xử khi tiếp xúc, nhưng rồi sẽ
thấy như bị thách đố khi nhìn lại mình và tự đặt câu hỏi cho chính mình. Từ đó
ngọn bút về đề tài này sẽ không dừng lại khi cuộc thi Viết Văn Đường Trường kết
thúc nhưng sẽ còn tiếp tục để giục giã nhiều anh chị em khác cùng chạy đua. Cần
lưu ý rằng đây không phải là một cuộc “tranh luận về tôn giáo”, mà là một cuộc
chạy đua để tìm ra phương cách hiểu và gần Chúa hơn giữa những người anh em có
chung một Cha. Xin mời xem một bài viết
về điểm này: “Bầy vịt mừng nhau trên đỉnh lũ” tại http://www.vanthoconggiao.net/.
Hơn nữa, chính trong những ngày này,
trong tuần lễ cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, 18-25 tháng Giêng. Đức hồng y Kurt
Koch hiện là Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh Cổ võ sự Hiệp nhất các Kitô hữu,
người cùng đi với Đức giáo hoàng Phanxicô trong tất cả
các chuyến tông du đại kết của ngài trong suốt năm qua.
Phát biểu trong tuần lễ cầu nguyện cho hiệp nhất, ngài nói: “Năm 2016 thực sự
là một năm đại kết”. Mời xem: http://www.hdgmvietnam.org/
Với tâm tình tạ ơn, chúng ta ký thác
công cuộc đại kết Kitô giáo cho tình thương, quyền năng và ân sủng của Thiên
Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.
Qui Nhơn, 22-01-2017
Linh mục Trăng Thập Tự
BÀI DỰ THI
Mã số: 17-024
- Hiền, Cu Tý, hai con dậy mau, đến giờ đọc kinh sáng rồi.
Vừa nói, bà mẹ vừa hối thúc hai đứa con thức dậy. Đã thành thói
quen, Hiền thức dậy mau lẹ, bước ra khỏi chăn ấm. Còn Cu Tý thì nũng nịu:
- Hư… Cho con ngủ tí nữa!
- Chàng Đa-vít dũng cảm, thức dậy nào. – Hiền khuyến khích em.
Hiền cất chiếc chăn đi, xếp gọn gàng. Cu Tý cố ngồi dậy, tay dụi
vào mắt. Trời mùa đông ở quê lạnh lẽo, tiếng gió ngoài cửa sổ rít lên từng hồi.
Một lát sau, cả ba mẹ con đã hiện diện trước bàn thờ. Vì nhà quá xa nhà thờ, đường
đi lại khó khăn, nên gia đình không thể đi tham dự thánh lễ Mi-sa buổi sáng. Đổi
lại, sáng nào cả gia đình cũng quây quần trước bàn thờ, đọc kinh dâng ngày mới
lên Chúa và Đức Mẹ. Lần năm chục hạt xong, người mẹ xuống bếp chuẩn bị bữa ăn
sáng cho hai đứa đến trường. Hiền và Cu Tý quét dọn nhà cửa và ôn lại bài. Người
mẹ ngoài đọc kinh chung, bà còn đọc kinh riêng, vừa nhóm lửa, vừa lần hạt:
- Kính Mừng Ma-ri-a… Hiền con, trời sắp sáng, con chống cái rèm
lên… Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ, hơn mọi người nữ, và Giê-su con
lòng bà gồm phúc lạ…
Nhịp sinh hoạt của mẹ con Hiền sáng nào cũng thế. Nó đã thành nếp
sống.
Bẵng một thời gian, Hiền đậu vào đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. Cái ngày xa mẹ, xa Cu Tý đã đến gần. Buồn vui lẫn lộn trong con người của
Hiền. Trước khi khăn gói lên đường, mẹ dặn:
- Con gái à, được vô đại học là niềm mơ ước của con và nhiều đứa
bạn cùng trang lứa. Mẹ hãnh diện và tự hào về con. Gia đình ta tuy khó khăn,
nhưng mẹ sẽ cố gắng chu cấp hết sức có thể để con an tâm học hành. Nhưng điều mẹ
băn khoăn nhiều nhất đó là từ nay con phải sống tự lập, đứng trên đôi chân của
mình. Cái quan trọng là con phải giữ gìn sức khỏe, có sức khỏe tốt con mới mong
làm được mọi việc. Con hãy gắng chăm sóc bản thân và tập thích nghi với môi trường
mới nghe con.
Người mẹ cố giữ bình thản trước mặt con. Bà đưa tay Hiền lên và
đặt tràng chuỗi Mân Côi trong lòng bàn tay Hiền, khẽ nói:
- Hiền con, làm gì thì làm, bắt đầu ngày mới, con hãy luôn nhớ
Chúa trước hết nghe con. Con hãy siêng năng lần hạt, trò chuyện với Đức Mẹ. Con
biết không, ngày ấy con sinh thiếu ngày, tưởng không qua khỏi, mẹ đã khấn Đức Mẹ
giữ gìn con, thế là con qua khỏi. Chúa và Đức Mẹ thương con cách đặc biệt lắm.
Lúc này, thằng Cu Tý đang khóc nức nở vì nó sắp phải xa một người
chị, một người bạn tinh thần ngày ngày nô đùa với nó. Hiền rất thương Cu Tý. Mỗi
lần ở nhà, hai chị em quấn quýt lấy nhau như hình với bóng. Hiền đặt hai bàn
tay lên đứa em, rồi tỏ ra mạnh mẽ:
- Chàng Đa-vít của chị ở nhà khỏe và ngoan nha, chị hứa sẽ thường
xuyên gọi điện thoại cho Đa-vít.
Cu Tý khóc mếu máo:
- Chị hứa đó nha…
Thế rồi Hiền xa rời mái ấm gia đình thôn quê bình yên sau lũy
tre làng, để đến một thành phố hoàn toàn xa lạ. Ấn tượng ban đầu của Hiền khi đặt
chân đến Sài Gòn, đó là sự ồn ào náo nhiệt của nhiều phương tiện tham gia giao
thông, đông đúc người qua lại. Sài gòn “Hòn ngọc viễn đông” một thời, nay vẫn
còn mang dấu ấn và nhịp sống của một vùng kinh tế năng động.
Được nhóm anh chị sinh viên Công Giáo Thiên Ân giới thiệu, Hiền
đã thuê được một chỗ trọ khá ưng ý. Nó ở cùng phòng với hai người bạn: một người
Công giáo, một người theo đạo Tin Lành. Chẳng mấy chốc, Hiền đã thích nghi với
môi trường mới, cả ba đối xử với nhau rất tốt, coi nhau như một gia đình.
Với vóc dáng dễ nhìn, má lúm đồng tiền, miệng biết cười, Hiền nằm
trong tầm ngắm của nhiều chàng trai khoa luật. Hùng, một chàng trai học luật
thương mại đem lòng yêu Hiền từ cái nhìn đầu tiên. Duyên tình đưa đẩy, đẩy đưa.
Cả hai đều tham gia chiến dịch thanh niên tình nguyện năm thứ hai. Không hẹn mà
hò, Hiền và Hùng được cử đến Trà Vinh giúp các em tập đọc, tập viết từng con chữ.
Tình cảm giữa hai người nảy sinh. Hai tâm hồn đồng điệu, họ đem lòng yêu nhau.
Trở lại giảng đường đại học, tình cảm của hai người ngày càng thắm
thiết. Nhìn đôi trai tài gái sắc, bạn bè ai cũng ngưỡng mộ, pha lẫn chút ghen tỵ.
Một hôm, giờ ra chơi, thấy Hiền ngồi nơi hàng ghế đá. Hùng tiến lại gần, thấy
Hùng, Hiền hớn hở:
- Hùng nè!
- Chuyện gì mà nghiêm trọng vậy cô nương? – Hùng ghé vào tai Hiền.
- Tối nay, Hiền mời Hùng đi tham gia sinh hoạt với nhóm Hiền được
không?
- Nhóm nào thế? – Hùng ngạc nhiên.
- À, nhóm sinh viên công giáo Thiên Ân. Hiền tham gia nhóm này
được hai năm rồi. Nhóm sinh hoạt vào tối thứ bảy hàng tuần. Bên Công giáo của
Hiền, tháng này là tháng mười, là tháng Mân Côi, tụi Hiền tối nay ngoài sinh hoạt
sẽ cùng nhau lần hạt cầu nguyện cho những người đau khổ, bất hạnh.
Hùng nói chậm rãi:
- Mà Hùng có theo đạo đâu, ngại lắm!
- Không sao Hùng à, nhóm Thiên Ân có nhiều bạn không theo đạo,
nhưng vẫn tham gia sinh hoạt đều đặn, vui và ý nghĩa lắm. Tối nay, Hùng thử đến
xem sao. Với lại, tối nay Hiền sẽ chủ trì giờ cầu nguyện đó.
- Ừ, thì chiều cô nương vậy, miễn là cô nương vui thì Hùng này
có phải dẫm lên gai nhọn, hay vào chốn rừng sâu nước độc, cũng sẵn sàng.
Hiền reo lên:
- Cám ơn hoàng tử của em…!
- À, mà cô nương, cho Hùng này thắc mắc tí nha?
- Ông anh cứ hỏi, cô nương này sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc
cho ông anh.
- À, chuyện nhà đạo mà, Hùng thấy người Công giáo bên Hiền yêu mến
Mẹ Chúa Giê-su lắm, nhà Hùng chỉ theo đạo ông bà thôi, nhưng nhà Hùng lại ở gần
nhà thờ lắm, mỗi lần đi qua thấy người già con nít lần hạt lải nhải suốt ngày
mà không thấy chán.
Hiền nhanh nhảu đáp:
- Đúng rồi, bên Công giáo tụi Hiền yêu mến Đức Mẹ lắm, Mẹ của Hiền
sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tay thì làm, miệng thì lần chuỗi suốt ngày. Mà
Hiền hỏi Hùng nha, khi ông anh yêu cô nương này, điều gì làm ông anh sướng tai
nhất?
- Đương nhiên là “ I love you, em yêu anh” rồi. Hùng đáp ngay.
- Thế ông anh nghe mãi rứa có chán không?
- Sướng thấy mồ, chán sao được. – Hùng tủm tỉm.
- Thì người Công giáo cũng vậy, chán sao được, khi tụi Hiền lần
hạt là tụi Hiền đang tỏ mối tình với Mẹ Thiên Chúa, tình mẹ con “con yêu mẹ, mẹ
yêu con”, cũng giống như đứa trẻ gọi mẹ, gọi ba của nó. Sung sướng lắm Hùng à.
Hiền đắc chí.
- Thế nói yêu Chúa, yêu Đức Mẹ là được rồi cần gì phải đến nhà
thờ đi lễ, cứ sống như tụi Hùng đây nè, sáng sớm nhà ngủ ngon, lương tâm sống
cho trong sạch là ok rồi.
Có vẻ đắc chí với câu hỏi này, Hùng luồn hai cánh tay vào eo của
Hiền, áp nhẹ má của mình lên má bên trái của Hiền. Nhưng Hiền liền đẩy hai tay
Hùng ra và ngồi xa Hùng.
- Sao thế cô nương, cho Hùng xin lỗi nha, vì đưa cô nương vào thế
khó hì.
- Không đâu ông anh. Như ông anh nói thì kể từ nay trở đi chúng
ta gặp nhau nói chuyện, giữ khoảng cách, miễn là trong tâm “anh yêu em, em yêu
anh” là được, cần gì phải bá vai, bá cổ, xoa tóc, xoa đầu. Hiền tỏ ra vui vẻ.
Hùng thấy Hiền đối đáp thông minh và có lý. Chợt tiếng trống trường
vang lên. Hiền nói vội vã:
- Cứ thống nhất vậy nha Hùng, tối nay hẹn gặp Hùng ở dãy trọ,
bye…bye…
Hùng gật đầu khoái trá. Hai người chia tay vào lớp. Tan giờ học,
điện thoại Hiền rung lên. Thấy số điện thoại của mẹ hiện lên trên màn hình.
Linh tính như mách bảo cho Hiền biết có chuyện chẳng lành. Hiền bắt máy:
- A lô, Hiền phải không con.
Hiền nghe giọng của một người đàn ông bên kia giây.
- Dạ, con xin lỗi ai đang gọi cho con đây à?
- Cậu Luận đây con, cậu lấy điện thoại của mẹ con để điện thoại cho
con. Giờ con hãy bình tĩnh nghe cậu nói.
Môi Hiền rung lên, đoán là có chuyện hệ trọng, Hiền cố giữ bình
tĩnh:
- Dạ, chào cậu, cậu cứ nói, con xin nghe.
- Hiền à, Cu Tý em con bị tai nạn đã ba ngày rồi, em con vẫn
đang hôn mê, trong bệnh viện. Lẽ ra, mẹ con không muốn cho con biết, sợ con lo
lắng, nhưng vì tình trạng sức khỏe của Cu Tý đang nguy kịch, sợ không qua khỏi,
nên mẹ con nhờ cậu gọi cho con.
Lúc này tay Hiền run lên, chiếc điện thoại rơi khỏi bàn tay lúc
nào không biết. Như tiếng sét xẹt bên tai Hiền. Với Hiền, Cu Tý là người em yêu
quý không thể thiếu trong cuộc sống. Cu Tý đã quá ăn sâu vào tâm hồn Hiền. Lan,
người bạn thân của Hiền, biết chuyện của gia đình Hiền. Lan cố trấn an Hiền và
chở Hiền về dãy trọ. Cả buổi chiều Hiền thẫn thờ, tất cả mọi tâm trí cứ dồn về
cho đứa em bé bỏng của mình. Lưỡi hái tử thần đang kề bên nó. Bàn tay Hiền
không xa rời chuỗi hạt Mân Côi mà mẹ Hiền tặng khi mới nhập học. Hiền nức nở:
- Chúa ơi, không thể thế được, chả lẽ Ngài lấy đi người em yêu
quý của con. Ma-ri-a Mẹ ơi, con phải làm gì đây, xin Mẹ thương đến em con.
Hiền khóc như trẻ con, nức nở trông thảm thiết. Lời Kinh Kính Mừng
đọc bị ngắt quãng trong tiếng nấc nghẹn ngào.
Như đã hẹn, Hùng đến dãy trọ, chở Hiền đến chỗ sinh hoạt của
nhóm Thiên Ân. Hùng không hay biết chuyện của Hiền. Cả nhóm gặp nhau, trò chuyện
vui vẻ. Đến với nhóm không phân biệt tôn giáo, địa vị, xuất xứ. Tất cả làm nên
một vòng tròn yêu thương. Tối nay, như đã phân công, Hiền chủ trì giờ lần chuỗi.
Thánh giá và tượng Đức Mẹ được đặt trên một cái giá trang trọng giữa vòng tròn.
Chung quanh tượng có 20 ngọn nến được thắp lên, tượng trưng cho 20 Mầu nhiệm
Kinh Mân Côi. Đây là lần đầu tiên Hùng đến đây tham dự buổi cầu nguyện với các
bạn của Hiền. Hùng đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một bầu khí yên
tĩnh, ấm áp, thanh bình như đưa con người vào cõi sâu thẳm của tâm hồn, để gặp
gỡ Đấng mà người Công giáo gọi là Thiên Chúa. Có một cái gì linh thiêng mơn man
đến vô cùng đang xâm chiếm con người Hùng. Anh chưa cảm nhận được như thế bao giờ.
Trước đây, cứ tối thứ bảy, Hùng và mấy đứa bạn thường tìm đến các quán bar, vũ
trường sôi động, như con thiêu thân, quay cuồng theo điệu nhạc mạnh. Nhưng tâm
hồn anh vẫn luôn thấy bất an và mệt mỏi sau mỗi cuộc vui. Thì đây, trước ánh nến
chập chùng dưới màn đêm yên tĩnh, có một sức mạnh vô hình làm cho Hùng dễ chịu
vô cùng. Người ta vẫn thường nói màn đêm là hình bóng của cái chết. Nhưng sự hiện
diện của con người ngước về trời cao trong đêm đen, thì nó mặc cho đêm đen một
màu sắc thiêng liêng, huyền diệu. Điều mà người Công giáo vẫn cảm nghiệm được sự
hiện diện của Chúa khi mọi người quy tụ lại: “Ở đâu có hai ba người tụ họp lại
nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ (Cf. Mt 18, 20)”.
Các bạn sinh viên lần chuỗi sốt sắng. Hiền là người hướng dẫn các
bạn cầu nguyện. Đến Mầu nhiệm thứ năm Năm Sự Vui, tâm trí Hiền tự nhiên quay cuồng.
Đôi bàn tay Hiền chắp tay khẩn thiết lên Mẹ. Tràng chuỗi run theo nhịp rung của
đôi tay. Hiền không xướng nổi mầu nhiệm này. Cả nhóm đưa con mắt về phía Hiền.
Lúc này, mọi kỷ niệm của Cu Tý ùa về trong tâm trí Hiền. Khi ở nhà, Cu Tý luôn
cầu nguyện những lời đơn sơ nhất. Nó nói với Chúa, với Đức Mẹ, như đứa con nói
chuyện với Mẹ. Tâm hồn trẻ thơ là thế. Hiền còn nhớ từng lời mà Cu Tý cầu nguyện
cho chị nó trước ngày thi đại học:
- Xin Đức Mẹ cho chị con đỗ đại học, cho chị có công việc ổn định
để giúp đỡ gia đình, sau này cưới một chàng hoàng tử cao to, tốt bụng, Mẹ
Ma-ri-a nhậm lời Cu Tý nha.
Chợt cái Lan, bạn thân Hiền cất lên:
- Thưa các bạn, người em ruột của Hiền bị tai nạn, hôn mê đã ba
ngày rồi, sợ không qua khỏi. Hiền đau đớn lắm. Bạn ấy tính mai về quê…Giờ đây,
chúng ta cùng nắm tay lại, dâng lên Mẹ Mầu nhiệm thứ năm này, qua Mẹ xin Chúa
cho gia đình Hiền được bình an, em Cu Tý được mau khỏi.
Không ai bảo ai, cả nhóm tay trong tay, nắm chặt tay nhau cùng đọc
to lời kinh quen thuộc “Kính mừng Ma-ri-a…Thánh Ma-ri-a…”. Lời kinh vang vọng
giữa bầu trời mênh mông. Tất cả như cộng hưởng tạo nên một tiếng kêu thấu đến
trời cao. Đôi mắt Hiền lúc nãy đến giờ cứ đăm đăm nhìn vào tượng Mẹ. Hùng lấy hết
sức can đảm mân mê lên bàn tay của Hiền. Bất chợt tay của hai người nắm lấy
tràng chuỗi, báu vật bất ly thân của Hiền. Hùng run bắn cả người vì bàn tay chạm
phải một vật linh thiêng, báu vật mà Hiền có lần chia sẻ “đó là vũ khí sức mạnh
của người Công giáo đó”. Như có một sức mạnh vô hình trấn an Hùng, giúp Hùng
càng vững tâm hơn. Ngón tay của Hiền vẫn đếm từng hột một, miệng thì thào theo
lời kinh, trong khi đôi mắt không rời tượng Đức Mẹ. Lời kinh hòa lẫn với nước mắt.
Giây phút thụ tạo ngỏ với trời cao. Đứa con nài nỉ xin Mẹ nó bằng những lời
kinh tuy đơn sơ nhưng bằng tất cả tấm lòng chân thành.
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn mờ tối, điện thoại Hiền rung lên.
Hiền bắt máy, thì từ bên kia có tiếng nói nghẹn ngào:
- Hiền ơi, Cu Tý em con đã tỉnh lại…
Đó là giọng của mẹ Hiền. Nó như không tin vào tai của mình, ngập
ngừng từng tiếng một:
- Mẹ… nói gì… con… nghe… chưa… rõ…
- Em con đã tỉnh lại rồi con à, tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ…
Hiền như vỡ òa sự sung sướng. Tưởng như ai cất đi khỏi nó khối u
nặng trĩu trong người. Nó khóc như trẻ con, khiến cả dãy trọ tỉnh giấc. Hiền
nghẹn ngào:
- Em con tỉnh lại lúc mấy giờ hả mẹ?
- Đêm qua, khoảng 8 giờ 30 tối, lúc đó gió bão mạnh lắm, gọi cho
con mà không được.
Hiền nhớ lại đêm qua đây là khoảng thời gian Hiền và các bạn
đang lần chuỗi, cầu nguyện đặc biệt cho Cu Tý. Hiền tin là nhờ Đức Mẹ can thiệp
làm cho em nó tỉnh lại. Hiền vội chạy lại phía đầu giường cầm tràng chuỗi lên,
quỳ gối xuống, hôn lấy hôn để:
- Mẹ ơi… Con cám ơn Mẹ, nhờ Mẹ mà Chúa đã cứu em con. Đây là
phép lạ. Mẹ đã nhậm lời gia đình con.
Chợt phòng trọ bên cạnh ai đó mở bài “Lời Mẹ nhắn nhủ”: “Năm xưa trên cây sồi, làng Fa-ti-ma xa xôi,
có Đức Mẹ Chúa Trời, hiện ra uy linh sáng chói…”. Hiền nhìn lên tờ lịch
treo tường, hôm nay là ngày 13-10, ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Fa-ti-ma. Hiền
và hai người bạn cùng phòng hát theo bài hát một cách say sưa, đầy tin tưởng.
Mã số: 17-025
Độp, độp, độp…
Con bé đang trong tư thế bò trên mặt đất để cố lượm thật nhanh mấy
trái xoài chín dưới gốc cây và mắt nó đảo theo ba trái xoài vừa rụng. Chiều
nay, gió to nên xoài rụng nhiều. Nó đang rướn mình nhặt mấy trái xoài trước mặt
thì chân nó trượt lên tàu lá chuối tươi. Con bé té sấp mặt trên đất. Như một phản
xạ, nó kêu á một tiếng.
Không ngờ tiếng kêu của nó đánh thức ông Chữ. Ông la to lên: “Đứa
nhóc nào đấy, lại lượm xoài nữa hả? Có đi ngay không ông ra đập cho một gậy bây
giờ!”. Con bé vội túm lấy bọc xoài rồi chạy nhanh ra khỏi vườn chuối dù biết rằng
ông Chữ không bao giờ bắt được nó vì ông Chữ chỉ có một chân. Nó vừa đi vừa lý
luận rằng ông Chữ thật là khó tính, cái
vườn này của bà Năm, em của ông nội nó mà. Cây xoài này đương nhiên là của bà
Năm. Có lần bà Năm thấy hai chị em nó nhặt xoài thấy thương quá. Bà Năm nói dượng
Sáu trèo lên cây hái cho hai chị em nó một
thúng xoài chín. Thế là hai chị em khệ nệ khiêng thúng xoài về.
Dù phàn nàn ông Chữ nhưng con bé thấy tội ông lắm. Ông Chữ là
người duy nhất trong làng của nó không
phải là người Công giáo. Ông sống cô độc trong căn nhà mái lá vách đất.
Nó nghe nội kể hơn ba mươi năm trước, ông Chữ cũng có vợ và một đứa con nhỏ mười
tuổi, trạc tuổi nó bây giờ. Dân làng không biết nguồn gốc gia đình ông Chữ ở
đâu; chỉ biết là ông Chữ cùng vợ con sống trên một chiếc ghe nhỏ. Họ ở đâu trôi
dạt về khúc sông này. Thế rồi một đêm nọ, quân Mỹ ném bom xuống làng nó. Ghe của
gia đình ông Chữ trúng bom. Sáng hôm sau, Bà Năm thấy ông Chữ nằm dưới gốc cây
bình bát nhưng chỉ còn một chân, máu chảy ra nhiều. Ba ngày sau, người ta vớt
được xác vợ và con trai của ông ở khúc sông dưới. Lúc đó, ông Chữ kêu la thảm
thiết trong đau đớn, ông đập đầu vào tường, đấm vào ngực mình mặc cho nhiều người
can ngăn. Thế rồi, một tháng sau, ông Chữ thôi khóc, chẳng ai biết ông không
khóc nữa vì kiệt sức hay vì quá đau không thể đau hơn được nữa. Chỉ biết rằng nỗi
đau đó đã làm teo tóp tâm hồn ông. Mọi người không còn thấy ông cười nữa; thay
vào đó là tính thô lỗ, cộc cằn và dễ gắt gỏng với người khác. Xót thương cảnh đời
của ông, bà Năm cho ông trú ngụ trong vườn chuối của mình. Dưới gốc cây xoài,
người ta dựng cho ông một túp lều. Nhiều năm qua, túp lều được thay thế bằng
căn nhà mái lá vách đất.
Hơn ba mươi năm, ông Chữ sống trong nỗi đau mất vợ con. Nỗi đau ấy
quay quắt dày vò tâm hồn ông. Nhiều người khuyên ông theo Chúa nhưng ông im lặng.
Có lần sau khi nghe bà Năm khuyên giải, ông đã quát to: “ Chị có ở trong hoàn cảnh
của tôi đâu mà chị biết. Nếu Chúa của chị là Đấng yêu thương thì sao lại để cho
tôi phải đau khổ như thế này?”. Lời động viên của bà Năm không thể nào xua tan
đi nỗi đau gặm nhấm tâm hồn ông đã rất lâu khi mà bà chưa bao giờ mang nỗi đau
như ông. Mà cũng khó lắm để vực dậy lòng ông Chữ khi mà vết thương thân xác cứ
rõ mồn một. Hằng ngày, cái chân cụt cứ làm khổ sở ông về sự mất mát của thân xác
ở hiện tại và nỗi đau tinh thần trong quá khứ. Đồng thời nó cũng nhắc ông về niềm
hạnh phúc của một gia đình mà ông đã từng có. Đối với ông, dường như Thiên Chúa
không thể giải thích được tại sao cuộc đời ông lại khốn khổ như thế này; Thiên Chúa ở nơi xa vời còn ông thì
ôm nỗi đau của riêng mình.
Ông Chữ kính trọng ông nội con bé vì ông nội nó là người hiền từ
và hay thương người. Dân làng nói về ông nội nó là: “ Ông Cát hiền như đất ấy”.
Thỉnh thoảng, ông nội nó làm cho ông Chữ đôi nạng mới và ông nội nó cũng là người
vất vả nhiều lần để xin các khoản tiền trợ cấp cho ông Chữ. Trước kia, ông Chữ
cũng không thích nghe ông Cát nói về Chúa. Biết thế nên ông Cát cẩn thận và
tránh nói chuyện trực tiếp về Chúa. Nhưng sau một sự việc xảy ra, ông Chữ đã
thích nghe ông Cát nói chuyện nhiều hơn. Chuyện là một lần nọ vào ngày giỗ của
vợ con ông Chữ, ông Chữ đã uống rất say, không ai biết là ông đã uống bao nhiêu
chỉ biết là chưa bao giờ ông say khướt như thế. Ông Chữ không đi nạng nữa. Ông
lết từ quán nhậu về nhà. Khi đến nhà ông Cát, ông Chữ không thể lết nổi nữa mà
lăn ra ngủ trước sân. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên chiếc
nệm của ông Cát. Còn ông Cát thì nằm trên chiếc chiếu nhỏ trải dưới nền nhà.
Ông Chữ hỏi ông Cát: “Sao anh lại cho tôi nằm trên giường còn anh nằm dưới đất
thế kia ?”. Ông Cát trả lời: “Tối qua, tôi thấy chú say quá, tôi sợ ban đêm chú
nằm dưới đất có thể bị trúng gió nên tôi để chú nằm trên giường”.
Có lẽ cảm kích trước hành động bác ái của ông Cát nên ông Chữ
ghé chơi nhà ông Cát nhiều hơn. Ông Cát thấy ông Chữ đi lại vất vả với cặp nạng
nên ông cũng qua chơi nhà ông Chữ nhiều
hơn. Thế là những câu chuyện của họ không dừng lại ở chuyện của hai người mà của
những người quanh họ, rồi cả những người ở làng này và làng bên.
Khi biết ông Chữ đã quý mến và tin tưởng mình nhiều, ông Cát tìm
cách nhen nhúm trong lòng ông Chữ niềm tin về Chúa nhưng không đi một cách trực
tiếp mà ông bắt đầu từ nỗi sợ hãi ghê gớm
nhất của bất kỳ một con người nào trên
thế giới này. Đó là cái chết. Mỗi lần trong làng có ai qua đời, ông Cát đều kể
lại cho ông Chữ nghe một cách tỉ mỉ. Có khi là một bà cụ chết trong đau đớn với
căn bệnh ung thư. Có lúc là một chàng thanh niên đang khỏe mạnh, vui vẻ lại ra
đi một cách bất ngờ vì tai nạn giao thông hay là một đứa bé té sông chết đuối...
Và ông Chữ cũng có lúc suy nghĩ về cái
chết của chính mình. Ông ước mong đi tìm một cái chết bình an thật sự chứ không
phải là một cái chết để kết thúc mọi đau đớn đã tồn tại rất lâu trong lòng ông.
Vào buổi tối một ngày rằm, nước sông dâng lên cao và tràn vào
hai bên bờ, con nước bò vào vườn chuối. Sáng hôm sau, cả vườn chuối uể oải vươn
mình trong nắng ấm. Bà Năm nhận ra căn nhà mái lá đã ngập trong nước, bà mở cửa
bước vào thì thấy ông Chữ đang nằm co ro trong con nước trên thanh giường kê
cao hơn mặt đất một viên gạch. Bà báo tin cho ông Cát. Thế là ông Cát, bà Năm
và người con trai của bà cùng dọn dẹp và phơi nắng mọi thứ đã bị ướt.
Sau lần nước lên cao đó, sức khỏe của ông Chữ yếu dần. Ông cũng
không còn đủ sức chống nạng nữa. Một buổi tối, cả nhà con bé đang ăn cơm thì
ông nội nó đi vào với vẻ mặt hốt hoảng, rồi nói vội với ba nó:
- Ba tụi nhỏ, bàn thờ nhà mày có hai cây thánh giá, mày cho tao
cây thánh giá nhỏ đi.
- Tía cần cây thánh giá đó làm gì?
- Ông Chữ yếu lắm rồi, ổng muốn rửa tội. Cha xứ tới nhà ổng rồi
nhưng không có cây thánh giá nào. Tao muốn lấy cây thánh giá của nhà mày để cho
ổng.
- Tía để con lấy cho.
Nói rồi, ba con bé bắt ghế lấy cây thánh giá trên bàn thờ rồi cẩn
thận trao cho ông nội nó.
Bước chân ra khỏi cửa, ông nội nó còn ngoảnh lại nói với cả nhà:
- Vợ chồng bây với mấy đứa nhỏ ăn cơm xong rồi qua đọc kinh cho
ông Chữ một tí, chắc ông ấy không qua nổi đêm nay đâu.
- Dạ, cả nhà con sẽ qua. – Má nó thưa lại.
Nhìn thấy ông nội cầm cây thánh giá đi ra mà lòng con bé không
vui. Nó không muốn mất cây thánh giá nhỏ đó; cây thánh giá quen thuộc của nó.
Trước đây, khi nhà nó còn ở căn nhà mái lá vách đất giống như nhà của ông Chữ
thì cây thánh giá nhỏ được đặt ở vị trí cao trọng nhất trong nhà. Mỗi lần cúp
điện thì cây đèn dầu duy nhất của gia đình nó được đặt ở trên tủ, dưới chân cây
thánh giá nhỏ. Và khi đọc kinh tối, nó chỉ chăm chú nhìn lên cây thánh giá nhỏ
trên bàn thờ. Với lại, cây thánh giá cũng rất quen thuộc với nó từ khi nó mới
hơn một tuổi, bi bô tập nói thì ba má nó thường chỉ lên cây thánh giá và nói với nó: “ Bé ơi! Ạ Chúa đi con”.
Thế là con bé cúi đầu thật sâu và nói: “ Con ạ Chúa”. Nhưng con bé lại nghĩ chắc
là ông Chữ cần cây thánh giá để có Chúa ở với ông Chữ nên nó không còn buồn nữa.
Tối nay, vườn chuối yên lặng lạ thường, các tàu lá chuối không
còn xào xạc vào nhau nữa, cũng chẳng có ai nghe thấy tiếng ếch nhái kêu như mọi
khi, chỉ có râm ran tiếng kinh nguyện của hơn mười người trong ngôi nhà nhỏ tồi
tàn giữa vườn.
Tay nó nằm gọn trong bàn tay má nó. Con bé nhìn xuyên qua đám
đông, nó thấy gương mặt hốc hác, đôi môi tái nhợt và đôi mắt lờ lệch với hai
dòng nước mắt đang chảy xuống gò má xanh xao của ông Chữ. Chỉ mới bệnh nằm liệt
một tuần mà ông Chữ tiều tụy quá, không còn một chút sinh lực nào. Lời kinh
nguyện vẫn đều đều. Nó cũng thấy ông nội nó ngồi bên ông Chữ, chốc chốc lại đưa
cây thánh giá của nhà nó lên môi ông Chữ để cho ông hôn. Hình ảnh ấy cứ đọng lại
trong tâm trí con bé mãi đến sau này.
Mười giờ đêm hôm đó, tiếng chuông nhà thờ báo hiệu ông Chữ qua đời.
Ông Toản đánh chuông cũng không ngờ có ngày tiếng chuông ấy được cất lên để
dành cho ông Chữ. Đám tang không có một chiếc khăn tang cũng chẳng có nước mắt.
Chỉ có sự tiếc thương sâu xa trong lòng ông Cát, bà Năm và vài chục người dân
làng ở gần đó đã quen với sự hiện diện của ông Chữ trong cuộc sống hằng ngày của
họ. Cha già chánh xứ dâng thánh lễ an táng cho ông Chữ. Gương mặt cha sáng ngời
niềm hạnh phúc, cha nói: “Thiên Chúa luôn tỏ lòng nhân hậu thương xót tất cả
chúng ta, Chúa đã cho ông Chữ được hưởng hạnh phúc thật sau khi ông đã chịu nỗi
đau hơn ba mươi năm chôn sâu trong lòng. Người đã đi tìm ông từ rất lâu và Người
đi vào trong ngõ ngách, díc dắc của nỗi đau ấy và vác lấy ông trên đôi vai của
Người”.
Kết thúc thánh lễ, người ta đưa quan tài ông ra đất Thánh; nhà
thờ thì cách xa đất Thánh. Trời về đông hơi se lạnh, đoàn người theo quan tài
đi từ lúc nhá nhem tối cho tới khi những ánh bình minh ấm áp bắt đầu cho một
ngày mới xuất hiện. Cuộc đời ông Chữ cũng đã đi từ đêm tối cho tới khi ông đón
nhận ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa trên ông.
Vườn chuối yên tĩnh, ngôi nhà mái lá vách đất im lìm như chủ
nhân của nó đã bất động dưới mộ phần. Chiều nay, bà Năm gọi hai chị em con bé
qua hái xoài, chị nó trèo cây giỏi như một con sóc và hái xoài vứt xuống đất
cho đứa em nhặt.
Con bé chợt nhớ ông Chữ rồi hỏi chị:
- Chị Hai ơi! Ông Chữ bây
giờ ở trên thiên đàng rồi hả chị?
- Ừ.
- Có phải vì ông Chữ đã hôn cây thánh giá không?
- Ừ, chị nghĩ là như thế.
- Vậy ông Chữ có mấy chân, một hay hai?
- Chị nghe ông nội nói ông Chữ là thiên thần rồi thì chắc chắn
ông Chữ có hai chân.
Nhiều năm sau, câu chuyện về cuộc đời ông Chữ vẫn còn in trong
tâm trí con bé. Khi kể chuyện cho mấy đứa nhỏ khác nghe, bao giờ nó cũng kết
thúc bằng câu: “Ông Chữ bây giờ là thiên thần hai chân rồi!”.
Mã số: 17-026
Gần hai giờ sáng, màn
sương đêm phủ đầy khu phố ngoại ô. Ánh sáng nhờ nhợ của vài ngọn đèn đường lẻ loi
chỉ đủ khiến cây thánh giá trên tháp chuông nhà thờ hiện lên lờ mờ, tôi tối. Những
con người quanh năm đầu tắt mặt tối đang vùi mình vào giấc ngủ trong những căn
nhà cũ kĩ. Đêm nay, nhà thờ có vị khách lạ, ả ngồi tựa lưng vào chiếc cổng sắt
cũ rỉ ngay cổng chính. Ả đã ngồi đó từ lâu lắm rồi, thấp thỏm, lo âu, sợ hãi… Ả
đang mong ngóng điều gì đó...
Tiếng xe máy gầm lên, xé
tan cái u tịch của khu phố. Một đoàn xe Win đủ loại rồ ga, phóng vèo rồi tấp
vào ngay cổng nhà thờ. Tắt máy! – Cứu tôi… - tiếng la thất thanh của người
khách lạ ré lên, cụt ngủn, tắt lịm sau mấy tiếng “Á…áaaa” nghe kinh rợn. Đám
người lạ mặt chẳng nói chẳng rằng, chỉ thấy lóe lên ánh kim loại sáng chóe vung
quật xuống liên hồi. Im bặt! Một thằng đứng chống nạnh, hất hàm: “Dám phản bội,
dám bỏ trốn à?!”. Tiếng xe máy lại rú lên, lướt vèo vào màn đêm, bặt tích. Tiếng
chó sủa đanh lên, liên hồi. Từ phía nhà thờ có ánh đèn, vị linh mục già, gầy guộc
lật đật tiến ra. Hiện lên trong ánh đèn pin lòe lòe của vị linh mục, một người
con gái nằm bất động trên vũng máu tươi, tanh ngòm…
Mụ Tú Béo bỗng chốc trở nên đắt hàng. Đám đại gia, dân chơi tới
tấp liên hệ để xin được tiếp cận với đứa “con gái” mới của mụ. Chẳng biết mụ kiếm
đâu được một món hàng “ngon” đến thế: Hồng Tâm. Hồng Tâm cao, dáng thon thả,
làn da hồng trắng nõn nà, trinh khiết… Thật là không tì vết! Khuôn mặt trái
xoan với hai lúm đồng tiền cân đối. Lấp ló sau bờ môi mỏng, đều đặn, lúc nào
cũng hồng hồng, căng mọng, mời gọi kia là hàm răng trắng đều, cuốn hút, rất
duyên! Hai gò má hơi cao phơn phớt hồng ôm lấy cái sống mũi chẳng cần quá cao
nhưng cũng đủ cho người ta không muốn rời mắt. Huyền ảo sau hai hàng mi dầy
cong là cặp mắt đen láy, to, tròn, lấp láy như màn sương mỏng ươn ướt, bí ấn và
lôi cuốn đến mê hồn… Mái tóc cuốn đuôi gà dầy, mượt thả vừa hết bờ vai thon.
Cái dáng thướt tha, cái thân hình đầy đặn vừa đủ, lại thêm cái giọng Bắc dịu, ấm
áp được phát ra từ cái miệng duyên duyên, xinh xinh mấp máy khiến ai cũng phải
sững người, xuýt xoa, nuốt nước bọt… Sự ngây thơ, trong trắng, hồn nhiên của một
thiếu nữ nhà quê, chân phương, mới ngày nào, giờ đã bị người ta giật mất. Đôi mắt
em đượm buồn, chất chứa u sầu, cay đắng, tủi hờn… Nhưng nào ai thèm quan tâm!
Người ta tìm đến em, quấn lấy em, bóp nghẹt em… Chúng chỉ muốn chiếm đoạt em,
cướp lấy, giật lấy từ em những gì làm thỏa mãn cơn khát khoái cảm của chúng,
nào đâu biết thế nào là tình yêu, thế nào là hạnh phúc! Em như món hàng ngon,
ăn một lần, thèm, ăn thêm lần nữa… Thế thôi!
Một chiều nọ đi khách, chiếc taxi, chở một tay vệ sỹ đang ngồi
sát bên em, dừng lại trước cột đèn đỏ sát ngay bên ngôi nhà thờ cũ cũ. Em vẫn vậy,
tấm thân bất động, không cảm xúc, tâm hồn bay bay vào miền cay đắng. Chợt thấy
hạt mưa bay, em thấy nhớ mùa thu quê mình. Em nhẹ đưa tay ấn nút hạ tấm kính cửa
xe, làn gió nhẹ lùa vào bất chợt, em nhắm mắt, cảm nhận cái tê tê, lành lạnh
trên khuôn mặt. Tiếng nhạc du dương đâu đó tràn vào theo làn gió: …Năm xưa trên
cây sồi, làng Fatima xa xôi…. Em giật mình! Ngước mắt lần theo tiếng hát, em bắt
gặp ngay bức tượng Đức Mẹ đang dang rộng đôi tay về phía em, trên đó là tràng
chuỗi Mân côi đang đung đưa theo làn gió… Chiếc xe khẽ chuyển bánh. Em có biết
đâu: tháng Mân côi vừa chớm! Bất giác, em rùng mình, vội vã quay mặt đi, mắt nhắm
nghiền. Tiếng hát như cố với theo em, cố len lỏi vào tận sâu đáy tâm hồn tưởng
như đã khô cằn, đã băng giá từ lâu, chạm tới vùng kí ức tưởng như đã chết ngộp
bấy lâu… Nước mắt em chợt ứa…!
- Con có thuộc bài hát Đạo nào không vậy? – Cha già nhìn con bé
trìu mến.
Con bé nãy giờ vẫn khép nép bên bà mẹ hiền hậu, hai tay khoanh
tròn trước ngực ngoan ngoãn, nghe thấy cha hỏi về bài hát với ánh mắt thương
thương, nó tươi hẳn lên. Tiến lên một bước như để thoát khỏi sự gò bó của mẹ
nó:
- Dạ thưa cha, con chỉ thuộc mỗi bài “Năm xưa trên cây sồi” thôi
ạ!
Mẹ nó phì cười vì sự hồn nhiên của nó. Cha già thích thú, nhoẻn
miệng cười, cúi người, nghiêng tai sát về phía con bé:
- Thế con hát cho cha
nghe thử xem thế nào, nhé!
Con bé khẽ ngước mắt nhìn lên mẹ nó, chỉ chờ mỗi cái gật đầu kèm
nụ cười khích lệ, nó liền hít thật sâu, lấy hơi rồi cất lên tiếng hát: Năm xưa
trên cây sồi…. Giọng hát trong veo, lanh lảnh, ngây ngô, hồn nhiên của con bé
khiến vị linh mục già cứ đong đưa cái đầu, đôi mắt nhắm hờ, tâm hồn tưởng như đến
được một cõi nguyên khôi… Con bé hát xong, cha già vỗ tay liên hồi, khen tấm tắc,
khiến con bé sung sướng cười típ mắt, chạy lại ôm chân mẹ, hạnh phúc. Cha già
hí hửng chạy vào phòng, lấy ra một quả chuối tiêu to vừa chín tới đưa cho con
bé.
- Thế con có biết câu chuyện về bài hát vừa rồi không?
- Dạ…không, thưa cha cố! – Con bé ngập ngừng, lại ngước mắt nhìn
mẹ nó, cầu cứu.
- Đây nhé! Cha kể cho con nghe: ngày trước, tại làng có tên là
Fatima,…
- Tới rồi, xuống đi. – Giọng gã vệ sỹ thô cằn chặn đứng giòng ký
ức đang tuôn chảy trong tâm trí em: cái khung cảnh của ngày đầu tiên em được mẹ
dẫn đến gặp cha xứ để xin được đi tu, vèo tan biến! Vội gạt nước mắt, bước xuống
xe, ngước mắt nhìn lên khách sạn xa hoa, cao vút… Bước chân em ngập ngừng… Trút
một hơi thở dài: “Có dừng lại được đâu”, rồi em lại đè tiếp những bước chân lên
các bậc cấp…
Tin bà Ân bị tai nạn thoáng cái đã truyền ra khắp xóm đạo nghèo
khổ. Kẻ nào nghe tin cũng buột miệng “Giêsu Maria” xót xa, sửng sốt. Năm mươi
triệu, nộp gấp để phẫu thuật! Bệnh viện người ta bảo thế. Bây giờ biết làm sao?
Chồng mất, mình bà tần tảo nuôi bốn đứa con gần chục năm nay. Ở cái xứ quê quạnh
này, cả gia tài bán đi cũng chẳng được mấy đồng, nói chi tới số tiền lớn như thế.
Cả họ nhà bà Ân họp lại, gom góp, cũng chẳng góp đủ tiền để đi nộp gấp. Nhìn cảnh
con bé Hồng Tâm, đứa con gái lớn đẹp người tốt nết của bà Ân, cứ nép ở góc nhà,
khóc nức nở quanh ba đứa em mếu máo: “Cháu xin các bác, các bá, mọi người hãy cứu
lấy mẹ cháu….hức..hư.ư.ứư..c…” ai cũng xót, ai cũng thấy đau thắt lòng, ứa nước
mắt mà nào biết làm sao. Xót lại thêm xót, đau càng thêm đau! Cha xứ gom góp
cũng chỉ được hai mươi triệu, số tiền cha để dành chuẩn bị xây ngôi nhà nguyện
cho một họ lẻ. Không đủ! Bà Ân chắc chết!
Hồng Tâm quỳ rụi trước tượng Đức Mẹ cuối nhà thờ, tay cầm chuỗi
hạt Mân côi mà không sao nén được lòng, nước mắt cứ tuốn ra, tiếng nấc cứ nghẹn
lên, chua xót. Vừa học hết mười hai, ở cái tuổi trăng tròn vừa tới, em như một
thiên thần chuẩn bị tung cánh bay vào đời. Ôm ấp ước mơ được tận hiến trót cuộc
đời cho Chúa, theo tiếng gọi của Đấng em rất mực yêu mến, em đã chờ đợi biết
bao lâu để tới ngày thực hiện ước mơ. Em đã từ chối biết bao nhiêu lời tán tỉnh,
mời gọi, và còn can đảm và mạnh mẽ quay mặt với những tấm chân tình đầy hứa hẹn
tương lai dành cho em. Em đã lo liệu, sắp xếp mọi thứ, căn dặn từng đứa em để sẵn
sàng lên đường về Nhà Dòng ghi danh. Cha xứ đã chuẩn bị hết giấy tờ cho em để
tuần tới sẽ đưa em về Nhà Dòng Mến Thánh Giá nhập tu. Những tưởng ngày em được
hạnh phúc khoác lên mình tấm áo dòng thanh khiết đã không xa, vậy mà… Giờ thì
sao đây?!
Người đàn bà tốt bụng cầm đôi tay run run của em, khẽ kéo em vào
một căn phòng xa hoa, sáng bóng. Em đặt những bước chân ngập ngừng, sờ sợ, e dè
vào căn phòng thoang thoảng mùi nước hoa thơm dịu. Mọi thứ cứ long lanh, lấp
lánh, ngỡ tựa thiên đường. Vị đại ân nhân của em cứ đon đả dịu ngọt vỗ về, trấn
an em. Rót một ly nước, bà đưa cho em rõ ân cần:
- Em uống ngụm nước đi, rồi
nghỉ một giấc, mọi việc chị sẽ lo cho em hết. Mai chị sẽ đưa em đi làm luôn em ạ!
Hít một hơi thở sâu, em nhấp một ngụm nước, mát lẹm, ngon lành…
Mắt em lờ mờ, thân em bừng nóng, chân tay bủn rủn… Nằm bẹp trên chiếc giường trắng
muốt, đôi mắt em lim dim. Em cố hình dung căn nhà người Tây, mà ngày mai em sẽ
được người đàn bà ân nhân kia dẫn tới để giúp việc… Cánh cửa phòng khẽ mở, người
đàn ông cao to, ăn mặc lịch lãm bước vào. Người đàn bà hí hửng nói nói cười cười,
rồi đi ra. Cánh cửa khép lại, trong cái lờ mờ của đôi mắt mê mê tỉnh tỉnh, em
thấy người đàn ông lạ, miệng cười nham nhở thèm khát, lao vào em…
Bà Ân được cứu. Cả xóm đạo lại hớn hở chia vui.
- Đấy! Đúng là mẹ con bà Ân sống tốt nên trời thương các bà nhỉ?!
- Vâng, đúng là số cái con bé Tâm ấy sướng thật! Tự dưng có người
bỏ cả một đống tiền ra giúp đỡ…
- Nghe đâu chỉ đi giúp việc cho nhà một ông Tây nào đó vài năm
là trả hết nợ, lúc ấy về đi tu vẫn kịp!
- Mà nghĩ thấy lạ các bà ạ, trên đời có nhiều người tốt thật đấy!
Tiếng mấy bà hội Mân côi bàn tán ồn cả một góc sân nhà xứ. Những
câu nói cứ râm ran lướt qua vầng trán đang nhăn lại của cha xứ: có điều gì
không ổn!
Uể oải lết đôi chân chán chường về phòng, em ném cái thân xác dường
như chỉ còn nửa hồn xuống giường. Căn phòng của em nằm sâu trong con hẻm, luôn
luôn tăm tối, u ám và được canh phòng bởi hai tay xã hội đen lạnh ngắt. Em chợt
nhận ra hôm nay phòng em lại có thêm người. Cũng chẳng lạ gì! Hai cô bé chắc là
từ xa mới được đem tới đây đang nằm ngủ ngon lành. Có lẽ hai đứa vừa trải qua một
chuyến đi dài. Thế là lại có thêm hai số phận khốn nạn! Em định nhắm mắt ngủ,
thì câu hát lại chập chờn hiện về: “…hãy mau ăn năn đền bồi…” Em vùng vằng lật
mình, như cố để xua tan cái lời ca đang cứa vào tâm hồn em đó. Bao nhiêu sự khốn
nạn của cuộc đời em lại hiện lên. Em nghĩ tới bao nhiêu kẻ em đã phải gặp, đủ hạng!
Em lại càng thấy cay nghiệt hơn cho số kiếp của mình. Những kẻ bề ngoài vẫn tỏ
ra gương mẫu, dạy đời bằng các bài diễn văn, luật lệ,…; những kẻ có vẻ thành đạt,
giàu có, bằng cấp đủ loại,…thì trước mặt em, chúng hiện lên nguyên hình! Nước mắt
em lại ứa ra, cay đắng! Những kẻ đã vứt phăng lương tâm kia đã khiến em thành một
con đĩ như lúc này đây. Một kiếp sống ư? Không, là chuỗi ngày đau đớn đè lên những
ngày tủi nhục! “Bỏ trốn!” – ý nghĩ vừa chợt lóe lên trong em, thì hình ảnh căn
phòng tối om, đầy ruồi nhặng, hôi thối, ẩm thấp, ướt nhẹp choám lấy tâm trí em.
Nỗi kinh hoàng của cái hình phạt bị giam, bỏ đói, bỏ khát, bị kích điện,..vì một
lần em chạy trốn một tên khách bệnh hoạn kia khiến em rùng mình, mồ hôi toát ra
đầy vầng trán. Cái chết! Điều em nghĩ tới đầu tiên khi phát hiện sự trinh trắng
của mình đã bị cướp mất, nhưng, mẹ già, luật Chúa, em không dám làm gì. Em bất
lực rồi, chỉ còn biết ngậm ngùi buông xuôi!
Em thiếp ngủ, vô tình hình ảnh người cha già năm xưa lại hiện
lên rõ nét trong giấc mơ của em.
- Thứ nhất, Đức Mẹ dạy các bạn trẻ ấy phải nói với toàn thế giới
này là hãy biết ăn năn tội lỗi, quay về với Chúa, với Mẹ. Đừng tiếp tục làm những
điều tội lỗi, xấu xa nữa. Mẹ buồn lắm! Thứ hai,….
Em giật nảy mình, bật choàng dậy, mồ hôi toàn thân vã ra. Cảm
giác hãi hùng chụp lấy em. Hình ảnh chuỗi hạt trên tay Đức Mẹ đong đưa và lời
cha già cứ quấn lấy tâm trí em, không rời… Ước mơ của em năm xưa, những kỉ niệm
của em dưới chân Đức Mẹ, hình ảnh người mẹ già tần tảo và ba đứa em ngây thơ lại
hiện về. Em đã cố gắng để gạt đi những ý nghĩ đó, nhưng, những hình ảnh ở một
cõi mơ màng cứ hiện lên rõ nét. Nơi đó, một người nữ tu hiền từ, thánh thiện, vận
bộ áo dòng đen, chiếc lúp trên đầu đang nhẹ bay theo làn gió. Nàng đang chăm
sóc những đứa trẻ tật nguyền với khuôn mặt thật tươi, nụ cười hiền dịu, ánh mắt
đầy yêu thương… Em thấy rất rõ, rất rõ: đó là em! Hình ảnh đó, ước mơ đó em đã
ôm ấp bao tháng ngày. Tưởng những ngày cơ cực của em đã vùi lấp chúng đi từ
lâu, vậy mà giờ đây, chúng đang tràn về trong em một cách không thể kiểm soát,
rất thật! Tưởng chừng như em chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm tới tà áo dòng
kia. Khóe mắt em cay cay… Tâm hồn em thổn thức! Lòng em như nghẹn ngào, da diết.
Em thấy tim mình đau thắt từng cơn. Em nấc nghẹn: “Mẹ ơi! Nguyện ước của con! Lời
khấn hứa của con…!” Giọt nước mắt em trào tuôn, tràn qua đôi gò má nóng hổi…
- Ba mẹ ơi, ba mẹ ơiii…-
tiếng nói mớ của cô bé mới tới nằm bên cạnh lại khiến em giật thót. Chợt nhận
ra sự khốn nạn của thân em lúc này, chúng khác xa trong ước mơ của em! Em càng
thấy đau đớn, cay đắng cho phận mình. Giòng lệ tiếp tục tuốn ra, em ôm mặt, nức
nở… “Chẳng lẽ mình cứ như vậy mãi ư? Chẳng lẽ mình cứ đứng nhìn người ta phá
nát cuộc đời của hai cô bé đáng thương này ư? Chẳng lẽ cái kiếp cơ cực, cay đắng
này lại phủ xuống trên đầu tụi nó? Chẳng lẽ mình có thể tiếp tục thờ ơ trước lời
mời gọi da diết của Mẹ được ư? Chẳng lẽ mình lại cứ tiếp tục dấn bước trong cái
kiếp tội lỗi này ư? Chẳng lẽ, chẳng lẽ…”
Cầm trên tay số tiền mà người chị mới quen vừa đưa, hai cô bé
nhà quê rưng rưng nước mắt. Vội vã bước lên chiếc xe đò gấp gáp…đi khuất! Người
con gái còn đứng ngoái theo, tay chắp
nguyện cầu cho chuyến đi được bình an. Thở phào nhẹ nhàng, tâm hồn cô thấy
bình an và niềm hạnh phúc chứa chan hơn bao giờ hết, dù cô vừa mất đi số tiền
tích cóp bấy nhiêu năm nay cơ cực, số tiền lấy từ máu và nhân phẩm của cô! Cô
không còn nhiều thời gian nữa để biến khỏi mảnh đất này, cô đang hình dung về một
miền quê nơi xa kia đang vẫy tay chào đón, một cuộc sống thanh bình, và hình
như, lấp ló đâu đó một cánh cổng Nhà Dòng... Chợt rùng mình khi nghĩ tới những
nguy hiểm trước mắt cô. Cô muốn tới lấy lại cỗ tràng hạt mà cô đã treo lên tay
Đức Mẹ vào cái ngày cô đau khổ khi phát hiện mình đã đánh mất tất cả. Ngày đó
em đã trách hờn và oán hận Mẹ rất nhiều, hôm nay, em sẽ khác, từ nay, em sẽ là
đứa con thảo hiền của Mẹ… Lời dạy thứ nhất của Mẹ, em đã làm được, chẳng biết
có là quá muộn?!
Em bước lên chiếc taxi, nhắm thẳng hướng ngoại ô. Bầu trời vừa tối!
Vị linh mục già hối hả đặt những bước chân run run lên bậc cấp của
bệnh viện. Cô y tá vừa dẫn đường, vừa thao thao:
- Con nhỏ đã tạm qua được cơn nguy kịch, nhưng còn phải phẫu thuật
não gấp. 99% là sẽ không qua khỏi, nhưng chúng con vẫn sẽ cố hết sức. Có thể
đây sẽ là lần cuối cha được nói chuyện với con nhỏ. Tội nghiệp! Suốt cơn hôn
mê, miệng cứ rên miết “Mẹ Maria ơi, Mẹ Maria ơi…”
Bệnh nhân nằm dài trên giường, toàn thân thấy đâu đâu cũng là những
vết băng bó. Mái tóc dài bết máu đêm hôm trước giờ chỉ còn thấy một vệt khâu
dài, chằng chịt. Khuôn mặt em vẫn hiền hậu nhưng làn da trắng bệch, nham nhở những
vết rỗ, tàn tích của việc sử dụng phấn trang điểm triền miên. Bờ môi khô nứt nẻ
vì thiếu son, nhẹ mấp máy. Đôi mắt hốc hác, nhưng rõ ràng đang lóe lên một niềm
hạnh phúc khó tả. Cha già lúng túng vì gặp phải ánh nhìn đó.
- Thưa cha, con xin xưng tội…- giọng em cứ thế thều thào buông…
Những giọt nước mắt còn sót lại trong em lại ngoi lên, trào ra qua đôi mắt thi
thoảng lại nhắm nghiền thật chặt, cay đắng…
- Con còn nhớ bài hát Đạo nào không?
Em ngạc nhiên đến ngỡ ngàng vì câu hỏi của vị linh mục. Chợt nở
nụ cười, em nói trong tiếng nấc nghẹn ngào của niềm hạnh phúc bất chợt trào
tuôn: - Dạ, con thuộc bài “Năm xưưa.. trên cây sồi”!
Tiễn em ở cửa phòng phẫu thuật, cha già nhẹ đặt cỗ tràng hạt đã
mòn và sẩm màu vào lòng bàn tay đang băng bó, chỉ còn hở mấy đầu ngón tay khẽ
nhúc nhích của em: - Con hãy vững tin, Đức Mẹ sẽ giúp con… Cha tin là Đức Mẹ sẽ
cho con cơ hội để con thực hiện hai lời khuyên còn lại của Mẹ như lời con vừa
hát! Và ước mơ tận hiến của con, cha tin Chúa sẽ chúc lành… - ngập ngừng, cha
nhìn sâu vào đôi mắt em:
- Con có sẵn sàng tha thứ cho những người đã làm hại con không?
Em lặng người, cố gắng hít một hơi thở thật sâu, nhắm chặt đôi mắt…
Cặp mắt em vẫn nhắm nghiền cho tới khi hai dòng nước mắt rỉ ra khóe mi, em mở mắt,
nhấp nháy, đôi môi em run run, nghẹn ngào:
- Con xin tha thứ cho tất cả những người đó, thưa cha!
Vị linh mục bỗng lúng túng khi mấy giọt nước mắt lạc loài chợt ứa
ra từ đôi mắt đã nhăn nheo của mình. Ngài vội quay đi, đưa tay lên quệt ngang giọt
lệ. Đôi mắt cay cay chớp liên hồi, nhưng tâm hồn ngài thấy ngập tràn một niềm
vui.
Em khẽ nở nụ cười hạnh phúc, ánh mắt lóe lên niềm tin yêu vô bờ…
Em như thấy Đức Mẹ đang mỉm cười nhìn em. Lòng em thấy êm dịu, bình yên vô
cùng. Quả thật, em thấy “lòng trút khỏi ngậm ngùi, mắt khô đôi suối lệ đời…”, từ
nay, em sẽ quên đi tất cả để được “sống trong tình Mẹ yên vui”! Những lời ca dịu
dàng lại âm vang trong lòng em “…hãy mau ăn năn đền bồi, hãy tôn sùng Mẫu Tâm,
hãy năng lần hạt Mân côi…” Và em chợt nhận ra rằng vẫn luôn còn đó những lời ca
thiêng mãi vọng…
(Kính tặng Nữ tu Maria ĐHT)
Mã số: 17-027
Trúc Mai được sinh ra và lớn lên trong gia đình gia giáo và đạo đức.
Chúa ban em cho khuôn mặt khá xinh xắn, giọng hát trong trẻo và tính nết hiền dịu
dễ thương. Cả đại gia đình hai bên nội ngoại của em đều là những thành viên nhiệt
tình trong các hội đoàn của giáo xứ. Em được thừa hưởng những gương hy sinh phục
vụ đó, nên rất năng động và hăng say.
Em cũng được Chúa cho trí thông minh sắc sảo, luôn được điểm cao
các môn đạo đời. Sau khi Bao Đồng xong là em tham gia vào nhóm giáo lý viên của
giáo xứ. Trong các cuộc thi Kinh Thánh và Giáo lý của khối này, em thường đứng
nhất, vượt qua các anh chị giáo lý viên lớn.
Bố mẹ của Trúc Linh rất tự hào về em. Với lại em có ước muốn sau
này đi tu để phụng sự Chúa và phục vụ người nghèo nên càng được họ hàng và bạn
bè quý mến. Em có lòng kính mến Đức Mẹ cách đặc biệt. Từ khi học mẫu giáo đã
tham gia đội múa dâng hoa. Chiều thứ bảy nào em cũng đi lần chuỗi ở ngoài đài.
Em nhờ bố giúp trồng một vườn hồng đủ màu để hái dâng Đức Mẹ. Đến khi làm giáo
lý viên, em hay mua chuỗi tặng cho các em và nhắc các em nhỏ năng lần hạt kính
Đức Mẹ.
Càng lớn lên, cô bé Trúc Mai càng xinh hơn với dáng người thanh
mảnh, suối tóc đen tuyền, nước da trắng mịn và nụ cười rất duyên nhờ chiếc răng
khểnh. Dẫu vậy, em vẫn hồn nhiên, vô tư trước bao ánh nhìn si mê cùng những lời
làm quen ngọt ngào của cánh mày râu. Mỗi chiều thứ bảy, em thước tha trong bộ
áo dài, mang đến nhà thờ giọng hát ngọt ngào để ca tụng Chúa.
Nhưng thời gian gần đây, cô Trúc Linh thấy con gái có cái gì
khác thường. Sau khi nhập học được mấy ngày là Trúc Mai bắt đầu tỏ dấu buồn bã,
ít cười ít nói và khuôn mặt lúc nào cũng trầm ngâm, ưu tư. Cô nghĩ: có lẽ
chương trình của lớp mười một bắt đầu nặng hơn làm em mệt mỏi. Cô đã hỏi mấy lần,
nhưng em đều trả lời: “Con không sao”, làm cô càng lo lắng hơn.
Hôm đó, Trúc Mai đi học về trông thẩn thờ, phờ phạc như người mất
hồn. Lúc nãy ngoài phố, em suýt bị tai nạn mấy lần vì không để ý dừng lại khi
đèn đỏ và không nghe các xe khác tít còi. Về đến nhà, con chó cưng của em chạy
ra mừng xoắn xít mà chẳng được cô chủ quan tâm. Em thấy mẹ đang có khách nên bước
vào chào:
- Con chào mẹ con đi học mới về.
Thấy cha Minh, Trúc Mai ngạc nhiên kêu lên:
- Cậu!
Ánh mắt em như có điều muốn nói với cậu. Nhưng em lưỡng lự rồi
quay bước đi nhanh lên lầu, đóng sầm cửa lại, buông người xuống giường mà đầu
óc rối tung. Thấy cậu, Trúc Mai mừng lắm, vì chỉ mình cậu là người giúp em giải
gỡ được chuyện này. Tuy nhiên, em không biết phải bắt đầu từ đâu với quá nhiều
vấn đề.
Trước thái độ của cô cháu gái, Cha Minh đoán là nó đang gặp chuyện
rắc rối. Cô Trúc Linh nhìn theo con gái thở dài:
- Không biết sao con Linh lúc này nó hay như vậy lắm cậu ạ. Chị
biết cháu có gì bất ổn, nhưng hỏi thì nó không chịu nói.
- Chị thấy lúc rày nó có bạn bè gì nhiều hay có thường đi chơi với
ai không?
- Không cậu ạ. Từ lúc nhập học đến giờ, càng ngày chị càng thấy
cháu ít nói cười như trước. Đi học hay đi sinh hoạt ở nhà xứ về là cứ rút vào
phòng. Hôm rồi chị đi họp phụ huynh, cô giáo chủ nhiệm có gặp riêng chị và hỏi về cháu. Cô nói: trong lớp cô cũng thấy
cháu có biểu hiện khác thường, cứ buồn buồn sao ấy .
- Để chút nữa em gặp cháu xem sao.
- Nó hay hỏi thăm khi nào cậu về. Mà có điều lạ là gần đây chị
thấy cháu có đeo tràng chuỗi Mân Côi ở cổ và ở tay. Đôi khi chị thấy nó ngồi
lâm râm lần chuỗi một mình.
Đến giờ cơm, Trúc Mai chỉ
ăn qua loa, nói cười gượng gạo. Em xin phép đi trước và nói với cha Minh:
- Chút nữa cháu xin gặp cậu
trên lầu ạ.
Cha Minh thấy cô cháu gái
buồn thiu mà nghe xót trong lòng. Từ khi chị Trúc Linh theo chồng về thị xã
này, thì Minh cũng theo lên ở nhờ nhà anh chị để đi học cho gần. Là em út trong
gia đình năm anh em, nên Minh được chị hai thương nhiều. Khi chị sinh Trúc Mai
thì đến lượt cậu cưng lại cháu. Đi học về là cậu chỉ lo trông cháu và chơi với
cháu, ít khi đi chơi với bạn bè. Cậu còn rất khéo tay, mái tóc dài của cháu gái
từ khi đi mẫu giáo là do cậu kết cho, mỗi ngày một kiểu. Những chiều đi lễ là
hai cậu cháu ngồi chung với nhau, ít khi bé Trúc Mai chịu theo mẹ. Cho nên Trúc
Mai rất quý mến và quấn quýt cậu, hễ có chuyện gì là kể hết cho cậu nghe. Đến
khi cậu đi tu, em nhớ cậu khóc suốt cả tuần.
Cha Minh bước lên lầu đã thấy Trúc Mai đang chờ ở ghế salon. Em
ngồi tựa đầu vào ghế, mắt nhắm nghiền mệt mỏi. Cha nhẹ nhàng ngồi xuống bên
cháu và sờ trán hỏi:
- Con không được khỏe à?
Trúc Mai chỉ chờ có thế là ôm cánh tay cậu và gục đầu vào vai cậu
khóc nức nở. Khóc tức tưởi. Khóc như chưa từng được khóc. Cha Minh chờ cho cháu
qua cơn xúc động mới vuốt tóc cháu hỏi:
- Con có chuyện gì nói cậu nghe xem nào!
Một lúc sau Trúc Mai mới nghẹn ngào:
- Mấy tháng nay con có chuyện quan trọng muốn nói với cậu mà cậu
không về. Con gọi cho cậu mãi chẳng được, máy toàn báo là ngoài vùng phủ sóng.
Cha Minh liền dỗ dành:
- Ừ…Ừ…! Cho cậu xin lỗi con. Tại từ sau tết đến giờ cậu đi truyền
giáo trên cao nguyên nên rất khó liên lạc. Thỉnh thoảng cậu có xuống cộng đoàn
dưới thị xã, nhưng vì công việc bận rộn quá nên cậu ít gọi về. Nào, bây giờ cậu
về rồi, có chuyện gì nói cậu nghe xem nào?
- Hôm nay mà cậu không về chắc con điên mất, đầu con sắp nổ tung
đây này. Có lẽ Đức Mẹ biết con sắp chịu hết nổi nên mang cậu về cho con.
- Nhưng mà chuyện gì mới được chứ?
- Cậu phải hứa là giúp con giải quyết xong cậu mới được đi đó.
- Khổ quá! Được rồi, cậu hứa.
Trúc Mai cười thật tươi mà trên mặt còn vương đầy nước mắt. Em lấy
khăn giấy lau vội khuôn mặt, ngồi lại ngay ngắn và bắt đầu kể:
- Đầu năm học này, có một bạn mới từ xa chuyển về học chung với
con, tên cũng giống con nhưng khác họ, lại ngồi chung bàn với con. Bạn ấy là
cháu ruột của mục sư ở nhà thờ Tin Lành gần trường con. Sau hai tuần nhập học
là bạn ấy rủ được một số bạn trong lớp đi nhà thờ với bạn ấy. Kể cả các bạn
chơi thân với con mấy năm nay, giờ cũng theo bạn ấy. Không, phải nói đúng hơn
là chúng nó “mê” bạn ấy. Chúng nó đi nhà thờ đó về là khen ngợi đạo Tin Lành hết
lời. Bây giờ mỗi đứa đều mang Kinh Thánh theo trong cặp, cứ ra chơi là chúng
đưa ra học và trao đổi với nhau.
- Vậy là con buồn?
- Ứ! Cậu…con không thèm buồn vì chuyện đó đâu, bởi mỗi người có
tự do của họ mà.
- Vậy chứ lý do gì, con nói cậu nghe xem nào?
- Con buồn vì bạn ấy vào lớp là xuyên tạc đạo Công Giáo, chê bai
và nói sai về đạo mình mà con không biết cách nói lại.
- Cậu thấy con học Kinh Thánh và Giáo Lý giỏi lắm mà?
- Nhưng con chỉ biết chung chung thôi. Với lại bạn ấy trích dẫn
Kinh Thánh rõ ràng và rất có lý nên dễ thuyết phục người khác, kể cả cô giáo
môn văn cũng thích ngồi nghe.
- Sao con không nhờ cha xứ giúp?
Trúc Mai rụt vai kêu:
- Eo ôi! Cha xứ mới nghiêm lắm. Cả nhà thờ ai cũng xếp re. Phải chi
cha xứ cũ còn ở đây thì con không phải khổ sở thế này. Cậu biết không, bạn ấy
nói về đủ thứ chuyện: Nào là vấn đề các bí tích của ta, vấn đề ơn cứu độ đã được
định trước này, rồi đến đời sống độc thân của các cha và rất nhiều vấn đề khác
của đạo mình… Nhưng con càng buồn hơn khi bạn ấy nói sai về Đức Mẹ. Con biết là
bạn nói không đúng mà chẳng biết nói lại làm sao, vì bạn ấy trích dẫn Kinh
Thánh rõ ràng, nghe có lý lắm; lại còn mang cả Kinh Thánh tiếng Anh và tiếng
Pháp ra đối chiếu nữa…
Cha Minh kiên nhẫn lắng nghe cháu gái trút cạn nỗi lòng. Sau đó,
cha giải thích rõ ràng từng vấn đề một cho Trúc Mai hiểu. Khi mọi sự đã thông,
cha nhướng mày hỏi:
- Bây giờ cậu sẽ chỉ cho con cách “trả đũa và hạ bệ” bạn đó. Nếu
con làm đúng như cậu bày, cậu dám chắc con sẽ thắng.
Hai cậu cháu to nhỏ với nhau một lúc, rồi cùng cười vang ra vẻ đắc
chí lắm. Cô Trúc Linh nghe tiếng cười trên lầu vọng xuống mà thầm mừng.
Trúc Mai như vừa trút đi một gánh nặng, em cảm thấy nhẹ nhỏm và khoan khoái trong
lòng. Mấy tháng rồi, giờ em mới lấy lại được sự vui tươi, năng động của lúc trước.
Em chạy xuống nhà, bước ra sân vươn vai hít một hơi thật sâu cho không khí vào
đầy căng buồng phổi và từ từ thở ra như muốn xua đi tất cả những u uẩn trong
lòng. Cảnh vật reo vui chào đón trái tim héo úa đang khởi sắc. Ánh nắng dịu nhẹ
của buổi chiều như muốn vây quanh chúc mừng tâm hồn mới hồi sinh. Ngọn gió lùa
qua mát rượi, thổi tung suối tóc dài óng mượt. Những cành hồng lung lay trước
gió vẫy chào cô chủ với sắc thắm thoảng hương. Con Mina trong nhà chạy ra xoắn
xít dưới chân em và nghếch nghếch mõm lên như muốn nói lời chúc mừng cô chủ nhỏ.
Em bế con Mina lên, vuốt ve nựng nịu một lúc rối thả xuống. Con mèo bạch đang nằm
trong hiên nhà cũng ganh tỵ chạy ra làm nũng, cọ cọ chân cô chủ. Con chó không
tranh, quay lại liếm liếm mặt con mèo. Mai nhìn đâu cũng thấy đẹp, thấy vui. Em
mĩm cười nghiêng mình xuống vườn hoa khẽ hỏi:
- Em nào muốn theo chị đi viếng Đức Mẹ đây?
Một cơn gió lướt qua giúp những cành hồng nhung chen lấn nhau
xin theo cô chủ. Trúc Mai hái một bó hoa mang ra đài tạ ơn Đức Mẹ, vì Mẹ đã
giúp em giải gỡ được nỗi lòng.
Sáng hôm sau, Trúc Mai vào lớp nói cười vui vẻ khiến các bạn ngạc
nhiên. Lý Trúc Mai vào lớp thấy vậy liền hỏi:
- Này, đằng ấy hôm nay nhặt được của à?
Trúc Mai mỉm cười thân thiện, nhìn lên mái tóc bạn trầm trồ:
- Ô! Bạn có chiếc kẹp nhỏ xinh thế, chỉ chỗ mình mua với?
Được khen, họ nhà Lý khoái chí nên tỏ ra hào phóng:
- Để mai mình mua cho bạn mấy cái. Chỗ đấy có nhiều kiểu mới, đẹp
lắm!
Đến giờ ra chơi, nhóm Kinh Thánh bắt đầu tụm lại, Trúc Mai liền
lên tiếng:
- Ôi chao! Các bạn có quyển Kinh Thánh xinh quá nhỉ. Cho mình mượn
xem tí nào.
Cả nhóm nhao nhao vui ra mặt. Trúc Mai “tấn công” tiếp:
- Các bạn giỏi thật. Mới có mấy tháng mà giỏi Kinh Thánh cực kỳ
luôn. Phen này chắc mình phải noi gương của các bạn về việc học Kinh Thánh quá.
Cả nhóm thích chí, liền lôi đồ ăn ra mời Trúc Mai lia lịa. Trúc
Mai cười thầm:
- “Công nhận cậu hay thật! Đơn giản vậy mà mình không nghĩ ra”.
Đang lúc mọi người vui vẻ, Mai đưa ra câu đố:
- Mình đố các bạn: Có hai ông gặp nhau, ông nào cũng đầu nhẵn
thính vì đã rụng hết tóc. Vậy mà ông A nói với ông B: “Ông hói hơn tui”. Tại
sao?
Mọi người suy nghĩ và đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng
đều sai cả. Các bạn nam cũng tham gia giải đáp mà chẳng đúng. Cả bọn chạy lại cầu
cứu với cô chủ nhiệm, cô ngẫm nghĩ một lúc rồi cũng lắc đầu bảo:
- Cô chịu!
Cuối cùng, Trúc Mai đưa
ra đáp án:
- Vì đầu ông B to hơn đầu ông A.
Mọi người vỡ nhẽ cùng phá ra cười, làm cô chủ nhiệm cũng vui
lây. Từ đó, Trúc Mai nhập nhóm chơi chung với họ nên không còn bị công kích nữa.
Em cũng mang Kinh Thánh theo để cùng học với nhau. Đối với các môn học trong lớp,
em giúp các bạn những bài mà các bạn chưa hiểu. Thỉnh thoảng, nhóm kéo đến nhà
em học chung, nhờ vậy mà dần dần Mai nói cho họ hiểu hơn về đạo của mình.
Gần đến tết, Lý Trúc Mai rủ các bạn:
- Chúng mình đi xin ve chai về bán lấy tiền mua quà cho người
nghèo đi!
Cả nhóm nhiệt liệt ủng hộ,
Trúc Mai cũng hăng hái tham gia. Lần đầu tiên ra quân mà rất được mùa, nên nhóm
hẹn năm sau sẽ tiếp tục.
Trúc Mai đem chuyện về bàn với các anh chị Giáo lý viên và được
các anh chị khen là có sáng kiến hay. Thế là nhóm Giáo lý viên cũng được một
mùa bội thu, mang đến niềm vui cho các gia đình nghèo trong xứ.
Tình bạn của nhóm ngày càng đậm đà, thắm thiết. Họ không còn
phân biệt tôn giáo nữa, chỉ còn mỗi chuyện là thi nhau học Kinh Thánh và mang Lời
Chúa ra áp dụng trong cuộc sống. Bây giờ Trúc Mai mới hiểu hết lời cha Minh nói
: “Khi người ta mang tôn giáo ra để bài bác và công kích nhau thì chỉ dẫn đến
chia rẽ, thù ghét và loại trừ nhau… Còn khi người ta biết tự hủy mình đi, lo
quan tâm giúp đỡ người khác và sống cho tình yêu thương; thì không còn sự khác
biệt nữa, mà trở nên một lòng một ý và cùng sống chung hòa bình”.
Cuối năm học, cả nhóm đăng ký tham gia chiến dịch “Mùa hè xanh”.
Về miền sông nước bạn nào cũng thích. Gần hết ngày công tác, đoàn được đi tham
quan vườn trái cây. Nhìn những cây sai trĩu quả ai cũng trầm trồ và xúm nhau chụp
hình lia lịa. Các bạn gọi nhau í ớ, cười đùa vui vẻ. Phía này là những chùm
chôm chôm đỏ ối, say quằn. Tiếp đó là những cây ổi trái nhiều hơn lá, quả bóng
mẫy, giòn thơm. Ở bên kia cầu là những chùm xoài treo lơ lững đang đung đưa mời
gọi. Nhóm của Trúc Mai được cô chủ vườn bơi xuồng đưa qua đó vườn xoài với tô mắm
đường. Mọi người thỏa thích thưởng thức trái cây.
Cuộc vui nửa chừng thì bất chợt mưa tới, chỉ còn cách trú dưới gốc
cây. Nhưng mưa càng lúc càng nặng hạt làm mọi người ướt sũng. Nhóm của Trúc Mai
đang ở bên vườn xoài đã bắt đầu ngấm lạnh. Khi đi về, Lý Trúc Mai do không quen
đi cầu khỉ nên bị rớt xuống kênh mà nhóm không ai biết bơi. Trúc Mai liền nhảy
xuống cứu bạn. Đêm đó về, bạn ấy bị sốt cao, Trúc Mai đã thức suốt đêm chăm lo
cho bạn. Sáng ngày, lúc Trúc Mai bưng tô cháo ngút khói lên, Lý Trúc Mai cảm động
nói:
- Cám ơn bạn đã cứu mình hôm qua và chăm sóc cho mình cả đêm vừa
rồi. Bạn quả là một người bạn tốt. Vậy mà lúc trước mình…
Trúc Mai cười thật tươi trấn an bạn:
- Cám ơn gì chứ? Bây giờ chúng ta đã là bạn của nhau, đừng nói
chi đến chuyện ân nghĩa. Còn chuyện cũ thì quên đi, không nên nhắc nữa. Vả lại
chúng ta cùng chung một niềm tin, coi như người một nhà thì khách sáo làm gì.
Các bạn đứng quanh vỗ tay khen ngợi. Ai cũng vui vì thấy các bạn
biết quan tâm, yêu thương giúp đỡ nhau.
Trúc Mai nghe trong lòng thật vui, nên quyết tâm sẽ làm nhiều việc
tốt hơn nữa để trở nên chứng nhân của tình yêu Chúa. Em thầm thĩ trong lòng:
- Con tạ ơn Chúa, con cám ơn Đức Mẹ vì đã cho chúng con chung lớp
chung trường và nhất là cho chúng con: “Chung một niềm tin”.
Mã số: 17-028
- Đứng dậy nhanh!
Tiếng nạt nộ làm nó choàng tỉnh. Nó đang thiếp đi trên chiếc ghế
lạnh ngắt ngoài công viên thành phố. Nó mỏi mệt vì một hành trình dài mới trải
qua.
Ngước nhìn ánh mặt hộc hằn của người đó, nó lầm lũi bỏ đi. Phải.
Nó đi. Nó đã đi. Nó mới vừa rời khỏi “mái ấm” của nó sáng nay. Đúng. Nó rời khỏi
đó. Nó rời khỏi cái địa vị công chúa, cái địa vị tiểu thư có bố là giám đốc một
tập đoàn lớn đầy danh tiếng, còn mẹ là một giáo viên hiền lành, gương mẫu. Nó bỏ
đi khỏi cái vị trí mà nhiều người ao ước, thèm khát. Chắc sẽ có người nói nó dại,
nói nó ngốc, mà nó dại, nó ngốc thiệt, ai đời lại bỏ căn phòng chăn ấm nệm êm để
giờ đây lê lết vất vưỡng thế này, để rồi ngay một chỗ nghỉ chân cũng bị chiếm mất.
Nó dại. Nhưng cái dại của nó…chỉ mình nó hiểu…
Mới sáng nay, lớp nó vì là lớp năm cuối nên phải học tăng cường
để chuẩn bị cho kì thi tốt nghiệp ra trường. Nhưng giáo sư bận nên không dạy được,
thế là lớp nó kéo nhau đi chơi biển, nhưng nó không đi. Nó muốn lao ngay về nhà
vì hôm nay cả bố mẹ nó đều ở nhà, nó mong biết bao giây phút cả gia đình quây
quần bên nhau, thật ấm áp. Nó đạp xe thật nhanh…
Mở cổng bước vào, nó thấy cửa nhà vẫn còn đóng. Lạ. Giờ mà ba mẹ
chưa dậy sao ta? Nó định đẩy của bước vào, nhưng mới bước chân lên bậc thềm, nó
nghe có tiếng động bất thường trong nhà, nó hé cửa nhìn vào…:
- Anh im đi! Tôi chịu hết nổi thái độ gia trưởng, bộ mặt giả tạo,
con người mưu mô giảo quyệt của anh rồi…
“Bốp…”! Nó thấy mẹ nó ngã chúi nhào.
- Anh giết tôi luôn đi…tôi chịu đựng hết nổi rồi…
- Cô câm đi…- Bố nó quát to.- Đồ đàn bà trắc nết…
Nó thấy mẹ nó ngước lên nhìn ba nó, cười chua chát:
- Phải. Tôi trắc nết, tôi không đứng đắn…phải…tất cả là vì
tôi…vì tôi có người chồng khốn nạn như anh…vì tôi có người chồng chỉ vì thăng
quan tiến chức mà nỡ đẩy người vợ của mình vào vòng tay kẻ khác như một món đồ…phải…tất
cả là vì tôi…
- Cô không chịu được thì đây…đơn tôi viết sẵn rồi…cô kí đi…tài sản
chia đôi…con Nữ sẽ ở với cô…tiền tôi chu cấp hàng tháng…
Nghe tới đó, đôi mắt nó như dại đi, đôi chân nó muốn khuỵa xuống…tổ
ấm của nó đây sao? Niềm vui gia đình đây sao?
Nó thấy ba nó ngồi phịch xuống ghế, đôi tay buông thõng một cách
vô lực…trong ông đang hiện lại bức tranh của buổi tiệc hôm ấy…buổi tiệc định mệnh
giúp ông từ anh nhân viên quèn lên chễm chệ trên chiếc ghế giám đốc oai vệ…cũng
bữa tiệc ấy ông đã đẩy người vợ nết na đằm thắm xinh đẹp vào… cũng chính bữa tiệc
ấy đang dần phá tan hạnh phúc gia đình ông…cũng chính bữa tiệc ấy đẩy ông vào
con đường ăn chơi trụy lạc, bê tha công việc, bê tha bổn phận làm chồng…
Bầu trời trước mắt nó như tối xầm lại, mọi thứ sụp đổ…nó quay
người bỏ chạy…
Tối nay, nó có mặt trong công viên thành phố. Không biết giờ bố
mẹ có lo cho nó không, nó thầm nghĩ, chắc là sẽ không đâu, vì hai người còn
đang mải miết hục hằn với nhau, còn đang mải miết biến tổ ấm thành địa ngục, biến
niềm vui, hạnh phúc thành sự khốn cùng của cuộc đời. Nó thầm mong đó chỉ là một
giấc mơ, một cơn ác mộng, bất chợt nó đưa tay lên má véo thật mạnh. Đau. Là thật.
Nó ngước nhìn trời, nó trách ông trời sao nỡ trêu người. Mới hôm qua nó còn có
một gia đình hạnh phúc (nói đúng hơn là nó tưởng như vậy). Một cú sốc quá lớn đối
với một con bé như nó, một con bé từ nhỏ tới giờ chỉ sống trong sự bao bọc của
ba mẹ, mà giờ… nó mất tất cả thật rồi…
Nó hồi tưởng lại cuộc sống trước kia của gia đình nó, tuy lương của
ba nó không cao, tuy lương của mẹ nó cũng không có gì đáng kể, nhiều lúc còn chạy
vạy vay mượn để đóng tiền học cho nó…nhưng lúc đó, gia đình nó thật hạnh phúc,
cả nhà lúc nào cũng hiện diện đông đủ trong bữa cơm, những lúc quây quần bên
nhau, lúc nào cũng rộn ra tiếng cười…
Giờ nó lang thang…
Nó quay về nhà, thôi thì dù gì quay về nhà cũng còn có chỗ để ngủ,
chứ một con bé như nó giờ cứ lang thang mãi như này thì biết chuyện gì xảy ra.
Nó đã quyết định sẽ im lặng cho mọi chuyện muốn ra sao thì ra.
Thời gian đó, nó trở nên lầm lì, chai sạn và dễ cáu gắt. Có lẽ
khi một con người bị đẩy vào bước đường cùng thì sẽ có những hành động mà chính
mình cũng không thể hiểu nổi. Nó cũng vậy.
Ba mẹ nó có lẽ nhận ra được sự thay đổi của nó, nhưng dường như
họ chẳng quan tâm.
Nó vẫn đến lớp đều đặn, nhưng thay vì là một con bé học hành
ngoan ngoãn, chăm chỉ, nó trở nên chay lười và ngang ngược…, nó bắt đầu lao
mình vào những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng ở các quán bar, nó bắt đầu tàn
phá đời nó…những lúc như vậy, như vô thức, nó chờ mong những lời la mắng, trách
móc từ ba mẹ…nhưng dường như ông bà còn vắng nhà nhiều hơn nó. Nó biết ba nó
đang mải miết chôn đời mình trong tay những cô nhân tình nóng bỏng, còn mẹ nó
vì giận ba, vì coi thường ba mà ghét luôn cả nó, mẹ bỏ về ngoại ở. Căn nhà chỉ
còn mình nó.
Ngày hôm đó như mọi ngày khác, là một ngày ảm đạm của nó, vẫn thức
dậy trong ngôi nhà trống vắng đó, vẫn cái cảm giác trống trải cô đơn đến rợn
người…đã bao nhiêu ngày rồi nó không còn được nghe cách gọi quen thuộc của mẹ mỗi
buổi sáng, cách gọi từng làm nó bực mình trong cơn ngái ngủ. Đã bao lâu rồi nó
không còn được ba nó vuốt đầu mỗi buổi sáng. Nó thèm được cảm giác đó. Nó thèm
được nghe tiếng càm ràm của mẹ,…nó thèm một tình yêu gia đình – thứ đang dần vuột
khỏi tay nó.
Ăn vội tô mì, nó chạy xe đến trường. Mấy đêm liền không ngủ, đầu
óc nó cứ lỏng chỏng thế nào, nó mệt, nhưng nó không muốn ở trong căn nhà lạnh lẽo
đó, ít ra đến trường nó còn có tụi bạn,…ít ra nó còn cảm thấy mình có giá trị,
còn hiện hữu, dù là một sự hiện hữu mờ nhạt.
Vừa chạy xe, nó vừa nghĩ tới cảnh sau này không biết nó sẽ theo
ai: ba hay mẹ. Dù theo ai đi nữa thì nó vẫn sẽ lớn lên trong sự không trọn vẹn,
nó sẽ không có được tình yêu trọn vẹn, nó không được yêu trọn vẹn…và nó có thể
cũng sẽ không thể hiện được tình yêu trọn vẹn…nó sẽ thành một đứa “mồ côi” ư?
Bao nhiêu ý nghĩ hiện lên trong đầu nó…Nó choáng ngợp…
Bỗng…k…..é……ttttttttttt…………t...t..t…
Nó thắng gấp. Ai đó đang nằm trước đầu xe nó. Máu. Có máu chảy
ra. Nó hoảng hồn.
Tan học, nó hối hả chạy vào bệnh viện đa khoa tỉnh. Ở đó có người
nằm chờ nó mang cơm vào. Đã bốn ngày nay, nó tất bật với việc chăm sóc người
này.
- Nam ! Nhi mang cơm vào cho Nam nè, dậy ăn đi cho nóng.
Nam nói Nhi rồi mà, đừng mắc công nấu nữa, để Nam mua cơm canteen
ăn được rồi, nấu nướng chi cho tốn giờ. Vừa nói, Nam vừa ngồi dậy cách mệt nhọc.
- Đâu có được. Nhi chạy xe bất cẩn làm Nam phải nhập viện dài
dài…hihi…mà Nam không bắt đền Nhi… ít ra Nhi phải có bổn phận chăm sóc Nam chớ.
Thì ra hôm đó trong lúc đầu óc mơ màng vì bao suy nghĩ, nó vô ý
tông vào anh chàng tên Nam này, kể ra anh cũng là người tốt vì không bắt thường
nó., nên nó tình nguyện chăm sóc cho Nam, vả lại Nam là sinh viên trọ học trên
thành phố này nên cũng chẳng có người thân mà chăm sóc cho cậu ấy.
- A hihi! Nhi để ý chi chuyện đó, Nhi vô ý thôi mà, với lại Chúa
nói là phải tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ gây hại cho mình, hơn nữa
Nhi đâu phải kẻ thù của Nam, mà Nhi gây hại cho Nam có chút xíu hehe nên sao mà
giận Nhi được chứ. Nam nhoẻn miệng cười. Nụ cười thật ấm.
- Ủa mà Nam, Chúa là ai mà Nhi nghe Nam nhắc miết dzậy??? lúc
nào Nam cũng nói Chúa nói Chúa nói, mà Nhi có thấy ai tới thăm Nam đâu mà Nam
kêu Chúa nói?
Nam chỉ nhoẻn cười nhìn nó mà không nói gì làm nó lại càng tò
mò. Mấy ngày nay nói chuyện với Nam, lúc nào Nam cũng nói “Chúa nói Chúa nói”,
mà nó thấy điều Chúa nói toàn là điều hay không ah.
- Nhi lấy quyển sách kia dzùm Nam đi.
Nó đứng lên, lấy quyển sách trên đầu tủ đưa cho Nam.
- Quyển tên Tân Ước này hả Nam?
- Uh, Nhi đưa Nam.
Nó đưa cho Nam, cuốn sách nhỏ nhỏ, nhìn cũng xinh.
- Tặng Nhi nè!
- Nam tặng Nhi hả? nó mở to đôi mắt nhìn Nam.
- Uh, Nam tặng Nhi đó, khi nào muốn biết Chúa là ai thì Nhi đọc
cuốn này nha, chỗ nào không hiểu có thể Nam giúp cho hihi.
- Vậy là đọc sách này Nhi sẽ biết Chúa của Nam hả???? Có thiệt
hông?
- Thiệt. Nam trả lời chắc nịch.
Nó trầm ngâm, không nói gì, chỉ chào Nam mấy câu rồi ra về.
Tuy nó chỉ tiếp xúc với anh bạn này có mấy ngày, nhưng từ nơi
Nam, nó nhận ra một sự thánh thiện, hiền lành đến lạ lùng, không phải cái hiền
lành của người khờ dại, nhưng là cái hiền của một con người thông minh, khôn
ngoan trong cách sống, những câu nói của Nam, những suy nghĩ của Nam gợi lên
trong nó một cảm giác khá lạ lẫm, nó có cảm giác anh bạn này giống như đang lội
ngược dòng thời đại vậy. Điều càng làm cho nó thấy hứng thú hơn nữa là Chúa của
Nam. Là người mà lúc nào Nam cũng tôn thờ và tin tưởng cách tuyệt đối dù trong
cơn nguy hiểm trong lúc mà nó lo sốt vó lên thì Nam lại là người an ủi nó, thật
sự rất khó hiểu, là người mà lúc nào Nam cũng trích dẫn những câu nói rất hay của
Chúa, giống như một nguồn tài liệu có thế giá vậy. Chúa là ai???
Sự tò mò dấy lên trong long nó nỗi khao khát đi tìm hiểu Chúa.
Từ khi có cuốn Tân Ước trong tay, nó không còn vùi đầu vào những
trò vô bổ thâu đêm suốt sáng nơi các quán bar nữa, hay nói đúng hơn là kể từ
khi gây ra vụ tai nạn đó, nó không còn là đứa con gái hư hỏng nữa. Nó bắt đầu
dành thời gian rãnh rồi để đi tìm Chúa, nó không nhai ngấu nghiến cho xong cuốn
sách, nhưng theo lời Nam nói thì nó phải đọc từ từ, phải đọc bằng trái tim và mỗi
ngày đọc một chương mà thôi.
Cứ như vậy, nó tiếp xúc với Thánh Kinh nhiều hơn, đặc biệt nó có
một người bạn lúc nào cũng sẵn sang nói cho nó nghe về Chúa.
Nằm viện được một tuần, sức khỏe của Nam cũng dần ổn định. Thế
là nó không còn nấu cơm cho Nam hằng ngày, nhưng Nam có cho nó địa chỉ nhà trọ
mình, mỗi ngày nó dành ra thời gian rảnh để như một đứa học trò, nó tìm đến với
“thầy bạn” để tìm hiểu về Chúa.
Nhưng cả tuần nay nó không đến nhà trọ của Nam nữa, thấy lạ Nam
cũng nhắn tin hỏi nhưng nó không trả lời, gọi điện thì nó không bắt máy.
Sáng nay, sáng Chúa Nhật nó đang nằm ôm con gấu bông trong phòng
thì ghe tiếng chuông cửa. Lát sau, nó nghe tiếng mẹ nó gọi:
- Nhi! Có bạn nào tìm con nè.
Ra là ba mẹ nó về nhà lại rồi…nhưng không phải để ở với nhau
nhưng để kiểm kê tài sản chuản bị ra tòa.
Nó đứng dậy bước ra phòng khách.
- Nam!! Sao Nam biết Nhi ở đây??? Nó tròn mắt ngạc nhiên.
- Nhi, con tiếp bạn đi, mẹ đi chợ đây. Mẹ nó nói với vào.
- Hình như Nhi có chuyện gì không vui? Nam đi thẳng vào vấn đề.
- Uh. Nó buông thỏng.
- Có thể…nói Nam nghe được hông? Nam hơi ngập ngừng.
- Nếu Nhi ngại thì thôi.
- Không.
Bố mẹ Nhi sắp ly dị. Nó tiếp lời bằng đôi mắt ráo hoảnh và cái
giọng lạnh băng. Có lẽ với người khác Nhi sẽ không nói, nhưng với Nam…nơi Nam,
Nhi cảm nhận được sự tin tưởng, an tâm khi chia sẻ với Nam.
Nó nhìn Nam, đôi mắt Nam thoáng có chút khó xử, nó biết nói ra
thì cũng chẳng ai giúp được gì, nhưng nó thấy long nhẹ lạ.
- Nhi…Nhi có tin lời Chúa nói: Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ
gặp, ai gõ thì sẽ mở cho hông? (x. Mt 7, 7-12)
- Nhi…
- Giờ Nam không thể giúp gì cho Nhi…nhưng Nam sẽ chỉ cho Nhi thêm
một phương cách nữa có thể giúp Nhi, ít ra là giúp Nhi tìm được sự bình an
trong tâm hồn.
- Nam giúp Nhi đi. Nó thút thít.
- Nhi còn nhớ cách lần chuỗi mân côi mà Nam chỉ Nhi không?
- Nhi nhớ.
- Mỗi tối Nam với Nhi sẽ cùng nhau lần chuỗi nghen, với ý cầu
nguyện là xin cho thánh ý Chúa được thực hiện, Nam tin chắc Mẹ Maria sẽ không bỏ
rơi con cái mình đâu, nhất là những ai đang đau khổ.
- Sao mình không xin cho ba mẹ Nhi đừng ly dị?
- Vì Chúa với Đức Mẹ biết điều gì tốt nhất cho mình mà Nhi.
Thế là từ tối hôm đó, nó trở thành một “con chiên ngoan đạo” tuy
chưa biết gì về Chuỗi Mân Côi, nhưng qua lời Nam kể, nó biết rằng vào một buổi
trưa ngày 13-5-1917 trên một ngọn đồi nhỏ tên Cova da Iria ở Fatima thuộc nước
Bồ Đào Nha, Đức Mẹ hiện ra với ba vị thánh trẻ tên là Lucia, Giacinta và
Phanxicô với ba thông điệp thường được gọi là ba mệnh lệnh Fatima: Ăn năn thống
hối, tôn sùng Mẫu Tâm, và siêng năng lần hạt mân côi. Đức Mẹ cũng hứa là sẽ ban
bình an cho tất cả những ai siêng năng lần hạt mân côi và siêng năng chạy đến với
Mẹ vì Mẹ luôn là Nguồn Cậy Trông cho mỗi tâm hồn đau khổ.
***
Thời gian cứ lặng lẽ trôi, hằng ngày nó vẫn chạy đến với Mẹ qua
tràng hạt mân côi mà Nam đã tặng nó, nó cầu xin Mẹ ban bình an cho gia đình nó.
Sáng nay, một buổi sáng chẳng mấy đẹp trời, ngoài đường cơn mưa
vẫn nặng hạt, nó ngồi sau xe cho Nam chở. Nó lại mang cơm vào bệnh viện, lần
này không phải cho Nam mà cho ba nó. Chẳng là ba nó bị người ta gài trong một vụ
làm ăn phi pháp mà ông không hề hay biết, cú sốc này làm ông bị tai biến.
Nó và Nam đi vào bệnh viện, vừa tới phòng, nó nghe có tiếng khóc
bên trong:
- Em!! Anh xin lỗi.
- Anh đừng nói vậy, lỗi cũng là ở em.
- Không, tất cả là do anh, do anh…khoảng thời gian nằm trong
này, anh lại có cơ hội để nhìn ra những lầm lỗi của mình…anh đã quá tham lam,
quá ích kỉ, anh chạy theo những dục vọng của bản thân…mà bỏ qua em và con…bỏ
qua hạnh phúc trong tầm tay để đuổi theo những ảo ảnh phù vân…anh xin lỗi
em…xin lỗi em…
Nói xong, nó thấy mẹ nó ôm chầm lấy ba.
Nước mắt nó lại chảy dài…nhưng nó không bỏ chạy giống như lúc
trước, nó lặng lẽ nắm lấy bàn tay Nam kéo đi, giọt nước mắt nó lăn xuống trong
hạnh phúc, nó lại tìm được niềm vui tình yêu gia đình.
Ngoài trời vẫn mưa, nhưng lòng nó thật ấm, nó thầm thĩ trong
lòng: Cảm ơn Mẹ - nguồn cậy trông của đời con – đứa con ngoại đạo.
Mã số: 17-030
Phía cuối con đường
- Thôi thôi…cô đi đi, tôi không bán cho cô đâu, cô đi xa ra một
chút để tôi còn làm ăn…mới sáng sớm mà đã ám…xui quá…
Cô cúi gầm mặt bỏ đi, không nói lời nào, chỉ biết nuốt nước mắt
vào trong. Lầm lũi. Cô lầm lũi bước đi trong nỗi chờ mong tuyệt vọng…cô chờ
mong một kì tích xuất hiện, đã mấy tháng nay cô mong ngóng anh, anh hứa là anh
sẽ về…
Sau ngày tốt nghiệp, Nữ về lại ngôi trường làng nơi đã nuôi dưỡng
ước mơ trở thành người lái đò của cô năm xưa, trở lại với quê hương nơi cô cùng
lũ bạn thuở nào nhảy dây, đánh chuyền, trở lại với cây đa, bến nước, con đò, trở
lại với dòng sông quê hương ngọt ngào như dòng sữa mẹ êm ả nuôi cô khôn lớn, trở
lại với mái ấm gia đình sau bao năm xa cách.
Vốn cầm tấm bằng sư phạm loại ưu, cô được mời ở lại ngôi trường
đại học để làm trợ giảng, nhưng cô từ chối. Cô từ chối không phải cô không
thích ở lại thành phố, cũng không phải vì cô không có năng lực…, nhưng vì một lời
hứa:
- Nữ…em đi rồi…có còn trở về ngôi làng nhỏ này với gia đình…với…với…anh
hông?
- Có. Em sẽ về.
Chỉ đơn giản là một lời hứa với anh bạn học gần nhà, nhưng lời hứa
ấy đã theo cô suốt quãng thời gian học đại học trên thành phố, cũng chính nhờ lời
hứa ấy đã gìn giữ cô khỏi những cám dỗ của cuộc sống ăn chơi nơi thị thành,
chính lời hứa ấy đã kéo cô về với ngôi làng nhỏ nơi có biết bao kỉ niệm giữa
anh và cô.
Nơi ngôi làng ấy có một ngôi trường, trong ngôi trường ấy có một
cây phượng, trên cây phượng ấy hơn tám năm về trước có một tổ chim…ngày đó có
hai đứa bạn đứng dưới tán phượng già:
- Nữ thích tổ chim kia hông?
- Thích chứ…có một con để nuôi thì thích nhợ..
Không nói gì, thoăn thoắt như một con sóc, thằng bé leo tuốt lên
cây…lấy được tổ chim, nó tụt vội xuống…bất ngờ trúng cành khô…con bé hốt hoảng
chạy tới nơi thằng bé té, trên tay nó vẫn ráng giữ cái tổ chim, chân nó đi
không được. Gãy.
Đôi bạn trẻ cứ thế lớn dần lên bên nhau.
…Mãi tới hôm nay khi Nữ - cô bé năm nào giờ đã thành một giáo viên
tiểu học trong chính ngôi trường đầy kỉ niệm năm xưa.
Nhưng ngày Nữ về lại ngôi làng cũ cũng chính là lúc anh có học bổng
du học ở nước ngoài. Nữ không muốn trở
thành vật cản trên con đường thăng tiến của anh. Tình cảnh mấy năm trước lại trở
về nhưng đã đổi vị trí:
- Nam…anh đi…học xong nhớ trở về. Em chờ.
- Anh sẽ về. Sẽ về.
Nói xong anh ôm cô vào lòng. Đêm đó cô đã trao cho anh tất cả, tất
cả những gì quý nhất của đời người con gái.
Một tháng sau ngày anh đi, cô phát hiện mình có thai.
Từ khi cái tin cô Nữ không chồng mà có mang, mọi ánh mắt nhìn cô
không còn thiện cảm nữa, thay vào đó là ánh mặt xăm soi, dò xét. Giờ Nữ mới hiểu
được lưỡi gươm dư luận là thế nào.
Giờ cô không còn chỗ nương tựa, anh thì đi biền biệt, không liên
lạc gì với cô, còn gia đình thì coi cô như một nỗi sỉ nhục vì xưa nay gia đình
cô vốn gia giáo, nề nếp, từ nhỏ cô đã nổi tiếng ngoan hiền, nhưng giờ cô không
còn biết nương tựa vào đâu.
Mỗi ngày sống đối với cô là một cực hình. Cô muốn bỏ đi đứa bé
đang thành hình trong bụng, cũng có vài đứa bạn hồi học đại học thương cô
khuyên cô nên bỏ nó đi mà làm lại cuộc đời, nhưng cô nghĩ bỏ đi cái thai để làm
lại cuộc đời hay hành động phá thai là một vết chàm sẽ bám riết lấy cô. Ba mẹ
không nói gì. Đã có lúc cô đến bệnh viện, nhưng rồi khi xắp bước vào phòng…cô vụt
chạy ra. Lương tâm một con người không cho cô làm như vậy. Lương tâm một Kitô hữu
không cho cô làm như vậy. Những bài học giáo lý về luân lý vẫn còn văng vẳng
đâu đây. Cô chấp nhận.
Đã năm tháng nay, đêm nào cô cũng cầm tràng chuỗi mân côi trên
tay và khóc. Cô cầm tràng chuỗi mà không đọc được gì, cô chỉ biết khóc. Cô khóc
trong sự chờ mong, mong anh sẽ sớm quay về bên cô, mong con cô sinh ra có bố và
cô thấy hiện lên trong đầu hình ảnh Mẹ Maria năm xưa, lúc mà Mẹ còn là một thiếu
nữ mới đính hôn với Cha Thánh Giuse, lúc mà mẹ phải đối mặt với lời mời gọi của
Chúa qua lời truyền tin của sứ thần Gabriel, lúc Mẹ lựa chọn đáp lời xin vâng
và trở thành người mẹ chưa về nhà chồng đã có mang. Tội Mẹ thật. Mỗi khi nghĩ về
Mẹ, cô thấy an ủi lạ lùng. Thời gian này, cô chỉ biết chạy đến với Mẹ, cô cảm
nhận được nếu không có Mẹ nâng đỡ, nếu không có Mẹ che chở phù trì, có lẽ cô đã
gục ngã, có lẽ cô đã không giữ được đứa con đang thành hình của mình. Cô thầm
thĩ nguyện xin Mẹ nâng đỡ cô, cô xin Mẹ cho Nam mau quay về.
Đã bảy tháng kể từ ngày Nam đi, cô không nhận được tin tức gì về
Nam, anh như bốc hơi khỏi thế giới này vậy. Thời gian cứ trôi, niềm tin của cô,
niềm hi vọng của cô trở nên mong manh dần, cho đến sáng nay.
Sáng nay…
- Nữ mày biết tin gì chưa? Con bạn hàng xóm hộc tốc chạy vào nhà
cô.
- Chưa. Ủa có chuyện gì mà Trinh gấp gáp vậy?
- Ông Nam…Trinh vừa thở dốc vừa nói…
- Anh Nam sao? Nói Nữ nghe nhanh lên.
- Từ từ… Ông Nam…nghe nói ổng sắp về…
- Thiệt hông? Cô mừng như bắt được vàng.
- Mày từ từ…tao chưa nói hết…
- Còn gì nữa, Trinh nói nhanh đi
- Nghe nói ông Nam sắp về…dẫn theo vợ về nữa.
- Hả? Hai chân cô khuỵa xuống…
- Nữ! Nữ! bà sao vậy? Nữ….
Tỉnh dậy, cô thấy mình đang nằm trong bệnh viện. Cũng may cô
không bị sao, đứa bé trong bụng cũng không có chuyện gì. Ngồi bên cô giờ này là
mẹ cô, khuôn mặt già nua khắc khổ, in đầy những vết tích của năm tháng cần lao vất vả.
Cô nhìn mẹ. Quay mặt đi.
- Thằng Nam về rồi. Nghe nói nó lấy bằng thạc sĩ quản trị quản lý
gì đó xong là về liền. Nhà đang chuẩn bị đám cưới to lắm…mày dại…chỉ mình mày
khổ thôi con ah. Mẹ cô thở dài, rơm rớm nước mắt.
Cô quay mặt vào tường…
- Nữ…sau này lớn lên tao nhất định lấy mày làm vợ, mày chịu
hông??
- Mẹ nói con trai xấu lắm…
- Tao không xấu, sau này tao sẽ cưới mày.
Dưới gốc phượng già, có hai đứa bé, thằng bé lấy que củi rạch
lên thân cây phượng dòng chữ nguệch ngoặt thể hiện tình cảm của nó, con bé chỉ
mím môi cười.
Ngày cô xuất viện, bầu trời như u ám hẳn, cơn mưa trái mùa làm
cô cảm thấy đau nhức trong người. Thời gian nằm viện, cô nghĩ nhiều về anh. Mỗi
khi nghĩ về anh, nước mắt cô lại tuôn trào, mỗi lần như vậy, một cách vô thức,
cô nắm lấy tràng chuỗi mân côi, cô khóc với Mẹ. Cô không còn cầu xin Mẹ cho anh
về với cô nữa, vì biết đâu nếu anh về với cô thì sẽ có một người con gái khác
phải lâm vào hoàn cảnh giống cô. Kể từ khi gắn kết nỗi đau khổ của mình với
tràng hạt, cô thấy mình mạnh mẽ hơn, bao dung hơn, cô thầm mong anh hạnh phúc,
dù tim cô nhói đau, cõi lòng cô tan nát.
- Sao nhà ông Nam chuẩn bị đám cưới mà tao không thấy cô dâu đâu
ta?
- Nghe đồn là con gái Mỹ mày ah.
- Ghê vậy ak
- Uh, nghe nói là đúng hôm cưới là ra sân bay rước về mà.
Tiếng người ta xầm xì. Một lần nữa, cô lại không muốn là vật cản
trên con đường tiến thân của anh. Dù vậy nhưng cô vẫn thấy nhói nhói trong
lòng, cô thì có thể không sao, nhưng còn đứa bé, còn dư luận?
- Thưa thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang vì phạm tội ngoại
tình, theo luật Môsê thì hạng người này phải bị ném đá đến chết…(x. Ga 11, 1-8)
Đêm nào giấc mơ về người phụ nữ ngoại tình trong Kinh Thánh cũng
hiện về, cô thấy hoàn cảnh của mình cũng éo le như vậy, tuy cô không ngoại
tình…nhưng không chồng mà có con thì cũng chẳng khác là mấy…cô sợ những viên
đá…không phải những viên đá nơi đất Israel, nhưng là những viên đá dư luận, có
thể nó sẽ nhận chìm tương lai của con cô.
Bất chợt tin nhắn điện thoại vang lên:
- Mày phá đi…ông Nam không lo cho mày được đâu. Tin nhắn của con
bạn thân.
Cô định trả lời, nhưng rồi cô im lặng:
- Con yên tâm, mẹ không làm gì tổn hại đến sự sống của con đâu.
Mẹ tin rằng Chúa sẽ có những hướng đi tốt nhất cho mẹ con mình. Cô xoa bụng.
Cô biết khi mình chấp nhận lựa chọn như vậy, cô sẽ phải đương đầu
với bao nhiêu là thử thách, nhưng cô tin, cô đặt trọn niềm tin vào Chúa, vào Mẹ
Maria vì: “chưa từng thấy ai kêu cầu mà Mẹ ngoảnh mặt làm ngơ”. Cô luôn tin như
vậy.
Sáng nay, cô một mình đi đến ngôi trường cũ. Đứng tần ngần trước
gốc phượng già năm nào.
- Tao khắc tên tao với máy trên cây này nghen, sau này tao có xấu
thì mày gỡ miếng cây này ra mét má tao…
- Lỡ nó hư thì sao? Con bé chím môi hỏi lại.
- Nó không hư đâu, mày yên tâm.
Nó không hư thật, ngày cô về trường, cô vẫn còn thấy tên của hai
người nằm trên cây ấy. Có lần:
- Cô ơi, ai chơi nghịch khắc tên trên cây nè cô, tụi con phá đi
nghen.
- Thôi đừng em, biết đâu đó là một kỉ niệm thiêng liêng của họ
- Kỉ niệm là gì cô? Mà thiêng liêng là gì nữa?
Cô chỉ im lặng.
Nhưng sáng nay, cô không còn thấy hai cái tên đó nữa. Ai đó đã cắt
lớp vỏ cây chỗ đó. Uh thôi vậy cũng tốt, cứ để nó đi vào dĩ vãng, để nó thành một
kỉ niệm buồn, nhưng đẹp của một thời tuổi thơ êm đềm. Giá mà có thể quay lại thời
thơ ấu.
Cô về nhà, tâm trạng không còn hoang mang như ngày cô biết tin
anh sẽ lấy vợ bên trời Tây, tâm hồn cô như có gì đó bình an đến lạ lùng, như mặt
hồ mùa thu không một gợn song, cô biết đó là nhờ Mẹ, chính trong đâu khổ cô đã
tìm lại niềm tin của mình – niềm tin cô đã đánh mất trong những năm tháng trên
giảng đường khi chỉ biết cắm cúi học học và học.
Đang nằm trong phòng, cô nghe có tiếng mẹ kêu:
- Nữ, có người tìm con.
- Mẹ nói con mệt, con không gặp được.
- Không được, người này mày phải gặp.
Cô ngồi dậy, mệt nhọc bước ra.
Là Nam, đúng là Nam. Chính là khuôn mặt ấy. Cô cố giữ bình tĩnh:
- Chào anh, mời anh ngồi.
Anh nhẹ nhàng ngồi xuống. Hôm nay anh đến gặp cô không phải
trong bộ veston bóng loáng của chàng phó tổng, nhưng trong bộ đồ đậm chất nông
dân quen thuộc thuở nào, nhìn anh chẳng ai có thể nhận ra là chàng thạc sĩ quản
trị kinh doanh cả.
Anh mỉm cười nhìn cô, vẫn nụ cười nhẹ nhàng đầy ý nhị ấy. Cô vội
tránh ánh mắt của anh.
- Anh tìm em có gì không?
- Có. Ah mà không. Anh lại cười.
- Nếu không có gì thì anh về đi, em mệt. Cô nói giọng ráo hoảnh.
- Anh có món quà này tặng em, coi như bù đắp cho mẹ con em được
hông???
Cô vụt đứng dậy, định ném ly trà vào mặt anh, nhưng cô kềm được.
- Cảm ơn anh, em không cần.
- Thì em cứ nhận đi, phải xem thử cái gì rồi mới từ chối chứ.
Không hiểu sao cô lại nghe lời anh.
Cầm lấy cái hộp, cô mở
ra. Cô như chết lặng đi khi nhìn vào trong đó, là thật sao??? Miếng vỏ cây ấy,
miếng vỏ cây khắc tên hai đứa…
- Mày làm vợ tao đi Nữ. Anh cầm lấy tay cô.
Cô rơi vào im lặng, cô đang cố tỉnh lại, phải chăng cô đang mơ.
- Làm vợ anh nghen. Anh ôm cô vào lòng.
- Anh có lỗi với mẹ con em, từ giờ anh sẽ ở bên em, ở bên con.
Thời gian này anh về nhà, nhưng gia đình anh không tin đứa con là của chúng ta
nên cứ cấm cản anh. Anh phải thuyết phục mãi bố mẹ mới chịu. Tha lỗi cho anh Nữ
nghen…
- Còn cái chuyện anh sắp cưới vợ kia thì sao?
- Đâu có. Ba làm tiệc mừng anh về thôi, người ta cứ đồn thổi bậy
bạ.
- …
Nước mắt cô chan hòa.
- Chúa ơi sao Người thử thách con lâu quá. Chúa ơi! Mẹ Maria! Cuối
cùng con cũng tìm được ánh sáng ở cuối con đường.
Ngoài kia, mặt trời đang khuất sau rặng núi, màn đêm đang xuống
dần. Đêm qua đi. Ngày lại đến. Ngày đầy nắng.
Mã số: 17-031
Huy
Nhà dòng mở cửa để cho các thỉnh sinh về thăm quê nhà của mình,
đây cũng được coi như là dịp để họ tranh thủ giải quyết một số việc. Thời gian
thì hoàn toàn tự do và lưu động bởi từng người, với từng quyết định của họ. Có
quay lại nhà dòng hay không thì tự bản thân họ sẽ có câu trả lời. Như bề trên
nhà dòng đã nói với các ứng sinh: “Trái tim các con hoàn toàn tự do. Hãy nhớ cầu
nguyện cùng Chúa luôn, rồi các con sẽ có cho mình quyết định thật tâm nhất!”
6 tháng trước, tôi có nộp đơn xin làm ứng xin cho một dòng chiêm
niệm. Suốt những ngày tháng đó, tôi như một người nằm ngoài thế giới. Không vướng
bận bất cứ một điều gì còn ở bên ngoài. Tôi tự phép cho mình tạm thời như thế
đó! Sau những ngược xuôi vất vả bộn bề bên ngoài, đến một lúc, tôi đã tự thấy oải
và muốn tâm mình được an. Tôi giữ cho mình một chiều kích tâm linh, tôi đến với
hội dòng hoàn toàn tự nguyện, để như lòng tôi mong muốn, rằng tâm được an.
Những ngày ấy, tôi đã sống đúng theo tinh thần của câu slogan mà
tôi đã từng hay đọc trên một tạp chí quen, nhưng mãi đến tận lúc đó, tôi mới thấm.
“Sống chậm lại. Nghĩ khác đi. Yêu thương nhiều hơn.” Và đặc biệt được gần Chúa,
sống theo linh đạo khó nghèo, đơn sơ, khiêm nhường của nhà dòng. Vậy mà tự
trong lòng tôi thấy thoải mái và không hề vướng bận.
Cuối cùng, tôi cũng được trở về gia đình. Tôi kể chuyện cho gia đình
và My. Đặc biệt, ba đã nhìn tôi với vẻ mặt khó hiểu. Kiểu như, thật không thể
tin nổi, chỉ mới sau 3 tháng không gặp tôi thôi mà. Chuyện gì đã xảy ra với tôi
thế này? Ông ngạc nhiên nói:
“Con có chắc là mình dám theo con đường tu trì hay không? Con đã
nghĩ cho dòng họ hay cả gia đình mình chưa, hay chỉ nghĩ cho riêng ý thích của
mình thôi?
“Con thấy mình hợp với linh đạo và tinh thần của nhà dòng. 6
tháng tuy không dài, nhưng con thấy mình đã thay đổi nhiều điều, tự bản thân
con thấy hài lòng về tất cả những điều con nhận được trong những ngày tháng đó.
Con mong ba hiểu cho.”- tôi nói, cố giữ bình tĩnh để giọng mình bớt run. Thực sự,
lời nói lúc này là quan trọng đến đỉnh điểm.
“Nhưng con có còn nhớ mình là cháu đích tôn của chi tộc họ Trần
Vũ, con là con trai một của ta không?”- dường như sự tức giận đã len lói trong
người cha, gằn lên trong từng tiếng nói mạnh quá mức cường độ bình thường của
ba. Nhưng điều đó không hề làm cho ý chí trong tôi nao núng. Tôi chỉ biết câm lặng.
Lặng lẽ nhìn cây thánh giá được xuyên giây giản dị đang mang theo bên mình.
Không khí cũng lặng tờ. Ba tôi không buồn nói thêm nữa, ông cũng lặng lẽ chắp
hai tay lại và nghĩ suy.
Nhìn ba, với mái tóc đã điểm bạc đăm chiêu. Mặc dù vậy, trong
tôi vẫn giữ một niềm kiên quyết và tin yêu vào điều mình đã quyết định, đã dám
nói ra với người mà tôi vẫn luôn kính yêu nhất. Có thể, ba tôi lo lắng về một
tương lai neo đơn khi tuổi già không có người nối dõi, nhưng với tôi nghĩ, tôi
còn ở trên cõi đời này, thì tôi vẫn là con của ba, là mầm hy vọng ủ trong lòng
ba, mãi mãi. Nên tôi mong ba bớt lo lắng đi phần nào, lời thầm thĩ cầu nguyện với
Chúa. Cuộc hội thoại giữa hai cha con đã rơi vào yên lặng hồi lâu nhưng họ vẫn
ngồi lại bên nhau. Cuối cùng, ba nói:
“Ba đã nghĩ mình có quyền hy vọng nhiều hơn ở con trai, về ngôi
nhà này sẽ có gia đình nhỏ của con sum họp cùng ba mẹ. Nhưng không…”
Câu nói của ba, không ngoài mục đích nào khác, đã nói rõ ra nguyện
vọng đích thực của mình rằng, muốn tôi lập gia đình. Nhưng không… điều đó như
đã là một điều thuộc về định mệnh không thể thay đổi. Như con người tự nhiên của
tôi vốn dĩ là thế! Trách ai bây giờ? Nhưng tôi chắc rằng, tới giờ đây, tôi vẫn
chưa bao giờ cảm thấy hối hận khi mang trong mình những điều tự nhiên nhất mà
Chúa đã tặng ban cho tôi như thế! Vậy rồi, bằng sự thay đổi nào đó âm thầm diễn
ra, cuối cùng, ba vẫn ủng hộ con đường tôi sẽ bước đi phía trước.
Tôi tốt nghiệp đại học, nhưng với tấm bằng cũng chỉ để đó. Ai đó
sẽ nghĩ tôi đã phí phạm những năm tháng mài đũng quần trên giảng đường, tốn
không ít thời gian tuổi trẻ, không ít tiền bạc, công sức, mồ hôi, nước mắt…Nhưng
bản thân tôi thì không, vì tôi thực sự biết mình sẽ thuộc về nơi nào. Trước giờ
tôi là người được tự do khám phá môi trường sống, được trải nghiệm qua những
bài học khó có thể quên được trong đời. Mọi thứ đã trôi qua đều đáng trân quý.
Ngay kể cả dù khi tôi có chia tay My và để chúng tôi tự do bước
về phía chân trời rất khác, thì đó cũng là đáp án vừa vặn cho chúng tôi. Vì nếu
chúng tôi, rồi cũng phải bước đi trên con đường riêng của mỗi người. Gặp nhau,
đồng hành với nhau chừng một đoạn đường đó rồi thôi! Tôi cũng chỉ có thể nhắc đến
tên em trong những suy nghĩ mà thôi. Vì lâu rồi, chúng tôi đã không còn nói với
nhau câu nào nữa. Khi mọi thứ đã quá rõ ràng, chỉ có nỗi niềm riêng chôn giấu
trong mỗi người là không ai hay biết của ai. Phải, cả em và tôi đều đã từng hy
vọng nhiều hơn ở tình yêu đã từng tươi đẹp đó.
Nhưng mọi thứ đã đổi chiều, sau một chuyến đi…
“Anh đã biết trái tim
mình thuộc về nơi nào rồi em à…”- tôi nói, trong một ngày chúng tôi gặp lại
nhau giữa thành phố, sau 6 tháng, tôi dường như tách biệt khỏi thế giới mà em
có thể kiếm tìm.
“Anh sẽ về nơi nao?”- em hỏi anh, giọng mảnh và run.
“Anh sẽ vào đan viện…”- tôi nói chắc và thẳng thắn với em.
“Anh sẽ vào tu viện. Và đương nhiên, rồi em sẽ thành người bị bỏ
lại…Nếu anh đã sẵn sàng với dự định gắn bó với cuộc sống tách biệt như vậy, sao
lại còn bắt đầu với em?”
“Ừ, em cứ xem như mình chỉ mới bắt đầu thôi! Nên hãy để mọi thứ
được nhẹ lòng được không em? Em đã biết chuyện rồi… Dù sao anh đã thấy mình là
người có lỗi. Anh xin lỗi em…được không?”
“Anh biết đó! Em sẽ không thể làm gì khác đi được, nếu anh thực
sự muốn như thế!”
“Này em có biết, em đang làm một việc cao thượng: là nhường lại
anh cho lý tưởng của cuộc đời anh? Mình dừng lại nghe em, chúng ta sẽ bước đi với
những ngã rẽ riêng của mình, mong rằng chúng ta đều bình an và hạnh phúc nhé! Hứa
với anh rằng, em đừng bi lụy quá nhé!”
“Em cũng không chắc nữa…”- giọng em nói mỏng và mông lung.
Tôi ôm em vào lòng ủi an, lời cuối tôi muốn nói:
“Anh thương em!”- chỉ thế thôi!
Thực ra, tôi đã né tránh rằng mình sẽ xài từ “yêu” hoặc “thích”
mà lại chọn từ “thương”. Vì tôi chỉ muốn mọi thứ được nhẹ lòng, không muốn ràng
buộc trong tiếng “yêu” và trách nhiệm của nó.
Tôi đã từng yêu em, nhưng biết tình yêu ấy là không đủ để nắm
tay em đi đến hết con đường dài, cũng không thể cam kết sẽ mang đến hạnh phúc
cho em cả những ngày về sau…
Tôi đã từng yêu em, nhưng mọi thứ lại để đó. Nói không đành lòng
bỏ em ở lại, nhưng cũng chẳng biết làm sao được, trở về như những ngày xưa sao
em? Không được nữa rồi…
Về sau, khi tôi kiên quyết gạt bỏ đi những bận lòng, băn khoăn,
lo lắng thường ngày. Bỏ lại những vướng muộn nơi thành phố. Tôi sắp xếp cho
mình chuyến đi dài về nơi trái tim tôi thực sự hướng về. Đoạn đường xa vắng bỏ
lại sau lưng, nắng trời pha ra nhàn nhạt.
My
Buổi tối những ngày cuối tuần, thường thì, cả tôi và Huy đều
không đưa nhau tới quán xá hẹn hò gì hết đâu. Mà chúng tôi thường tới nguyện đường
để đọc kinh cầu nguyện, sau một tuần học tập và làm việc không ít căng thẳng và
mệt não, để tìm lại chút bình yên cho tâm hồn. Rồi chúng tôi sẽ đi dạo ngoài bờ
kênh Thanh Đa, gió thổi về mang theo hơi nước mát từ mặt sông. Anh mỉm cười với
tôi, còn bàn tay thì đan lấy nhau. Tôi biết, khi tay mình yên trong tay anh,
cũng là lúc tôi tách mình ra khỏi những lo nghĩ ngày thường, chỉ còn lại ánh mắt
hai người nhìn nhau, ấm áp và giàu tin tưởng. Thành phố có anh. Thành phố giàu
tình yêu thương. Bảo sao chúng tôi có thể gắn bó với nhau. Chúng tôi hoàn toàn
bằng lòng với những ngày tháng an yên bên nhau như thế! Mọi thứ đều trong trẻo
và chân thành nhường bao!
Những ngày bình yên cứ thế trôi qua đi. Không một cách nào có thể
lấy lại được, chỉ có thể còn ở lại trong trí nhớ của mỗi người. Mà tiếp đó,
chúng tôi đã phải đối diện với những ngã rẽ. Chúng tôi tốt nghiệp, lao vào đi
làm nhân viên văn phòng mẫn cán, nhọc mệt một chút nhưng tôi biết những gì mình
đang lao lực, ra là để hòng chuẩn bị cho tương lai gọn gàng và đủ đầy. Nhưng có
lẽ mọi thứ đã khác đi sau một chuyến đi của Huy, anh trở về và đơn giản nói:
“Anh sẽ vào đan viện…”
Khi biết mọi thứ không thể thay đổi khác đi được. Chúng tôi đã
đi cùng nhau tới gần như chót đoạn đường đi chung. Thì lời anh nói trên đoạn đường
đó, chắc cũng cần chấp nhận thôi! Chuyện tình cảm đâu có lỗi bao giờ đâu. Chỉ
là người đó đã từng khiến cho ta tin và yêu, vậy thôi! Tôi chỉ với một sự tin
tưởng gần như tuyệt đối, trong vòng tay của Huy, tôi thấy mình mềm ra và thủ thỉ:
“Có thể anh cũng biết…Vì em chỉ nghĩ, mọi thứ dù có đẹp đẽ và
chân thành thật nhưng chúng lại trôi qua quá nhanh, quá chóng vánh! Anh hãy nhớ
đến hình ảnh cầu vồng luôn nhé! Chuyện của mình kiểu như thế đó anh!”
“Anh sẽ nhớ!”
Bầu không khí giữa hai đứa bỗng ngưng đọng lại. Tôi nghe lòng
mình xôn xao, ngập ngừng và bàng hoàng. Trước giờ, tôi biết anh là một người mộ
đạo, nhưng chưa từng nghĩ anh sẽ dấn thân để trở thành một người phục vụ ở nhà
thờ. Đó hẳn là cần rất nhiều sự hy sinh, giữ mình. Nhưng chính sự hy sinh ấy
cũng có một phần bởi tôi góp vào. Khi tôi đành phải lặng quay người đi, lặng
nghe bước chân người tôi đã từng dốc lòng yêu thương đi về phía không nhau.
Tôi mơ hồ sợ hãi, bờ vai run lên yếu mềm. Sự trống rỗng tan ra
trong lòng. Sự ích kỉ trong tôi đã khiến tôi muốn giữ anh mãi ở bên mình. Liệu
rằng, Huy có thể suy nghĩ lại, có thể từ bỏ, để ở lại cùng tôi, trong thành phố
này. Chứ không phải anh sẽ gia nhập vào một tu viện trên một ngọn đồi của cao
nguyên Đà Lạt. Nhưng sau cùng, anh chỉ nói “thương” tôi. Chỉ đơn giản là
thương: thương yêu hay thương hại… cũng sẽ không hơn được nữa rồi! Thực sự, khi
phải thay đổi một thói quen hay làm mất nó đi, luôn cần có thời gian, thậm chí
không thể xác định được là bao lâu?
Chúng tôi tránh mặt nhau liên tiếp… cứ như thể chúng tôi đã xa
nhau cả tỷ năm ánh sáng. Và trong một cuộc gọi sau cuối, anh nói lời chia tay
tôi, trước buổi hôm anh trở đi Đà Lạt.
Tôi đã dặn mình cứng rắn, không thể khóc, vì muốn để cho mọi thứ
được nhẹ lòng và bình thản như anh nghĩ rằng tôi sẽ ổn thôi, dù không có anh đồng
hành. Tôi gật đầu chấp nhận. Và thế giới của chúng tôi tách đôi từ đó!
Dù mãi về sau này, vẫn có những đêm tôi nằm khóc lẳng lặng một
mình với những nỗi niềm xưa cũ, đương nhiên Huy chẳng còn hay biết. Thỉnh thoảng,
Huy vẫn còn ở lại trong những đám mây suy nghĩ của tôi. Chúng tôi chẳng thể gặp
lại nhau được nữa, nhưng những kỉ niệm về người đó vẫn nguyên vẹn một góc nào
đó trong tim tôi.
Suy cho cùng, Huy là một người đã từng khiến tôi hạnh phúc, nhưng
cũng là người mang đến cho tôi những buồn thương. Vì tôi đâu có thể chọn được một
người cả đời sẽ chỉ khiến tôi vui vẻ được, nhưng dẫu sao, tôi và Huy gặp được
nhau cũng là một điều xứng đáng trong phần đời của nhau rồi.
“Thế chúng mình cho nhau thời gian xa nhau bao lâu rồi nhỉ?
2 năm có dư…
Vẫn biết những dư âm về một thời đã xa để lại cũng sẽ kéo sang
quãng thời gian có khi chừng hơn cả gấp đôi ba lần lúc mình được ở bên nhau.
Mình đã từng duy trì một trạng thái yêu cùng nhau, hết mình và sôi nổi. Bảo
quên đi một người đã từng yêu, sao dễ quên được nổi đây?! Có thể không cần nói
ra, không cần viết ra, có thể chối bỏ trên môi miệng… nhưng thực tâm không khi
nào ta có thể xóa nhòa hết dấu vết một thời tuổi trẻ đã biết yêu một người nhiều
tới thế!”- trích từ vài dòng nhật ký tôi viết.
Sau những giờ hành chính trên văn phòng, tôi vẫn dành ra vài
chút thời gian cho bản thân mình, bên ly trà thơm lắng đọng, tôi đã ngồi lại với
chính câu chuyện của riêng mình và viết ra những trang sách cuộc đời mình, như một
cách trải lòng, để ghi dấu tuổi trẻ theo cách của riêng tôi.
Cách
đón nhận của chúng tôi:
My
“Sài Gòn, ngày… tháng… năm…
Anh à!
Có lẽ sau ngần ấy ngày mình xa nhau, anh vẫn là anh, em vẫn là
em. Nhưng dù có gặp lại, mọi chuyện đã qua không thể thay đổi. Nghĩ về anh, là
cho em suy nghĩ về quá khứ đã từng tươi đẹp, đã từng hạnh phúc nhưng cũng không
ít nước mắt đi qua cùng nhau.
Thực sự, yêu một người đi tu đó là một trải nghiệm đáng quý mà
cũng đáng thương anh à! Yêu người ta được một quãng thời gian, thì cũng dành cả
gấp n lần khoảng thời gian yêu đó để tập cách giữ cho bình tâm với hiện tại của
một người ở lại với quá nhiều nỗi niềm riêng.
Em đã yêu được một người tử tế và đoan chính. Người đó thương em
thật lòng, mong muốn những điều tốt lành và giữ gìn cho mình, cho em luôn.
Không đòi hỏi, không ham muốn nhưng quan tâm đủ để em lưu tâm và nhớ thương.
Thương tới mức em luôn tự hỏi, mình phải thương cái người này bao nhiêu là đủ? Anh biết đó, trước giờ em vẫn yêu anh. Yêu một
người mà sẽ chẳng thể ở bên em hoài để quan tâm, chăm sóc, dỗ dành, em cũng
không cần đi khoe với người này, người kia rằng em có người yêu. Nhưng em cần
anh để em lại thấy mình được hạnh phúc, được yêu đến hết mình, chân thành và trọn
vẹn. Em sẽ không giấu lòng rằng đã không biết bao lần em cầu mong cho chuyện của
chúng mình được sinh hoa kết trái, cho anh và em sẽ ở lại bên nhau dài lâu,
cùng nhau đi đến đoạn cuối của cuộc hành trình dương thế.
Yêu anh, em chưa từng nghĩ mình sẽ hối hận. Cứ nhẩn nha cảm nhận
và thương yêu, trải lòng viết ra những trang sách ghi dấu tuổi thanh xuân mình
có. Em không lời lộc gì, tiền bạc thì càng không có nhiều, nhưng được cái em thấy
mình được sống và yêu như thế, dù đã từng mất mát, tổn thương, có những đêm nằm
khóc lặng lẽ, buồn đến xé ruột… kể cũng không hết về nội tâm đan xen của một
người như em.
Em biết ai trong chúng ta cũng là con người bình thường. Như
cũng sẽ yêu và được yêu. Như anh yêu em và chỉ em yêu anh như thế! Đó, ai cũng
từng sống với tình yêu như thế!
Tình yêu của chúng mình tuy có nhỏ giữa lòng thế giới rộng lớn
này. Nhưng thương yêu lại quá thật thà và bao dung. Ai trong chúng ta cũng có
những tình cảm tự nhiên như thế!
Em đã từng cố ru êm mình bằng ý nghĩa, hay cứ yêu anh, phần yêu
đó là của mình, miễn là mình còn yêu anh là được. Vì em biết Huy đã từng yêu em
nhiều tới nhường nào, Huy đã hy sinh vì em nhiều thứ, Huy đã phải chọn lựa giữa
em và những điều khác trong đời... Em biết Huy cũng buồn, Huy cũng chẳng thể
vui. Chúng ta đều thấy nặng lòng và day dứt. Vì em tin những thứ chúng mình đã
từng có với nhau, đâu thể dễ dàng quên đi được.
Em cũng chẳng khác Huy chút nào. Chỉ thấy quá nhiều điều nghĩ đi
nghĩ lại luôn thất tiếc nhớ, luôn thấy không thôi xúc động, về chuyện của chúng
mình. Đã từng rất vui thật, nhưng cũng để lại không ít những luyến tiếc trong
lòng. Lòng có còn nhớ thương thì xin hãy chọn cách ít đau lòng nhất.
Còn Huy, có lẽ chắc anh đã biết con đường anh bước đi đã không
thể cho em chung bước cùng được. Chỉ là một đoạn đường qua rồi, mình đã bước đi
chung bước cùng nhau, có thật đáng quý không anh?
Em không hề muốn giận hờn Huy về bất cứ điều gì. Vì Huy tốt với
em. Chỉ riêng điều đó đã khiến em cảm kích nơi con người anh rồi. Huy đã cho em
cảm xúc thực sự. Điều đó không phải ai khác sẽ mang đến cho em được. Em chỉ thực
sự hơi bàng hoàng khi phải đón nhận và chấp nhận việc mình sẽ không thể ở bên
người mình đã từng yêu thương, đã từng kỳ vọng nơi người đó, nhiều hơn cả những
lời nói trên môi, là những hành động em luôn muốn cả hai chung mình có một
tương lai tốt cùng nhau. Nhưng chúng mình đã không đi cùng nhau được rồi. Đoạn
đường lỡ dở bắt cả hai chúng ta đều phải rẽ, dù ít dù nhiều ai trong chúng ta
cũng không khỏi vướng những tiếc nhớ, buồn thương. Dù chẳng ai trong chúng ta
là người muốn đi mua nỗi buồn cả. Dẫu nỗi buồn đó có thật đẹp, nhưng vẫn gây tê
lòng người.
Dù thế nào thì em vẫn tin những thứ mình có với nhau sẽ chẳng
phai lạt đi, dù cho giông bão thế nào!
Mai sau này, có thể anh thuộc về một nơi khác, anh vẫn là anh,
em vẫn là em, nhưng có thể mình sẽ không thuộc về nhau nữa, tình cảm trao cho
nhau cũng sẽ khác đi, phải không anh?Vì mình không thể song hành được mãi trong
cuộc đời nay với nhau, nên chỉ muốn nhắc nhớ tới nhau trong lời cầu nguyện.
Đôi khi người ta cần chấp nhận đồng hành với nỗi cô đơn của
chính mình, cho đến một thời điểm nào đó, khi mình đủ mạnh mẽ, đủ bao dung, để
niềm tin cho một hành trình mới.
Với ý niệm về cuộc đời và rồi thời gian sẽ đưa chúng ta đến những
điều khác… anh nhé!
Thương mến!
Em
My
Huy
Gấp lá thư nhỏ trong tay, tôi thầm nghĩ ngợi về My- cái tên lâu
nay tôi chỉ quen nhớ đến trong suy nghĩ. Giữa thế giới hơn 7 tỷ người này, bằng
cách quan phòng kỳ diệu của Chúa, chúng tôi nghĩ mình may mắn, vì đã từng quen
nhau, một thời gắn bó sôi nổi, trân quý và thương yêu nhau hết lòng, hết dạ… với
con tim nhiệt tâm của tuổi trẻ.
Rốt cuộc, chúng tôi chỉ gặp gỡ nhau, đi với nhau một đoạn đường
vậy thôi! Rồi mỗi người vẫn còn những nơi để tới…
Khi tôi đã gia nhập vào tu viện, tôi kịp thầm nghĩ, thì hẳn ở một
góc nào đó sẽ giữa Sài Gòn rộng lớn, có thể My vẫn còn buồn. Tôi mong rằng, em
hãy nghĩ, nỗi buồn là một thứ có hạn, rồi cũng sẽ hết đi, rồi sẽ lại thấy mình
vui vẻ theo một cách nào đó được không? Em rồi cũng mãi là một người tôi chẳng
thể yêu được như tình yêu ấy từng tồn tại, từng thương yêu. Vậy mà, dẫu sao,
tôi vẫn muốn thì thầm lời thật tâm, dù không cần em phải hay biết:
“Cám ơn em, vì mình đã từng gặp được nhau trong đời.”
Sau rốt, tôi đã thôi không còn nặng lòng nhiều nữa, mà thay vào
đó là sự thanh thản và nhẹ lòng, dịu êm, khi hướng về hình ảnh một người mình
đã từng dành trọn vẹn những yêu thương.
Cao nguyên- trời sau cơn mưa lành trong, phía xa nắng lấp lửng
trên ngọn đồi cây xanh mượt, hình như có vạt cầu vồng hiện ra sắc màu.
Tôi nhớ về tình yêu tuổi trẻ thật thà mình từng có!
Và thầm cầu mong, Chúa sẽ chúc lành cho chúng tôi, để ai cũng có
đủ dũng khí bước đi trên mọi chặng đường.
Mã số: 17-033
Minh nhỏ là cái tên tôi nhớ đầu tiên khi mới chân ướt chân ráo đến
điểm hoạt động Tông đồ mỗi dịp cuối tuần là Làng trẻ em SOS. Sở dĩ tôi ấn tượng
và nhớ cái tên này vì, Minh là con út trong nhà Mẹ Liên (nhà số 15) và hơn nữa,
trước đây nhà có một anh lớn tên Minh nên để dễ phân biệt, mẹ quen gọi nó là
Minh nhỏ. Ngoài ra, em có dáng người nhỏ nhắn và loắt choắt như cậu bé trong
bài thơ mà tôi được học thuở nhỏ. Em có đôi mắt khá tinh lanh và đang ở độ tuổi
“Đồng cỏ non” – giai đoạn gắn liền với biết bao những trò tinh nghịch và những
chiêu “làm nũng” khiến nhiều người phải chào thua. Vì thế, tôi đặt cho thằng
Minh nhỏ cái nickname “Chuyên viên kiếm cớ” cũng là vì nó thường vịn đủ trăm
ngàn cớ để trốn tránh, không chịu đi chơi với tôi. Ngoài ra, cũng nhờ những
“cái cớ” ấy mà tôi có cơ hội để nói về Chúa cho em.
Mỗi buổi chiều thứ 7, khi
tôi đến Làng, tôi thường dừng xe bên hông nhà, gần nơi cửa sổ phòng ngủ của tụi
nhỏ. Điều đầu tiên tôi cảm nhận được đó là bầu không khí tĩnh lặng và an bình,
nhưng cũng có phần hơi “lạnh lẽo” như trong những bộ phim ma mà tôi từng xem.
Tôi đùa thế thôi! Thực ra, khi tôi đến là lúc tụi nhỏ đang say giấc trưa. Do
đó, nhiều hôm tôi phải “vật lộn” mãi mới kéo được các em, nhất là thằng Minh nhỏ
ra khỏi giấc ngủ đầy mê hoặc ấy. Kể cũng tội vì theo lời mẹ Liên, cả tuần chúng
phải bận rộn và mệt mỏi vì việc học hành nên chỉ có dịp cuối tuần là mẹ cho
phép chúng được ngủ “thả ga”.Tôi nghĩ bụng, thế mà mình lại đến phá bĩnh! Có lẽ,
đối với chúng, giấc ngủ thì quý báu và hấp dẫn hơn nhiều so với những trò chơi
hay những câu chuyện mà tôi bày ra cho tụi nhỏ. Hơn nữa, mẹ cũng chia sẻ rằng,
nhiều khi mẹ cũng muốn làm món này món kia cho tụi nó thưởng thức vào cuối tuần,
nên có khi bữa trưa thường kết thúc trễ và dĩ nhiên là chúng không còn nhiều thời
gian để “nướng” trước khi tôi đến. Tôi nhớ có lần thằng Minh nhỏ khiến tôi
không khỏi buồn cười. Khi tôi vào phòng gọi nó dậy, một tay nó “chiến đấu” với
tôi và xua tôi như đuổi tà; trong khi đó, tay còn lại nắm chặt lấy bình sữa, miệng
nhấm nháp những giọt sữa cuối cùng còn sót lại trong bình, đang khi đôi mắt vẫn
còn nhắm nghiền. Nhìn mà thấy thương ghê! Thế rồi tất cả cũng để phải dậy sau
hiệu lệnh của Mẹ: “Mấy đứa có dậy hay không thì bảo? Các Thầy đang chờ kìa!” và
tất cả, không ai bảo ai, kể cả thằng Minh nhỏ bắt đầu lồm cồm bò ra khỏi giường.
Quay trở lại với “Chuyên
gia kiếm cớ”, thật có lý để gọi thằng Minh với cái biệt danh ấy vì trong lĩnh vực
“kiếm chuyện” này, tôi có đủ lý do để phong cho nó tước hiệu này và nó xứng
đáng với tước hiệu ấy. Cái cớ đầu tiên bắt đầu từ chuyện con cá vàng. Việc mang
cho các em những con cá cảnh này chẳng phải là sáng kiến độc đáo gì nhưng thực
ra là tôi bắt chước từ những người khác. Một chiều thứ 7 đẹp trời, tôi loay
hoay bắt một vài con cá vàng bỏ vào túi nilon rồi hí hửng đem qua cho tụi nhỏ.
Tôi cứ đinh ninh trong đầu là tụi nó rất thích cá vì tôi thấy “thằng Nam” và
“thằng Khang”, anh của thằng Minh nhỏ cũng thi nhau nuôi những con cá phướn,
quê tôi quen gọi là Cá đá vì nó rất hung dữ và luôn chực chờ để tấn công những
con cá khác. Thế nhưng tôi đã lầm to! Thoạt đầu, khi tôi đem cá đến và đứa nào
cũng tranh nhau đòi lấy trước rồi chúng nó cũng kiếm được một cái hồ làm bằng
xi măng cũ kỹ nằm ở góc sân sau nhà để nuôi cá. Thằng Nam thì lanh chanh lấy nước
rồi đổ cá vào hồ, thằng Minh nhỏ cũng xí xọn đòi đi bắt lăng quăng để cho cá ăn
nhưng thằng Khang đã nhanh chân hơn, nên nó đành chọn giải pháp an toàn nhất là
ngồi càng gần cái hồ càng tốt để không một ai có thể cướp những con cá của nó.
Nhìn tụi nhỏ phấn khởi mà lòng tôi cũng vui lây. Tôi hy vọng từ hôm nay mấy đứa
sẽ nghe lời hơn nhờ “những mồi dụ” này. Đùng một cái, thằng Minh nhỏ dở chứng.
Như tôi đã nói từ đầu, nó là một chuyên gia trong lĩnh vực này.
Đến giờ chơi, thằng Minh nhỏ bắt đầu ngồi lì ra ở trước cửa. Tôi
rủ nó:
- Đi chơi không Minh?
- Đi đi mà, anh nói nghe lần sau anh mang thêm cá đẹp đến cho!-
Tôi năn nỉ.
Nó lên giọng thách thức tôi:
- Không thèm! Em lấy cá đá
của anh hai để giết chết cá của anh!”, nó vừa nói vừa vênh vênh cái mặt trông
thật đáng ghét.
Tôi nghe như sét đánh
ngang tai. Hóa ra nó cũng chẳng mấy mặn mà với những chú cá mà tôi cho, và nó
xem chúng chẳng khác gì với mấy món đồ chơi vất vương vãi trên sàn nhà của nó.
Nhìn thằng Minh, tôi liên tưởng đến các em ở Trung tâm thanh thiếu niên 3.Tôi
phân vân tự hỏi sao các em ở Trung tâm này lại quý những con cá mà các anh Ba
thôn mang đến cho. Còn các em ở Làng trẻ em SOS này, nhất là thằng Minh nhỏ lại
không thích thú lắm với những chú cá này. Tôi càng suy nghĩ càng thấy thương mấy
em ở Thanh thiếu niên 3 hơn vì tôi nhận ra một điều khác biệt duy nhất ở 2 nơi
này đó là tình yêu thương. Ở Thanh thiếu niên 3, các em có nhà ở kiên cố nhưng
lại thiếu một Mái ấm thực sự. Các em có những người quan tâm giúp đỡ, nhưng lại
thiếu một trái tim của người làm cha mẹ để tận tình hi sinh và chăm lo cho các
em. Hơn nữa, các em cũng được cắp sách đến trường, nhưng các em thiếu những bài
học làm người; tất cả những gì các em nhận được chỉ là một mớ kiến thức khô
khan và những ánh mắt răn đe. Ngoài ra, các em cũng chẳng có gì để chơi đùa và
thiếu thốn đủ thứ, nên những con cá mà các anh Ba thôn cho quả thực là quý như
vàng. Nói như thế để lý giải tại sao tụi nhỏ ở Làng trẻ em SOS, nhất là các em ở
nhà số 15 mà cụ thể là thằng Minh nhỏ lại không quý những con cá mà tôi đem đến
cho các em. Lý do đơn giản chỉ là vì các em được chăm sóc trong tình yêu thương
của bầu khí gia đình, cả về vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy mà “món quà” mà tôi
mang đến xem ra cũng như bao món quà khác mà chúng vẫn nhận được, thật đáng
thương cho những mảnh đời bất hạnh vẫn đang tồn tại trong cuộc sống này và cũng
tiếc thương cho số phận những con cá bé bỏng của tôi! Thế rồi, tôi đành phải ở
nhà và kiếm một vài câu chuyện để kể cho chúng nghe. Tôi nhớ có lần tôi kể cho
chúng nghe về cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su. Tụi nhỏ rất chăm chú lắng nghe, hết
đứa này đến đứa khác đều há miệng và trợn tròn mắt, nhất là thằng Minh nhỏ vì
xưa nay chúng chưa từng được nghe câu chuyện nào “kinh dị” như thế. Kể là thành
công bước đầu của tôi vì tôi đã kích thích được trí tưởng tượng và tò mò của
chúng. Những ngày kế tiếp, chúng liên tục thắc mắc với tôi về Chúa và về đạo
Công giáo. Có lần thằng Minh nhỏ hí hửng khoe với tôi: “Anh ơi, em mới nhìn thấy
Chúa đó!”. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Em nhìn thấy ở đâu thế?
Thằng nhỏ leo lên một tảng đá to trước nhà, tay chỉ về phía xa
xăm.
- Anh nhìn kìa, Chúa đó! Trên thánh giá ở đàng kia đó. Anh nói
em là Chúa bị treo ở trên đó mà!
Tôi phì cười! Thực ra thì thằng nhỏ chỉ tay về phía ngôi thánh
đường cách nhà của tụi nhỏ không xa, và trên chóp đỉnh của tháp chuông đó là biểu
tượng thánh giá. Thằng nhỏ thật đơn sơ và dễ thương! Tôi chợt nghĩ tới đoạn lời
Chúa vọng lại bên tai “Ai không trở nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời” và quả thực, Nước Trời là của những ai giống
như chúng!
Thú thật, nhiều lúc tôi đành “bó tay” trước những câu hỏi đầy
“thơ ngây” nhưng rất hóc búa của tụi nhỏ. Tôi hạ quyết tâm rằng, cứ nói trong
phạm vi hiểu biết của mình, phần còn lại để “Chúa lo”!
Tạm gác lại chuyện của những
con cá, “chuyên gia” Minh nhỏ tiếp tục làm tôi giở khóc giở cười với sự lì lợm
của nó. Một ngày thứ 7 nọ, tôi đến nhà số 15 như thường lệ. Tôi nghe những “hiệu
lệnh” quen thuộc phát ra từ cửa sổ phòng ngủ của tụi nhỏ nhưng chúng vẫn cố gắng
nướng thêm một lát; thế rồi tôi bước vào phòng, sau một hồi “vật lộn” với thằng
Minh nhỏ, cuối cùng nó thất bại và đành phải thức giấc. Vẫn câu hỏi cũ, tôi
quay sang hỏi nó khi nó lủi thủi bước ra từ nhà vệ sinh.
- Minh nhỏ hôm nay đi chơi với anh không?- Tôi mau mắn hỏi.
Thằng nhỏ chần chừ một lát rồi khẽ gật đầu. Lòng tôi mừng thầm vì
không biết hôm nay trời xui đất khiến ra sao mà nó gật đầu cái rụp để đi chơi với
tôi. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của bao lần bị nó “giăng bẫy”, tôi cũng hơi nghi
ngờ. Sau khi “dụ” được thằng nhỏ tôi liền ra ngoài sân đứng đợi. Vì hôm đó trời
nắng gắt nên tôi tìm một bóng cây để đứng đợi. Tôi mòn mỏi chờ đợi và nghi ngờ
có chuyện gì không ổn đã xảy ra. Y như rằng, thằng Minh lấp ló sau cửa, thò cái
mặt cau có ra và nói giọng giận dỗi:
- Em không đi nữa đâu, ai bảo
anh không chịu đợi em!
Thực ra chỗ tôi đứng không xa lắm, chỉ cách hiên nhà khoảng chục
bước chân thế mà thằng nhỏ kiếm chuyện làm eo. Thiệt tình hết chỗ nói, tôi đành
bó tay và hơi ấm ức vì lại thua thằng Minh. Thật đúng là “chuyên viên kiếm cớ”.
Không dừng lại ở đó, khi tôi đang ở sân chơi với các em nhỏ khác, bất thình
lình tôi thấy Minh nhỏ đang chơi đùa vui vẻ ở một góc sân. Tôi chạy lại hỏi nó:
- Ủa em lên đây lúc nào thế?
- Hi hi! Em mới lên lúc nãy.- Nó đáp giọng tỉnh queo.
Rồi tôi dẫn nó đến chơi với các bạn trong nhóm của tôi. Gần giờ
ra về, nó lật đật chạy lại chỗ tôi.
- Anh cõng em về đi!- Nó khẩn khoản xin tôi.
Tôi trả lời hơi lạnh lùng:
- Lớn rồi còn bắt anh cõng gì nữa! Thôi đi bộ về nhà với anh và
các bạn cho vui nè!
Nó không nghe trái lại cứ khăng khăng đòi tôi cõng về với lý do
đơn giản rằng:
- Em làm mất dép rồi, đi chân không về đau chân lắm!
Ôi giời đất ơi! Tôi thiệt cũng hết cách với thằng nhỏ này. Thế
là, tôi quyết định sử dụng chiêu bài cũ là kể chuyện cho chúng nghe, xem ra
cách này luôn công hiệu. Rồi thằng nhỏ đành phải lẽo đẽo đi theo tôi, vừa đi vừa
nghe tôi kể chuyện và liên tục hỏi tôi vô số câu hỏi; sau cùng thì chúng tôi
cũng về được đến đích, đó là ngôi nhà của thằng Minh nhỏ.
Một điều đáng lưu ý ở đây, đó là mỗi ngôi nhà nơi đây là một mái
ấm thực sự với sự hiện diện đầy tình mẫu tử của một “người mẹ” (dĩ nhiên là
không phải người đã sinh ra chúng vì mỗi một em trong ngôi làng này đều có những
hoàn cảnh rất éo le và đáng thương; do thế, đa phần các em không biết rõ, không
muốn hay thậm chí chưa một lần được gặp mặt cha mẹ mình. May mắn thay, mỗi “người
mẹ” trong những mái ấm nơi làng SOS này là những vị “cứu tinh” thực sự dành cho
các em. Riêng ngôi nhà mà tôi có dịp để đến và sống với tụi nhỏ, tôi cảm nhận
chúng có một người mẹ tuyệt vời. Tuyệt vời là vì mẹ đã hy sinh tất cả tuổi
thanh xuân và hạnh phúc riêng tư của đời mình để chăm lo cho “đàn con” – những
người mà mẹ chưa một lần “mang nặng đẻ đau”; thế mà, mẹ vẫn yêu thương và lo lắng
cho chúng hết lòng! Có lẽ, mẹ có được tình yêu cao vời như thế là vì mẹ được sinh
ra và lớn lên trong một môi trường đạo hạnh, gia đình và hàng xóm đều là các
Kito hữu; được tham dự các giờ đạo đức, đọc kinh, lần chuỗi Mân côi và Thánh lễ
mỗi ngày trong một xứ đạo ấm cúng tình Chúa và tình người. Vì lẽ đó, tôi thấy
đâu đó trong những ngôi nhà ở làng SOS này hình bóng của Thiên Chúa và Mẹ
Maria, có thể là trên những tờ lịch treo tường hay qua những chuỗi hạt nho nhỏ
đeo ở cổ tay. Không dừng lại ở đó, vào mỗi dịp cuối tuần hay trong những dịp đại
lễ như Lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh, các em cũng được mẹ dẫn đi tham dự các lễ hội
và nhất là đến nhà thờ để tham dự các cử hành phục vụ. Tuy trong làng, theo lệ
thường, các em được tự do chọn lựa tín ngưỡng khi đến tuổi khôn lớn, nhưng tôi
nghĩ rằng, một cái cây hay một bông hoa muốn tươi tốt và phát triển mạnh cần phải
được chăm sóc kỹ lưỡng ngay trong giai đoạn đầu đời. Tương tự như thế, những việc
mẹ làm cho các em, tôi nghĩ cũng như những hạt mầm non nớt được chăm bón mỗi
ngày, chắc hẳn một ngày không xa sẽ vươn lên mạnh mẽ và trổ sinh hoa trái. Cộng
thêm vào đó, những hình ảnh cao đẹp mà mẹ để lại cho chúng sẽ là những gương
sáng và là những dấu ấn khó phai trong lòng chúng!
Giờ đây cứ mỗi thứ 7 cuối
tuần, tôi mong được đến Làng trẻ em SOS để được hồi hộp gặp bọn trẻ và nhất là
thằng Minh nhỏ. Nhìn cái bộ mặt rầu rĩ và đôi mắt còn dính ghèn xanh, chắc hẳn
ai cũng cho rằng nó đang ngái ngủ. Riêng tôi lại nghĩ khác, tôi nghĩ rằng cái
lý do buồn ngủ chỉ là một phần nhỏ và cái lý do quan trọng hơn đó là dường như
nó đang suy tính xem hôm nay nó sẽ giở “chiêu trò” gì ra để đối phó với tôi. Dường
như lúc nào nó cũng cầm trên tay một quyển “Bách khoa toàn thư về các cái cớ” để
khi tôi vặn hỏi là nó có sẵn ngay đòn đáp trả lại tôi. Tạ ơn Chúa vì đó là những
thời cơ ngàn vàng Chúa đã ban để tôi được nói về Ngài cho các em. Cứ thế, tuần
nào nó cũng dành cho tôi những bất ngờ thú vị và chắc rằng còn vô số những cái
cớ mà tôi sẽ phải đối đầu; nhưng không sao, tôi thích được như thế và tôi háo hức
chờ để được tiếp chiêu! Ước mong tình yêu thương mỗi người trao cho nhau luôn
mãi thắm nồng và tình Chúa được triển nở ngày một hăng nồng hơn ở ngôi làng nhỏ
bé nhưng ấp ám này.
BẢN
THỂ LỆ GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập
nhật cho cuộc thi lần thứ năm - 2017
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục
Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng
của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt
Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi
được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm
trao giải một lần.
1b. Riêng lần thứ sáu (2018)
sẽ có việc tổng kết các bài đạt giải 5 năm trước về tài năng (Tác giả có nhiều bài
đạt giải cao), về nhiệt tình (Tác giả gởi nhiều bài dự thi và đạt giải liên tục
nhiều năm), về triển vọng (Tác giả trẻ tuổi nhất đạt giải nhiều lần nhất), về
phong trào vv… Ngoài ra sẽ vẫn đón nhận bài dự thi bình thường như các năm trước
và vẫn có khung giải thưởng từng năm như các năm trước. Sẽ không hạn chế số lượng
bài dự thi của cùng một tác giả. Những tác giả có từ 5 bài trở lên được vào
chung khảo sẽ nhận được những phần thưởng đặc biệt, đồng thời sẽ khuyến khích tập
hợp thêm những truyện khác của mình để in thành những tuyển tập riêng trong Tủ
sách Nước Mặn.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài
giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40).
Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi.
Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không dài quá 4000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là sáng
tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm
gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm
khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài:
Năm 2017, Hội thánh Công giáo có hai kỷ niệm lớn, Giải Viết Văn
Đường Trường xin được chọn làm chủ đề cho cuộc thi lần thứ V:
– 100 năm Đức Mẹ Fatima và việc thực hiện lời mời gọi hoán cải của
Mẹ trong đời sống người tín hữu từ ấy đến nay.
– 500 năm Hội thánh Công giáo và Hội thánh
Tin lành cùng nhìn lại cuộc cải cách của Lm Martin Luther. Người
Công giáo cần học hỏi những gì nơi anh chị em Tin Lành và có những gì cần giới
thiệu với họ? Đã có những nỗ lực nào cho tình hiệp nhất và còn phải làm gì thêm
nữa?
Ngoài ra, quý tác giả cũng có thể tham gia với những tác phẩm về
các chủ đề khác của Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi
(riêng năm thứ sáu 2018 không giới hạn số bài), có thể gửi chung một lần hoặc
nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định
dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: tên thánh, họ và tên, bút danh,
năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện
thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần
ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi
chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com
và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về
muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15
giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được
hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên Facebook Văn thơ
Công giáo https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/,
trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ
Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu
giải thưởng
Mỗi
năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một
giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai
giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba
giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15
giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển
tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có
nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển
tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền
giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ
trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải
thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1.
Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên
Facebook Văn thơ Công giáo của Giải VVĐT tại
https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/
Mời độc giả tham gia bình chọn theo thể lệ trên FB.
2.
Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép
của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời
được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ
trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116
Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com
– Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2016
(Cập nhật ngày 15-10-2016)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh
(Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa &
Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn