GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2017
BẢN TIN 08
Thưa quí độc giả và quí tác giả,
Mở đầu bản tin, chúng tôi xin có một
thông báo ngăn về cuộc thi sang năm, 2018. Để kết thúc giải Viết Văn Đường Trường,
trong cuộc thi lần cuối, ngoài những giải thưởng dành riêng cho từng truyện như
các năm trước, sẽ có những giải thưởng dành cho các tuyển tập truyện ngắn, tức
là những chùm truyện từ 10 truyện trở lên (kể cả những truyện đã từng gửi dự
thi nhưng không đạt giải nay chỉnh sửa lại). Chúng tôi thông báo sớm để các tác
giả có thể chuẩn bị ngay từ bây giờ. Các chi tiết liên quan sẽ được nêu rõ
trong bản thể lệ sẽ công bố vào dịp trao giải 22-9-2017.
Trở lại chủ đề cuộc thi năm nay,
trong một tập giáo lý căn bản của Chương trình Giáo lý Phổ thông, các em nhỏ được
học:
Cả Công giáo lẫn Tin lành,
Đều là con Chúa, là anh em nhà.
Thế nhưng khi đã có chuyện sứt mẻ từ
nửa ngàn năm qua, việc tìm lại hiệp nhất không dễ. Với sức người, dường như
không thể nào được, nhưng với ơn Chúa, đường về hiệp nhất chỉ có hoặc xa hoặc gần,
sớm muộn thế nào cũng tới đích. Một giải pháp thực tế đã đạt được ở đầu thế kỷ
XXI này dành cho những cộng đồng Anh giáo quay về hiệp nhất với Giáo hội Rôma
là những giáo phận tòng nhân. Có thể
nói là tương tự như một hội dòng giáo hoàng. Các thành viên một dòng giáo hoàng
có thể phục vụ tại nhiều giáo phận khác nhau, tuy nhiên về mặt pháp lý giáo hội,
họ trực thuộc Bề trên thượng cấp của Dòng chứ không trực thuộc Giám mục địa
phương. Sắp tới đây, những Kitô hữu thuộc về Huynh đoàn Thánh Piô X, được hội nhập lại vào Hội thánh Rôma cũng sẽ
theo quy chế ấy. Nhiều nhóm khác nhau với lễ nghi riêng và sinh hoạt riêng
nhưng vẫn hiểu nhau và hiệp thông với nhau sâu xa trong cùng một ngôn ngữ của đức
tin và tình yêu. Chúa Thánh Thần đã thực hiện điều ấy trong dịp lễ Ngũ Tuần sau
ngày Chúa Kitô Phục sinh. Những bước tiến của một trăm năm qua và đặc biệt là
năm mươi năm qua, từ Công đồng Vaticanô II trở lại đây, cho ta thấy tràn trề hy
vọng.
Những gợi ý ấy có thể phần nào trấn
an nỗi băn khoăn trong lá thư của một tác giả gửi kèm với bài dự thi:
“Con xin gửi Ban Tổ chức và Quý Cha truyện ngắn thứ ba dự thi
VVĐT năm 2017. Tuy đây là bản ghép của những câu chuyện có thật song nó khá
điển hình và bản thân con vẫn thấy khổ tâm khi viết ra, một số vấn đề “khá
nghiêm trọng”, con chỉ dám “nói bóng nói gió” trong truyện
thôi. Vậy nên nếu truyện không phù hợp với tiêu chí của cuộc thi, kính xin Cha
cứ loại sớm ạ.
Con xin phép được kể với Cha về hành trình con đi sang giao lưu
với người Tin lành, hơi dài dòng một chút, con hy vọng Cha dành chút thời gian
nghe tâm sự của con, những trải nghiệm và một vài cuộc khảo sát của con.
Con đã theo hướng của Đức Thánh cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm
vui của Tin Mừng” để đi ra. Thế nhưng về tông huấn này, con thấy chỉ có các vị
dự tu (có ý định đi Xơ, đi Thầy) biết đại ý, còn hầu hết giáo dân chưa từng
nghe!
Còn về vấn đề “Đại kết”. Nơi những người Công giáo con khảo sát,
hầu như họ không hề biết đến “Đại kết”, bao gồm cả giáo dân, giáo lý viên, thậm
chí cả các vị dự tu! Khi con gợi đến “Đại kết”, người ta thậm chí còn cười chê
con “ăn cơm tấm nói chuyện Quốc gia, lo mà giữ đạo đi”! Về phía người Tin lành,
họ có biết về “Đại kết”, song suy nghĩ của họ là “Cùng tin một Chúa, vậy là
hiệp nhất rồi, chẳng cần bày vẽ hình thức; hơn nữa, người Công giáo bảo thủ
lắm, không thể nói chuyện được!”. Còn các Đấng, các Bậc tức là các Linh mục và
Mục sư con xin gặp thì lại có điểm chung. Cả hai bên đều bảo con: “Đại kết là
chuyện vĩ mô, là việc của thượng tầng, còn giáo dân, tín hữu nên
tập trung cầu nguyện, học giáo lý đức tin và sống đạo thì hơn”. Theo thiển nghĩ
của con, những hệ phái có người đứng đầu như Chính Thống và Anh Giáo, may ra có
thể bàn về chuyện hợp nhất, còn Tin lành thì e là quá khó, vì họ không có người
đứng đầu!
(Xin đính chính ngay: Bạn đừng quên tất cả mọi Kitô hữu đều có một
người đứng đầu là chinh Chúa Kitô. Chỉ cần nhớ sự thật ấy, mọi chuyện sẽ hoàn
toàn khác.)
Chỉ “giới trẻ ham chơi” là có quan tâm đến vấn đề “Đại kết”. Con
đã giúp nối kết hai nhóm giới trẻ hai bên (khoảng dăm chục người) giao lưu
thông qua các buổi sinh hoạt chung. Song tuy con đã dặn dò từ trước, việc giao
lưu không được suôn sẻ lắm. Một số bạn trẻ Công giáo không đồng ý việc các bạn
trẻ Tin lành chỉ đứng im mà không hát bài “Xin vâng”, cho rằng như vậy là họ không
có tinh thần hiệp nhất, vì bài hát kính Đức Mẹ ấy nào có đụng chạm gì tới giáo
lý Tin lành đâu! Việc ấy dẫn tới chỗ bất đồng khi trao đổi về “hôn nhân khác
đạo”. Cả hai bên đều sợ lấy người ngoài Kitô giáo, vì khác đạo sẽ dễ mất đức
tin. Các bạn trẻ Tin lành cho rằng lấy được người Tin lành (là tốt nhất), nếu
không thì lấy được người Công giáo cũng tốt tương đương vì nếu lấy người Công
giáo thì chẳng phải là “hôn nhân khác đạo”. Đang khi đó các bạn trẻ Công giáo
cho rằng “lấy người Tin lành để rồi suốt ngày cãi nhau Đức Mẹ có đồng trinh
trọn đời hay không ấy à, lấy người Tin lành để mà bỏ Đức Mẹ thì lấy làm gì, thà
lấy người ngoại còn hơn”! Cuối cùng, chị trưởng nhóm Emanuel bên Tin lành phải
dàn hòa: “tìm điểm chung thì nối kết, tìm điểm khác sẽ chia xa”, lúc ấy xung
đột mới giảm nhiệt, song vẫn âm ỉ mãi…
Vậy nên, con bạo gan nghĩ là, trừ phi Chúa làm một cuộc bão
giông thì Cây Mẹ và các Cây Con mới chịu liên kết với nhau thành một khối. Bằng
không Đại kết mãi mãi chỉ là một phong trào”.
Quả thực, đó là những thực tế vẫn xảy ra hàng 500 năm nay. Khi
tiếp xúc với anh chị em các hệ phái khác, hầu hết chúng ta đều thấy đó là việc
quá khó. Thế nhưng chúng ta vững tin vào ơn Chúa, chỉ biết nỗ lực hết sức, rồi
việc còn lại Chúa sẽ làm.
Hiệp thông với nỗi khắc khoải của tác giả lá thư, chúng tôi xin
mời quý vị và các bạn dừng lại phút giây và cùng nhau cầu nguyện: “Lạy Chúa,
xin hãy ban cho các tín hữu Công giáo những ơn mà Chúa đã ban cho anh em Tin
lành và xin cũng ban cho anh em Tin lành những ơn mà Chúa đã ban cho các tín
hữu Công giáo.”
Xin hãy tiếp tục tinh thần cầu nguyện ấy, đang khi đọc 7 truyện
mới của lần này, vừa được chọn vào vòng sơ khảo.
Qui Nhơn, ngày 02-4-2017
BÀI DỰ THI
Mã số: 17-069
- Bố thương con mà!
Mắt Lam bật lên ánh nhìn lấp
lánh, gợn một chút hi vọng và bình an khi nhìn thấy anh, cho dù phần bình an đó
được giấu kín trong hàng vạn lớp đớn đau mà Lam phải chịu. Câu nói của anh như
liều thuốc bổ chất lừ xoa dịu tâm hồn Lam sau một khoảng thời gian dài u uất. Bất
chợt, Lam rơi nước mắt, những giọt nước mắt của sự hạnh phúc dâng trào từ đáy
lòng khao khát ước mong.
Phía ngoài xa, trăng rơi đầy
mặt biển. Lam ngậm ngùi nhìn biển rồi nhìn anh, cô cảm nhận Mẹ đang ở thật gần
và nhẹ nhàng an ủi cô.
*
* *
Lam dân vùng biển, nơi khúc
ruột miền Trung. Cả làng cô sống bằng nghề chài lưới. Đêm về, nhà nhà lại chong
đèn giữa biển khơi vì vậy ai cũng mặn mùi biển, da thịt rin rít sạm đen. Dẫu
cho người dân đầu tắt mặt tối ngoài khơi, cuộc sống trong làng vẫn cứ bấp bênh,
bữa đói bữa no, khó khăn lắm mới có được của dư của để. Năm nào biển động nhiều,
bão đua nhau vào làng thì vất vả hơn. Mùa bão về, trên bến đầy ắp tàu thuyền
neo đậu, chúng nằm yên đấy nghe tiếng biển thét gào vang vọng khắp nơi.
Cuộc sống của Lam được ướp bằng
vị mặn của muối, của những mắt lưới bắt cá, vừa gỡ vừa chờ cha, chờ chồng về từ
những chuyến khơi xa. Cũng nhờ ngóng trông vậy, Lam mới quen biết và cưới anh.
Từng ngày anh ngoài khơi dài đăng đẳng như đợi ngày được bước vào nhà thờ để
làm đám cưới lúc thuở còn yêu. Anh đi vậy, Lam chẳng chút yên lòng.
Lam vẫn còn nhớ như in mọi thứ.
Năm đó cô còn nhỏ lắm, biển động, gió giật mạnh nên không ai đi biển được. Nghe
tin bão tan, mọi người liền hồ hởi ra biển, hy vọng kiếm được nhiều cá bù lại
cho những ngày sóng lớn đã qua. Ba và anh hai Lam cũng đi. Thiên nhiên mà, rộng
lớn bao la, con người lại nhỏ bé giữa trùng khơi. Ai ngờ được, bão còn, gió cuồn
cuộn thổi mạnh hơn lần trước. Mẹ, Lam và hai đứa em ngồi co ro trong nước mắt,
chỉ biết lần chuỗi và đọc kinh. Gió giật từng cơn như muốn cuốn phắt đi mái nhà
ủ dột trên đầu Lam. Gió như xé nát cõi lòng sợ hãi trong đêm tối. Trong tiếng
thét của biển, Lam nghe tiếng bước chân dồn dập rồi tiếng gõ cửa, tiếng hét của
anh hai. Những lời anh hai nói hôm đó vẫn ám ảnh Lam mãi đến bây giờ: “Sóng đập
lật thuyền, cha mất tích rồi”. Ngay lúc đó, Lam mới cảm nhận được rõ, nhà Lam
đã thực sự mất đi tấm mái duy nhất để chở che. Đóng sầm cảnh thê lương ấy là tiếng
khóc than của gia đình Lam, lẫn với tiếng gió cuộn tiếng sóng đầy bi ai trong một
đêm dông bão.
Nhưng bây giờ, cảm giác không
yên lòng như ngày trước đã vụt mất. Cách đây mấy tháng, cả làng Lam náo loạn.
Cá, tôm nỗi bồng bềnh trên biển rồi dạt vào bờ, dạt vào làng Lam. Khung cảnh
tang thương lạ lẫm chưa ai thấy bao giờ. Người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ, nhưng
không phải khóc cho người thân, cho con người mà là khóc cho những sinh linh nhỏ
bé đang nằm lênh đênh trên mặt nước, nằm bất động trên bờ. Vài ngày sau, gió
đưa những mùi ươn tanh hôi thối vào làng, mùi sộc vào mũi khiến mọi người khó
chịu. Có người đã ôm con và gia đình bỏ đi nơi khác, người thì dự trữ thức ăn
trong nhà rồi đóng cửa suốt ngày. Chợ búa vắng teo, bến cá cũng thôi hoạt động.
Chẳng còn ai đi biển. Cá không bán được, muối, mắm thương lái chẳng thu mua. Đã
vậy những thực phẩm khác lại tăng vọt chóng mặt. Biển không bão nhưng bến cảng
vẫn lắm thuyền neo yên.
Dịp đó, báo đài dậy sóng, đưa
tin rầm rộ mấy tháng liền, nhưng một vài sự thật vẫn bị che đậy. Nghe đâu, do
cái nhà máy sau hòn đảo trước mặt làng Lam gây nên. Những độc tố sinh học hay
kim loại nặng cứ ồ ạt xả xuống biển. Một thời gian dài đã ngấm vào mọi thứ dưới
nước và gây nên hậu quả như bây giờ.
Được một thời gian, mọi thứ
trong làng cũng trở lại ổn định hơn chút. Mọi người không bám được biển, chính
sách đền bù lại không thỏa đáng nên phải tìm cách khác để mưu sinh. Nhưng ngược
lại, một số gia đình trong làng lại khác đi, lâu nay êm ấm giờ thì điêu đứng, dễ
đỗ vỡ trong cuộc sống gia đình. Gia đình Lam không phải là ngoại lệ. Cha xứ
đang tìm mọi cách để níu kéo và gìn giữ hạnh phúc cho các tổ ấm của đoàn chiên
mình.
“Con nghe nói, con Tư Thảo ôm con đi khỏi xứ rồi cha ạ! Chồng nó giờ
cứ số đề miết thôi. Thằng Ba Xuân nghe đâu cũng nợ nần chồng chất!”- Ông biện
xóm Thánh Tâm vừa rót trà vừa báo cáo tình hình của khu giáo mình cho cha xứ.
Cha Thiện lắc đầu, gương mặt
hằn nét suy tư. Không phải cha muốn buông xuôi nhưng cha cảm nhận được gánh nặng
đang đè lên đôi vai mục tử của cha ngày càng nhiều. Người dân làng chài này vốn
hiền lành và bình dị lắm nhưng sao bây giờ lại khác đi, cách xa Chúa như vậy.
Cha đưa mắt nhìn về phía biển như muốn nói điều gì. Như tự nhủ phải vững vàng để
giữ lấy những điều tốt còn sót lại và tìm hướng giải quyết cho bà con nơi đây.
*
* *
Xế chiều, trời vẫn còn một
vài chùm nắng héo, chồng Lam lại say:
- Dương! Mi mô rồi! Mua cho
tau hai chai nữa coi.
- Hắn đi nhà thờ rồi nỏ ai
mua mô. Uống chừng nớ là đủ rồi! – Lam buông tiếng thở dài, trả lời chồng.
- Lại nhà thờ, lại Chúa, lại
Mẹ. Chúa Mẹ nặng tai lắm, kêu xin nỏ chịu nghe… tới mần chi nữa – Anh lải nhải
trong hơi men như trách móc – Chúa ơi! Chúa trả cá, trả biển lại đây đi.
Lam bỏ dở mớ rau đang làm, chạy
đến bịt chặt miệng chồng:
- Phạm thánh đấy nghe chưa, người ta nghe được
là chết bố anh đó?
Anh kéo tay Lam ra khỏi miệng:
- Tau cứ nói đó... Tau nỏ sợ
ai hết!
Lam nhìn anh lắc đầu ngao
ngán rồi mím môi thở dài. Cô trở về bên mớ rau đang làm mặc cho tiếng chửi đổng
vẫn dội ngược vào tai. Đây chỉ là một phân đoạn trong những chuỗi ngày say khướt
sớm chiều mà Lam phải gánh chịu. Trong tâm thức, Lam hiểu vì sao anh thay đổi
như vậy. Hoàn cảnh đưa đẩy, số phận run rủi dù muốn thoát ra nhưng không dễ.
Cũng như bao người dân làng chài, anh bị sốc trước thảm cảnh quê hương bởi con
thuyền lớn anh vừa mua được sau bao năm tích góp giờ chỉ neo yên nơi bến. Những
lần Lam và con đưa tiễn anh trước chuyến đi lâu ngày, những đầu sóng ngọn gió
ngoài khơi xa đối với anh giờ sao quá xa vời. Anh nhớ cái tấp nập của bến cảng
mỗi khi tàu thuyền trở về, những lần chở Lam ra tận xã bên để bán những con cá
được giá. Những hình ảnh đó vụt tắt quá nhanh khiến lòng anh trống vắng. Anh cần
một cái gì đó để giải khuây. Nhưng anh đã sai khi tìm đến rượu.
Chiều qua, Lam nghe đứa con
gái lớn nói mấy câu mà lòng bứt rứt. Đêm về, cô chỉ biết nằm nghiêng quay lưng
vào con. Lam không muốn con thấy cô buồn, mắt cô sưng húp vì khóc, vì thương.
“Mẹ cho con nghỉ học đi! Con vô thành phố làm việc kiếm tiền để nhà mình đỡ khổ
hơn”. “Không! Cả đời mẹ bám biển để nuôi con, giờ người ta trở mặt với biển,
con phải học để cứu biển, cứu cả nhà mình”. Nói xong, Lam quay lưng đi vào nhà.
Lam sợ ánh mắt thất vọng của con, sợ giọt nước mắt đã ứa ra nơi khóe mắt của cô
bé.
Sau những lúc như vậy, Lam chọn
bóng tối làm chỗ ẩn nấp lý tưởng để rơi nước mắt! Trong tấm màn đen lớn ấy, cô
như lẩn trốn mọi thứ, chỉ lần chuỗi và khấn xin Đức Mẹ. Lam để mặc cho những giọt
nước mắt cứ tuôn vì chẳng ai nhìn thấy. Cô muốn chịu đựng một mình, không muốn
ai hiểu quá rõ về cảm xúc của bản thân! Đúng là Lam buồn vì chồng hời hợt thiếu
trách nhiệm, dửng dưng với gia đình. Nhưng ai thấu được ngay lúc đó, trái tim
cô cũng đau da diết vì cảm thấy bất lực khi không thể thay đổi được gì cho cuộc
sống hiện tại. Đâu phải lúc nào cô cũng mạnh mẽ? Chẳng qua là chưa tới lúc để gục
ngã.
* * *
Xứ đạo của Lam chuẩn bị mừng Lễ bồn mạng Đức Mẹ Fatima.
- Tôi biết bà con đang phải đối
mặt với những khó khăn rất lớn nhưng tôi sẽ cố gắng giúp mọi người có một ngày
lễ bổn mạng giáo xứ ấm cúng. Hy vọng năm sau, kỉ niệm một trăm năm Đức Mẹ hiện
ra ở Fatima, xứ mình sẽ làm lễ to hơn.
Cha Thiện vừa động viên vừa
phát động chương trình để chào đón đại lễ của giáo xứ. Cha muốn các hoạt động ấy
có thể an ủi bà con trong xứ phần nào. Nhiều chương trình diễn ra cùng lúc cho
mọi người tham dự và sẽ kết thúc bằng một Thánh Lễ trọng thể để tổng kết. Cha
cũng hứa sẽ cố gắng giúp cho xứ đạo một điều rất đặc biệt trong ngày hôm đó.
Ngày hôm sau, ông trùm Nhiệm dán một thông báo lớn trước bản tin
nhà thờ. Thông báo gồm nhiều mục: sinh hoạt, từ thiện và đạo đức thiêng liêng
cho bà con. Như mọi năm, Quỹ “Mẹ biển cả tình thương” cho các gia đình khó khăn
sẽ được thực hiện. Đặc biệt hơn năm nay có thêm cuộc thi viết cho các em thiếu
nhi với chủ đề “Về với Mẹ” để khuyến khích tinh thần hiếu học vốn có của các em
trong giáo xứ.
Những phong bì hình chiếc
thuyền như giấc mơ được sớm căng buồm ra khơi vừa được mấy người trong ban hành
giáo khẩn trương thiết kế và in ấn xong. Các ông biện liền chuyển đến từng gia
đình trong khu giáo. Vốn dĩ, cha Thiện biết quỹ phát động năm nay sẽ ít hơn mọi
năm nhưng cha vẫn phải tổ chức. Cha hiểu được sự quan tâm chia sẻ là rất quan
trọng trong những lúc như thế này. Dù ít ỏi nhưng đủ để giúp bà con sống luật
yêu thương giữa bộn bề của cuộc sống, giúp họ biết đồng lòng để vượt qua khó
khăn.
Những ngày cận kề đại Lễ, dù
vẫn còn buồn biển, buồn cuộc sống nhưng cả xóm đạo cứ rôm rã, nhộn nhịp như
ngày Tết. Đức tin của bà con khiến họ quên đi những vất vả đeo bám họ lâu nay.
Mỗi người một công việc, ai nấy đều chạy nước rút trong những khâu cuối cùng. Số
ve chai thu gom đã được bán để đưa vào qũy quyên góp. Những phần quà được xếp gọn
gàng trong hội trường của giáo xứ chỉ chờ ngày trao tay. Các bà trong hội Hiền
Mẫu loay hoay quét dọn khuôn viên giáo xứ. Mấy ông trong ban hành giáo chăm
chút từng chậu hoa, treo lên những dây cờ rực rỡ khắp nhà thờ để chuẩn bị cho
Thánh Lễ.
***
Ngày bổn mạng Đức Mẹ Fatima
cũng đến. Giờ chầu kết thúc Tuần Cửu Nhật dâng lên Mẹ hiệp ý cầu nguyện cho
giáo xứ vừa xong. Cha Thiện đi dọc hành lang nhà thờ, tay cầm tràng hạt Mân
côi. Ông Khánh trưởng ban giáo lý giáo xứ chạy vào tìm gặp cha.
- Mấy bữa trước cha nói sẽ tới
nhà mấy em đạt giải cao của cuộc thi viết, mời phụ huynh tham dự lễ trao giải,
con tới chở cha đi.
Cha Thiện gật đầu như hiểu ý
rồi bảo ông Khánh đợi tí. Cha quay vào nhà xứ khoác vào bộ đồ lịch sự có gắn cổ
côn rồi lên xe ông Khánh. Làng chài một thời tấp nập, ồn ào trước mắt cha bây
giờ có vẻ yên ắng hơn. Thoảng trong nắng chiều là tiếng gió khẻ rít qua những
hàng dương đang chao nghiêng nhìn biển.
Chuyện gia đình Lam, cha Thiện
cũng nghe phong phanh từ lâu. Những lần hai vợ chồng lời ra tiếng vào, mọi người
đều bàn tán. Không ít thì nhiều nội tình cứ thế mà đến tai cha. Được dịp này,
Cha muốn giải quyết cho yên chuyện.
- Anh chị Bình Lam có ở nhà
không? – Xe dừng trước cổng nhà Lam. Tiếng ông Khánh ngoài cổng gọi vọng vào.
Lam chạy nhanh từ trong nhà
ra phía trước rồi khép nép cúi mình: “Dạ! Con chào cha, con mời cha vô nhà ạ!” .
Lam đưa tay pha lấy ly nước.
- Anh Bình mô rồi? Tôi muốn
nói chuyện với anh – Cha nói.
Lam thảng thốt. Những ý nghĩ
lo sợ toát lên trên khuôn mặt tròn, tái ngắt.
- Dạ! Chồng con ở sau nhà, để
con đi kêu.
Lam chạy ngay xuống bếp. Nghe
thấy giọng cha, chồng Lam đã luống cuống đứng dậy từ lúc nãy. Một gã say hung
hãn thường ngày chợt biến đâu mất. Anh đưa tay giấu chai rượu đang uống dở vào
sau cánh cửa khép hờ. Anh cố tỏ vẻ tĩnh táo để bước lên nhưng giọng nói vẫn lè
nhè ám đầy mùi rượu:
- Con chào cha! Cha muốn tìm
con ạ? – Anh đưa tay gãi đầu, gãi tai.
- Tôi không nói vòng vo với
người say. Anh đọc cái ni đi rồi biết, làm cha, làm chồng mà như rứa đó?
Nhận lấy tờ giấy từ tay cha,
con mắt lờ đờ do men say của anh giờ căng lên một tí, cố đọc những dòng chữ trước
mặt. Lam cũng ghé mắt vào tờ giấy trên tay anh. Từng nét chữ quen thuộc được nắn
nót cẩn thận:
“Thư
gởi Đức Mẹ của con!
Mẹ vẫn
khỏe chứ? Con nghĩ Mẹ bận rộn ban phước cho mọi người lắm nhỉ?
Mẹ ơi!
Bây giờ con đang buồn lắm nên con muốn viết vài dòng cho Mẹ.
Gia
đình con không còn hạnh phúc như xưa nữa rồi, từ ngày cá biển chết đi, môi trường
ô nhiễm, bố con không còn đi biển, bố cứ say rượu suốt ngày. Trong nhà lúc nào
cũng nghe tiếng cãi vả, chửi rủa. Con thấy xấu hổ với mọi người và bạn bè của
con lắm. Con không làm được gì ngoài đi Lễ và cầu nguyện với Chúa, với Đức Mẹ
mà thôi.
Xin Mẹ
thương gia đình con, ban phước lành để bố con thay đổi, không uống rượu để
thương mẹ và chị em con. Xin Mẹ cho người ta không còn làm chết cá của làng quê
con nữa.
Con xin
lỗi vì không kể chuyện vui mà kể câu chuyện buồn của gia đình con cho Mẹ nghe.
Con hứa với Mẹ sẽ đọc nhiều kinh Kính Mừng để Mẹ vui và thương gia đình con
hơn. Xin Mẹ nhậm lời con.
Con của
Mẹ
Dương.”
Lam buông thỏng người quay sang
nhìn anh. Cha tiếp lời:
- Con của anh viết đó, tôi tới
đây để mời hai vợ chồng tối ni đi coi con bé nhận giải, tiện giải quyết chuyện
ni luôn… Anh hiểu hết chưa, xứng đáng với con mình không, xem lại mình đi, chứ
sống rứa… nỏ tốt đẹp chi.
Giọng cha nghiêm nghị không
cáu gắt, không quá trách móc nhưng khiến lòng anh thổn thức. Anh không đáp trả,
cứ ngồi im lặng để những lời của cha rót hết vào tai. Những lời Cha nói không
sai, nhưng hoàn toàn lỗi không phải do anh. Anh biết, anh hiểu nhưng anh không
thể bào chữa được ngay lúc này. Những lời
tâm sự của con, câu nói vô tình của cha cứ xuất hiện trong đầu như đang kéo anh
trở lại thực tế mà anh không muốn đối diện. Ngồi được một hồi lâu, anh đứng dậy
bỏ ra ngoài.
Lam chới với đuổi theo nhưng
cha ngăn cản: “Không sao đâu, thằng Bình cần thời gian, cần ở một mình để suy
nghĩ mọi thứ. Con cứ mặc kệ hắn đi”. Lam cúi gằm mặt xuống đất:
- Con xin lỗi cha, con thấy xấu
hổ quá!
- Không sao cả. Mỗi nhà mỗi cảnh
thôi. Cứ cầu nguyện thêm cho hắn là được. À! Còn chuyện ni nữa. Con nhắn cho thằng
Bình chuẩn bị đi làm nơi xí nghiệp Lộc Phát ở tỉnh bên, công việc khuân vác
thôi, sau ni mới học thêm một vài cái khác, lương cũng ổn định, chứ ở nhà miết
là sinh chuyện. Làng mình có tới ba chục người đi nên cũng được rồi, coi như là
quà đặc biệt cha dành tặng cho bà con.
Lam hấp háy mắt vì bất ngờ,
gương mặt cô giãn ra. Từng lời của cha làm cô ấm lòng dù sự tủi buồn vì hoản cảnh
gia đình vẫn còn đó.
Nói xong mọi chuyện cha tất bật
đi về, cái dáng của vị chủ chăn chân chất, lam lũ nhưng thấm đẫm tình người khuất
dần trong ánh chiều dần buồng. Lam chợt nhận ra đâu đấy trong căn nhà nhỏ có tiếng
nước mắt đang rơi. Dương đang thút thít sau tấm phản ngăn với phòng khách.
*
* *
“Được rồi! Ta sẽ ban cho xóm đạo các con được
bình yên, cá tôm sẽ sớm sinh sôi trở lại nơi vùng đất biển này. Nhưng các con
phải sống hòa thuận và yêu thương nhau và đặc biệt phải siêng năng lần chuỗi để
cầu nguyện cho hết thảy mọi người” – Đức Mẹ nói xong rồi biến mất theo làn khói
mờ.
“Dạ! Chúng con xin hứa” – Ba
đứa bé đồng thanh đáp.
Vỡ kịch Đức Mẹ hiện ra ở
Fatima đã được sửa lại cho phù hợp với thời cuộc của giáo xứ kết thúc. Dù chỉ
là đang xem nhưng Lam tin lời Đức Mẹ bởi hằng ngày cô vẫn lần hạt để cầu nguyện
cho chồng con và mọi người. Lam hy vọng anh sẽ hiểu hết lời của cha đã nói lúc
chiều để thay đổi, bỏ rượu, yêu thương mẹ con cô như lúc trước và cố gắng làm
ăn như mọi người.
Buổi lễ tổng kết vừa xong. Mọi
người cười nói cùng nhau ra về. Người ta không ngớt lời khen lấy con của Lam. Lam
cũng vui nhưng chẳng phấn chấn gì nhiều. Từng bước chân nặng trĩu thả xuống đất,
lòng Lam vẫn bồn chồn khó tả. Trong mớ âm thanh hỗn độn của đám đông đưa tới,
Lam nghe thấy tiếng người quen thuộc gọi tên mình và con. Lam quay đầu. Anh
đang đưa mắt nhìn hai mẹ con.
Dương liền chạy đến và ôm lấy
anh. Đôi bàn tay nhỏ bé xiết chặt ngang hông như sợ anh sẽ rời bỏ nó: “Đức Mẹ thương con, bố không thương con hả?”.
Anh nhìn sâu vào tận đáy mắt
của Dương, ánh mắt khao khát niềm hạnh phúc bấy lâu giờ mới có được. Anh nói thật
khẻ:
- Bố thương con mà!
Giọng anh nghẹn đắng nhưng
lòng Lam lại rộn ràng. Những ánh mắt long lanh trao nhau như hiểu thấu tất cả mọi
suy nghĩ đang chợt đến. Dương đưa cho anh món quà vừa nhận được là bức tượng Đức
Mẹ nhỏ xinh rồi ép mình thủ thỉ vào tai anh: “Đức Mẹ cũng thương bố nữa đó”.
Dương mỉm cười mãn nguyện.
Hình ảnh hai cha con mờ đi
trong màn nước mỏng. Lam đưa đôi mắt ướt nhìn về phía biển. Ánh trăng bàng bạc
đắm mình giữa mặt nước mênh mông. Biển lúc nào cũng rộng lớn, trải dài để ôm trọn
mọi vật. Tình Chúa, tình Mẹ dành cho con người lại càng vĩ đại hơn. “Người yêu
thương họ đến cùng” (x. Ga 13,1). Lam biết, đêm nay, Mẹ đã làm phép lạ trên gia
đình cô.
Mã số: 17-071
Thu ngồi ngoài bờ ruộng, nhìn
xa xăm trên cánh đồng lúa sai trĩu hạt mà tâm trạng rối bời. Khung trời đang
sáng, chợt mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến che mất ánh nắng, bầu trời bỗng tối sầm
như tương lai của em vậy. Những cơn gió
mạnh thổi tới tấp làm cây cối oằn cong nghiêng ngả, em nghĩ đến phận nghèo của
mình mà tự hỏi, chẳng biết mình có đứng vững trước giông bão cuộc đời? Thu vẫn
ngồi thừ dưới gốc cây mận, mặc cho sấm chớp nổ vang và những hạt mưa to bắt đầu
rơi xuống quất vào người em rát rạt. Em ước gì sấm sét kia xẹt trúng vào mình,
để em được thoát khỏi cảnh đời khổ ải này. Em vẫn ngồi đó trong cơn mưa nặng hạt,
trong tiếng gió rít và ánh chớp lập lòe… Những hạt mưa rơi xuống như đồng cảm với
tâm trạng của Thu trong lúc này, lòng em đang trĩu nặng bởi sự giằng co trước
chọn lựa: “Đi hay ở?”.
Nhiều khi ngồi một mình, Thu
hay nghĩ ngợi. Nghèo đâu phải là một cái tội, nhưng tại sao người ta lại khinh
rẻ những người nghèo, mặc dầu họ vẫn cố gắng sống lương thiện bằng chính sức
lao động của mình? Tại sao có những người được sinh ra trong nhung lụa, lại có
kẻ sinh ra trong bần cùng. Phải chăng đó là phần số của mỗi người...? Và còn
bao nhiêu câu hỏi: “Tại sao…? Tại sao…?” mà em không giải thích được. Thu nghĩ,
có lẽ Diễm Trang nói đúng: “Số phận đã an bài như thế, chỉ có một cách duy nhất
giúp mình thoát cảnh nghèo là kiếm cho thật nhiều tiền và thành phố là nơi dễ
kiếm tiền nhất”. Bằng chứng là ba chị em nhà nó mới đi làm hơn một năm đã phất
lên thấy rõ.
Vì nghèo, cha mẹ và Thu phải
làm lụng vất vả, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời để kiếm cái ăn; vậy
mà gia đình em có khi ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Lại thêm một nỗi tủi nhục
là chỉ có gia đình em ở giữa xóm đạo, hễ mất gì là họ nghi ngờ cho nhà em. Vì
thế, em không cam tâm trước cảnh nghèo nữa mà quyết chí bằng mọi cách phải kiếm
được thật nhiều tiền.
Cuối cùng, Thu quyết định trốn
nhà đi theo chị em Trang. Lên đến nơi em mới vỡ lẽ về cách “dễ kiếm tiền” của họ.
Mấy chị em Trang xúm vô nói:
- Trên đời này có tiền là có
tất cả.
- Tuổi xuân qua mau lắm,
không lo hưởng thụ sau này hết thời, tiếc nuối cũng muộn rồi.
- Đời bây giờ “lương tâm
không bằng lương tháng”, đàng nào cũng chết là hết, sĩ diện làm chi cho uổng
phí cuộc đời.
Thu nghe họ nói cũng có lý,
em đành nhắm mắt đưa chân.
***
Quả thật, ở chốn đô thị muốn
kiếm tiền không khó, chỉ cần có chút nhan sắc, ngồi uống với khách vài ly bia
là có tiền rủng rỉnh trong túi. Trông dáng Thu khá bắt mắt nên bà chủ rất mực
cưng chiều. Chỉ hơn nửa năm em đã hoàn toàn lột xác, trở thành một “tiếp viên”
chuyên nghiệp. Tiền bo càng nhiều, em càng bị lún sâu vào hố thẳm cuộc đời,
nhưng em đã bất chấp tất cả, miễn sao có tiền là được. Đã mấy lần, chị em Trang
dẫn Thu đi “giải quyết vấn đề”.
Hàng tháng, Thu cố gắng dành
dụm thật nhiều tiền để gửi về nhà. Em gái út của Thu viết thư lên nói: “Nhờ có
tiền của Hai gửi về mà cha mẹ đỡ vất vả và hàng xóm cũng bớt khinh nhà mình. Ở
nhà, mẹ vẫn cúng chùa hàng tháng để cầu Phật độ cho Hai được mạnh khỏe, may
lành… Mai mốt em lớn, Hai cho em lên làm chung để kiếm tiền báo hiếu cha mẹ
nha!”. Đọc đến đây Thu chợt giật mình, những giọt nước mắt tủi hờn thi nhau rơi
xuống.
Có những ngày vắng khách, Thu
ngồi nhìn đám lục bình trôi lững lờ giữa dòng nước mà nghĩ đến thân phận bèo bọt
của mình. Bất chợt em tự hỏi: Không biết đám lục bình kia sẽ trôi về phương trời
vô định nào? Rồi đêm đó, em về nhà trọ ngồi khóc một mình.
Càng có nhiều tiền Thu càng
thấy cuộc đời vô nghĩa và trống vắng, chứ không như lúc trước em nghĩ. Những đồng
tiền kia được trả cho em sau khi khách đã hả hê, còn thân xác em thì rã rời
trong đớn đau tủi nhục.
Ở chốn đô thị này, sự phân
cách giàu nghèo rất rõ. Những người nghèo thì cứ nghèo mãi không thể ngóc đầu
lên được, vì luôn bị chèn ép và đối xử bất công. Còn một số người giàu thì
quăng tiến vào các cuộc vui, nhằm thõa mãn những ham muốn của bản năng. Họ đâu
biết rằng, chính họ đang làm tổn thương tâm hồn và chà đạp nhân phẩm của người
khác.
Cũng có đôi lần Thu định tìm
một việc làm lương thiện khác, dù ít tiền cũng được. Nhưng đa số các công ty đều
đòi bằng cấp, chuyên môn và giấy tờ tùy thân rườm rà, mà em thì chẳng có gì
ngoài giấy chứng minh thư. Em vào các tiệm ăn xin giúp dọn bàn, rửa chén; họ
nhìn em từ đầu đến chân rồi thẳng thừng từ chối:
- Làm ở đây vất vả lắm, sợ cô
làm không quen lại phải mất công tìm người thế.
Dẫu Thu năn nỉ hết lời, họ vẫn
không chịu nhận. Em đi tìm việc cả ngày không được chỗ nào. Về đến nhà, vừa đói
vừa mệt, em buông người xuống giường, úp mặt vào gối khóc tức tưởi, khóc một
mình. Em ước gì được trở về quê ở bên cha mẹ và các em, dẫu nghèo mà yên vui,
thanh thản…
***
Thu rất mừng và hạnh phúc khi
được trở về quê sống cảnh sông nước thanh bình. Em xuống một chiếc thuyền con
và bơi chầm chậm trên dòng sông êm ả, hai bên bờ là những vườn trái cây sai
trĩu quả, nào là: nhãn, chôm chôm, xoài, mận… Mãi thả hồn vào cảnh vật thiên nhiên,
chiếc thuyền trôi dần ra sông lớn. Vừa ra đến cửa sông, thuyền em bị cuốn vào
dòng nước xoáy. Rồi bất chợt gió to nổi lên làm mặt sông dậy sóng. Tiếp theo là
những đám mây đen nghịt kéo lên và cơn mưa trắng xóa từ xa trông như tấm vải khổng
lồ đang trùm xuống mặt sông. Em hoảng hốt cố bơi thuyền vào bờ mà không được.
Em dùng hết sức lực gào khóc kêu cứu, nhưng chung quanh không thấy bóng dáng của
một chiếc thuyền nào. Nước xoáy mạnh làm chiếc thuyền cứ quay tròn. Những con
sóng to cứ dồn dập xô tới, hất tung thuyền lên rồi lại ấn sâu xuống như muốn
vùi lấp con thuyền bé teo. Cơn mưa dày mịt làm em không còn thấy đâu là bờ. Một
con sóng to hất chiếc thuyền lật úp khiến em chới với giữa dòng. Dẫu biết bơi,
nhưng vì sợ và mệt nên em nhanh đuối sức. Em thấy mình như không còn thở được nữa
vì bị mưa vùi, sóng dập. Càng lúc em càng tuyệt vọng. Em đang cố dùng chút sức
lực cuối cùng để ngoi lên mặt nước. Bất ngờ một chiếc thuyền to xuất hiện, người
phụ nữ trên thuyền đưa tay ra nắm lấy tay em kéo lên thuyền của bà. Bà nhìn em
mĩm cười đôn hậu, trông bà đẹp tuyệt trần. Mưa gió liền dứt ngay, bầu trời
quang đãng, sáng trong trở lại với ánh nắng dịu ấm áp. Người phụ nữ mỉm cười với
em lần nữa và nói:
- Con đừng sợ! Ta sẽ luôn ở
bên che chở cho con.
Thu chợt giật mình thức giấc,
mồ hôi ướt đẫm cả người, toàn thân mệt nhừ, đói lã. Nhưng có một niềm vui và sự
bình an sâu thẳm trong lòng em. Thu có cảm giác lâng lâng hạnh phúc, khi em nhớ
đến nụ cười của người phụ nữ trong mơ. Em không hiểu sao mình lại có giấc mơ kỳ
lạ như thế và người phụ nữ em thấy trong mơ là ai?
***
Mấy tuần sau đó Thu vẫn tiếp
tục đi làm. Và rồi, em phát hiện mình lại có thai. Lần này em định âm thầm đi
“giải quyết” một mình.
Vừa đến chỗ lần trước, Thu định
vào làm thủ tục thì có một người xuất hiện, chị xưng tên là Hạnh trong nhóm “Bảo
Vệ Sự Sống”. Chị trao đổi với em vài câu ngắn gọn và cầm tay em dẫn đi. Không
hiểu sao em cứ riu ríu làm theo yêu cầu của chị mà không chút phản ứng hay nghĩ
ngợi gì, giống như đang bị thôi miên vậy. Chị ghé qua nhà trọ cho em lấy ít đồ
cá nhân, rồi đưa lên tận Hố Nai. Em ngồi trên xe mấy chục cây số mà cảm giác
lâng lâng như trong giấc mơ hôm trước. Chị gửi em cho người mà chị gọi là dì
Nhiên. Dì sống một mình trong căn nhà nhỏ, chung quanh có vườn rau và một số cây
ăn trái.
Tối hôm đó là thứ bảy đầu
tháng, dì Nhiên dẫn Thu ra lần chuỗi ở đài Đức Mẹ trong xóm. Vì em không có đạo
nên không biết đọc kinh, em chỉ ngồi ngắm Đức Mẹ thôi. Khi về đến nhà, em kể
cho dì nghe giấc mơ hôm trước và người phụ nữ em thấy trong mơ có khuôn mặt giống
y chang Đức Mẹ ngoài đài. Nghe em kể xong, dì Nhiên rơm rớm nước mắt đến bên, cầm
tay em và nói:
- Ôi, con ơi! Chính Đức Mẹ đã
hiện ra cứu con đó. Dì tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ với con. Hôm nay con chịu đến
đây ở với dì cũng là ơn của Đức Mẹ đó con ạ. Rồi đây, Đức Mẹ sẽ phù trợ cho con
được mẹ tròn con vuông và làm lại cuộc đời.
- Con cám ơn lòng tốt của dì.
- Con cứ ở đây với dì cho
vui. Mặc dù dì không khá giả chi, nhưng hai dì cháu mình cứ tin tưởng vào Chúa,
rồi Chúa sẽ lo cho.
Kể từ đó, Thu sống hủ hỉ với
dì Nhiên. Sáng nào em cũng theo dì đi lễ, sau đó về nhà nhổ rau và hái trái cây
mang ra chợ bán. Buổi chiều, em cùng dì chăm sóc mấy luống rau sau vườn. Tối đến,
hai dì cháu đi ra đài Đức Mẹ lần chuỗi với mọi người. Tuy cuộc sống đạm bạc
nhưng em cảm thấy rất vui và bình an, em có cảm giác như đây là nhà của mình vậy.
Dì Nhiên coi em như con của dì, đối lại em thảo kính với dì như mẹ ruột.
Mối thân tình giữa Thu với dì
Nhiên càng khắng khít bao nhiêu, thì em cũng nhiễm tính cách của dì bấy nhiêu.
Dì sống đạo cách rất bình dân, dì nhận ra tình thương và quyền năng Chúa trong
mọi tạo vật. Một hôm trong bữa cơm, dì chỉ đĩa trái cây trên bàn tấm tắc:
- Con xem, Thiên Chúa quả là
quyền năng, Ngài dựng nên trái chuối xanh thì chát còn trái xoài sống thì chua.
Vậy mà khi chín, chúng đều ngọt cả, mà mình đâu có bỏ đường xuống gốc cây hay
ngâm trái vào nước đường lúc mới hái xuống.
Thấy Thu thích thú lắng nghe,
dì nói tiếp:
- Còn mấy cây dừa trong vườn
mình mới ngộ, lúc còn non thì nước nhạt và có vị chua, vậy mà đến khi dừa nạo
nước ngọt vô cùng. Đó, con thấy Chúa có giỏi không? Đâu có ai leo lên bỏ đường
vào từng trái dừa mà sao nước nó ngọt ơi là ngọt. Còn nếu nói nó hút chất ngọt
từ đất, thì tại sao cây khế trồng giữa hai cây dừa mà trái nó lại chua? Thế mới
biết Chúa quyền năng đến mức nào.
Thu nghe dì Nhiên nói rất có
lý nên thầm thán phục dì và ngày càng vững tin vào Thiên Chúa. Trong lớp Giáo
Lý Dự Tòng em luôn được cha xứ khen là có đức tin mạnh mẽ. Còn em thì biết mình
được như thế là nhờ dì Nhiên truyền tải kinh nghiệm cho. Càng ngày em càng cảm
nghiệm được tình thương của một Thiên Chúa vừa cao cả quyền năng, vừa ân cần
quan tâm chăm sóc con người…
Một buổi sáng trong làn gió
nhẹ, Thu bước ra vườn trong lòng thấy rộn vui khi nghe tiếng chim họa mi hót
líu lo. Phía kia mấy chú chim sâu đang vui vẻ, ríu rít chuyền cành. Dì Nhiên đi
tới nói:
- Dì thích ra vườn lúc này để nghe tiếng chim
hót, có lẽ chúng đang cất lời ca tụng Chúa buổi sáng.
Nhìn những luống rau xanh mướt
dưới chân và hàng cây sai trĩu quả, Thu thấy trong lòng thật bình an, thanh thản.
Tâm hồn em như muốn hòa vào cảnh vật chung quanh để ca tụng kỳ công của Chúa.
Chợt những hình ảnh lúc trước ùa về như áng mây đen làm cảm xúc em dần tắt lịm,
chỉ còn lại mặc cảm tội lỗi ngự trị. Trong cuộc sống, có những chuyện được xóa
nhòa theo năm tháng, nhưng đôi khi ký ức bị khơi lại từ đống tro tàn làm tâm tư
xao động. Em rất hối hận về những lỗi lầm lúc trước. Mỗi lần như thế, em đều thầm
thĩ xin Đức Mẹ cầu Chúa tha tội cho mình.
Thu chở rau ra chợ trong tâm
trạng buồn thiu. Bất ngờ, một chiếc xe trong hẻm phóng ra tông thẳng vào xe rau
làm em ngã xuống bất tỉnh, máu me lênh láng trên mặt đường. Dì Nhiên thấy em
hôn mê một ngày không tỉnh thì mời cha vào bệnh viện ban Bí Tích Rửa Tội cho
em. Dì đeo tràng chuỗi vào cổ em và khấn Đức Mẹ cho em qua khỏi cơn nguy kịch
này. Ngày hôm sau em bắt đầu tỉnh lại, dì Nhiên vui mừng khôn xiết, luôn miệng
tạ ơn Chúa và cám ơn Đức Mẹ đã thương cứu em.
Khi biết mình bị hư thai, em đã khóc thật nhiều.
Em cầu xin Chúa đón nhận linh hồn bé bỏng ấy vào Nước Trời. Trong nước mắt, em
hoang mang hỏi:
- Dì ơi, có phải Chúa phạt
con vì những lỗi lầm lúc trước không?
Dì Nhiên nắm tay Thu an ủi:
- Không đâu con ạ. Thiên Chúa
là Cha giàu lòng thương xót, Người không chấp khi ta biết hối lỗi. Với lại, Người
mãi yêu thương và luôn làm điều tốt nhất cho ta. Thôi, con đừng buồn nữa. Con tỉnh
lại là do Chúa và Đức Mẹ thương cứu rồi. Biết đâu, đó cũng là sự an bài của
Chúa và Đức Mẹ để tốt hơn cho con.
Thu vâng lời dì Nhiên, thôi
không khóc nữa. Ngày nào bà Lập và con trai cũng đến thăm, mang cơm cho hai dì
cháu của Thu. Họ vào năn nỉ Thu đừng làm khó dễ và hứa sẽ lo bồi thường cho em.
Người gây ra tai nạn là Phương, con của ông bà Lập, một chủ tiệm trang trí nội
thất lớn trong vùng. Sáng đó, anh ôm gà sang nhà bạn để chọi thử, nào ngờ vừa
ra đến đường đã gặp sự cố. Phương là con nhà giàu nên từ khi lên cấp ba, anh chỉ
thích đua đòi, lêu lỏng và thôi đến nhà thờ. Bố mẹ anh mải lo làm ăn chẳng quan
tâm gì đến chuyện đạo hạnh cho con; kể cả ông bà cũng lơ là với Chúa.
Tới lui chăm sóc thăm hỏi một
thời gian, Phương đã phải lòng cô nạn nhân dễ mến. Nơi Thu, anh nhận ra nhiều
nét đẹp tâm hồn mà anh ít thấy nơi những cô gái đã từng quen lúc trước. Tuy ít
học nhưng em khá nền nã, hồn hậu và dịu dàng. Thêm nữa là sắc vóc của Thu cũng
khá mặn mà, đầy đặn, lại rất duyên khi cười. Thu không như bao cô gái khác, em
không nhận những món quà đắt tiền của Phương, cũng không vòi vĩnh gì và nhất là
không thích ra ngoài hẹn hò. Em càng đơn thành bao nhiêu, Phương càng si mê bấy
nhiêu. Phương chỉ được đi chung với em đến ba địa điểm: Nhà thờ, đài Đức Mẹ và
sạp rau ngoài chợ.
Để được ở bên Thu, Phương bắt
đầu đi lễ trở lại. Dần dần mỗi sáng, anh đều đến chở dì Nhiên và em đi lễ; mỗi
chiều, anh cùng hai dì cháu đi lần chuỗi ngoài đài. Ông bà Lập thấy con trai đột
nhiên thay đổi tính nết, lo chí thú làm ăn và siêng năng đi đạo, hai người cũng
chạnh lòng lo chuyện lễ lạc trở lại. Hàng xóm thấy gia đình ông Lập đi lễ thì
kháo nhau:
- Gia đình ông ấy bị “nhiễm
Virut đạo đức” của dì cháu bà Nhiên đấy.
***
Quen nhau được hơn một năm,
Phương thưa với ba mẹ cho hai người tiến tới hôn nhân. Nhưng khi ông bà Lập
nghe nói gia đình Thu nghèo, lại thuộc tôn giáo khác thì phản đối. Thu biết
thân phận mình nên nói với Phương:
- Gia cảnh cũng như bản thân
em không xứng với tình yêu của anh.
Rồi Thu kể cho Phương nghe
quá khứ của mình. Anh rất bất ngờ và không thể tin được, bởi từ trước tới giờ
anh cứ ngỡ Thu là con nhà gia giáo. Bẵng đi mấy ngày anh không đến nhà dì
Nhiên; sau khi đã suy nghĩ kỹ, anh sẵn sàng chấp nhận Thu và bỏ qua tất cả.
Phương vội vàng chạy vô gặp thì em đã về quê mất rồi. Anh năn nỉ dì Nhiên xin địa
chỉ để đi tìm Thu, dì bảo:
- Thu nhờ dì nhắn lại với anh
là đừng tìm nó nữa!
Phương nhớ Thu quay quắt mà
không biết tìm ở đâu, đành mượn rượu giải sầu. Suốt cả tuần, ngày nào anh cũng
về nhà lúc nửa đêm trong tình trạng say khước, miệng luôn gọi tên Thu. Vì
Phương là con một nên bà Lập rất xót xa khi thấy con như vậy.
Rồi chuyện gì đã đến cũng phải
đến, Phương bị tai nạn gãy cả hai chân. Khi tỉnh lại, anh nổi loạn giật hết
bông băng trên người, đập đổ hết những gì trong tầm với và luôn miệng đòi chết,
đến nỗi bác sĩ phải tiêm thuốc an thần anh mới chịu nằm yên. Vừa phải xa Thu và
thân mình bị tàn phế, anh hoàn toàn suy sụp. Bà Lập năn nỉ anh hết lời và khóc
hết nước mắt mà chẳng được. Cuối cùng bà đành cậy dì Nhiên đi đón Thu lên.
Dì Nhiên mủi lòng trước cảnh
nhà bà Lập nên nhận lời. Hôm Thu bị tai nạn vừa khỏe, dì có đưa em về quê,
nhưng lần đó có em dẫn đường, bây giờ đi một mình cũng thấy lo lo. Dì đang cầu
xin Đức Mẹ dẫn đường thì có một cô gái đi kế bên hỏi:
- Dì về đâu ạ?
- Tôi định đi Vĩnh Long.
- Con cũng về đó, mà dì xuống
chỗ nào?
Dì Nhiên đưa địa chỉ của Thu
cho cô gái, vừa đọc xong cô reo lên:
-Con biết nhà này, nhưng cách
nhà con hơn cây số. Ông này thỉnh thoảng có đến làm mướn cho nhà con.
Nhờ cô gái chỉ đường, dì
Nhiên tìm được nhà Thu dễ dàng. Dì cám ơn Đức Mẹ đã dẫn đường cho dì đến nơi.
Khi biết Phương đã vì mình mà bị tai nạn, Thu liền xin cha mẹ cho lên thăm anh.
Cha mẹ Thu rất cảm kích trước lòng tốt của dì Nhiên nên đã đồng ý.
***
Phương rất ngạc nhiên khi thấy
Thu xuất hiện, nhưng bất chợt anh gào lên:
- Cô đi đi! Tôi bây giờ là một
kẻ tàn phế, tôi không cần cô thương hại đâu…hu…hu…
Thu nghe nhói trong tim, nước
mắt tuôn tràn trước thảm cảnh này. Mới xa nhau gần hai tuần mà trông Phương gầy
xọp, bơ phờ, rũ rượi…phần do buồn tình, phần vì ba ngày qua anh không chịu ăn uống
gì. Thu bước đến nắm bàn tay của Phương đang bị cột vào thanh giường mà khóc.
Phương gồng mình, nhăn mặt, đôi mắt nhắm nghiền, hai giọt nước mắt trào ra. Một
lúc sau, anh nói trong tiếng nấc nghẹn ngào:
- Em… đừng đi Thu ơi!… Anh… anh
không thể sống thiếu em mà...
- Em không đi đâu. Anh đừng
làm hai bác lo lắng nhé!
Mọi người xung quanh ai cũng
rơi nước mắt. Thu ở lại phụ bà Lập chăm sóc cho Phương. Anh vui vẻ, phấn chấn hẳn
lên làm ông bà Lập cũng thấy nhẹ lo.
Sau khi Phương hồi phục và đi
lại kha khá thì ông bà Lập tổ chức hôn lễ cho hai trẻ. Lúc trước ông bà phản đối,
nhưng khi về sống chung lại rất hài lòng vì có con dâu đạo đức, hiếu kính, nết
hạnh, hòa nhã. Tuy nhiên, những tính tốt đó không thay thế được bổn phận “lưu
truyền nòi giống”. Cưới nhau đã ba năm mà Thu chưa có con, bà Lập sốt ruột hối
thúc nhưng mãi chẳng thấy gì, bà bắt đầu tiếng nặng tiếng nhẹ với nàng dâu khi
không có con trai ở nhà. Đôi lúc Phương thấy vợ ngồi khóc trước bàn thờ Đức Mẹ
trong phòng, anh gặng hỏi mãi mới biết lý do. Anh an ủi Thu:
- Em đừng lo, chúng ta cùng
khấn Đức Mẹ rồi kiên nhẫn chờ đợi, khi nào Chúa và Đức Mẹ muốn thì các ngài sẽ
ban cho chúng ta.
Có lần Thu lén đi khám thì được
biết: “Do ảnh hưởng của mấy lần phá thai lúc trước, nên có nguy cơ là em không
thể có con được nữa”; nghe vậy em lo lắng vô cùng. Mỗi sáng sau lễ, hai vợ chồng
em đều đến trước đài Đức Mẹ khẩn nài tha thiết. Cuối cùng, sau năm năm chờ đợi
với bao nước mắt và lời cầu xin, em đã có thai và sinh được một bé trai bụ bẩm,
kháu khỉnh. Em xin cha mẹ chồng đặt tên cho bé là: Hoàng Ân Thiên Đức, nghĩa là
Ân ban của Thiên Chúa và Đức Mẹ.
Hôm Rửa Tội cho bé Thiên Đức,
lúc các bà mẹ bế con đến trước đài Đức Mẹ hát kinh, nước mắt Thu tuôn tràn nhỏ
lên mặt con. Em thầm thĩ trong lòng:
- Lạy Chúa, con xin đội ơn
Chúa. Mẹ ơi, con xin cám ơn Mẹ. Con xin dâng con của con cho Mẹ, xin Mẹ thương
chúc lành và phù hộ cháu. Từ nay con
không còn lo sợ gì nữa, vì đời con có Mẹ.
Mã số: 17-072
Thành phố những ngày cuối năm
nhộn nhịp những chuyến tàu xe rời bến đưa những người con xa xứ trở về quê đón
Tết với gia đình sau một năm xa nhà làm ăn, học tập. Khuôn mặt ai cũng mang những
vẻ nôn nao, háo hức. Nhìn những khuôn mặt ấy, bà chợt thấy chạnh lòng, nhưng dường
như số phận bà đã được Thiên Chúa an bài, nên bà hoàn toàn chấp nhận.
Bà không nhớ mình đã ngồi ở
đây, nơi bến xe này, với dăm gói bông tai, vài chai nước ngọt, vài phong kẹo
sing-gum lang thang ở bến xe buôn bán mưu sinh bao lâu rồi. Từ ngày rời quê vào
thành phố, đã khá lâu rồi bà không trở về, không phải bà không muốn về, mà vì
bà không muốn bỏ lỡ một phút giây nào để tìm chút hy vọng nhỏ nhoi về đứa con
trai đã thất lạc suốt bao năm trời.
Lại một ngày nữa trôi qua.
Chuyến xe cuối cùng về miền Trung cũng đã rời bến. Bà cùn cũi trở về khu nhà trọ
với tâm trạng bồn chồn. Đã bao năm rồi bà vẫn kiếm tìm nhưng càng cố tìm thì
càng thất vọng.
Bà vừa về đến cổng nhà trọ,
đã thấy lão ngồi đó tự lúc nào, trên tay đang cầm điếu thuốc Jet phì phèo nhả
khói. Thấy bà, lão dập vội điếu thuốc rồi buông lời hỏi thăm.
- Sao nay bà về muộn quá? Có
tin tức gì không?
Bà nhìn lão lắc đầu, rồi lủi
thủi về phòng. Bỏ mặc lão với ánh nhìn bà đầy thương hại kèm theo những tiếng
thở dài hắt ra, hòa tan cùng những luồng gió ngùn ngụt bỡn cợt trên tán cây trứng
cá phủ rộng hươ, bao bọc lấy khu nhà trọ lụp xụp, điêu tàn.
Bà mở cửa phòng, cất gọn đống
đồ đạc vào một góc rồi bật chiếc bếp ga mini đun nước nấu mì tôm. Chiều nay mải
chạy theo những chuyến xe khiến chân tay bà mỏi rã rời. Bụng dạ nhiều khi chẳng
nghe theo lòng người, có khi cả ngày ăn ổ bánh mì nhưng cũng ngang bụng. Mãi
khi đêm về, cái lạnh hươ hoác bao phủ mới khiến bà nhớ đến cái bụng đói meo mà
bà đã bỏ quên đâu đó sau những nôn nao kiếm tìm.
Người xóm trọ không ai biết
bà tên gì. Người ta chỉ biết bà vào khu xóm trọ này từ lâu lắm. Bà đi từ sáng sớm,
trở về nhà vào giữa đêm. Có người sống ở khu trọ cả năm nhưng cũng chưa bao giờ
nói chuyện với bà. Múi giờ của bà khác của họ, mục đích đến thành phố của họ
cũng chẳng giống bà. Họ đến vì tiền, vì muốn thay đổi cuộc sống. Còn bà, bà chỉ
mong muốn tìm lại máu mủ của bà, để chuộc lại lỗi lầm của một người mẹ suốt bao
năm bà canh cánh trong lòng.
Đêm buông xuống hững hờ, bà lại
ngồi trước bàn thờ Chúa, lấy tràng hạt bà đeo trong mình ra cầu nguyện như một
thói quen không thể thiếu mỗi ngày. Vì với người Công giáo nói chung, với bà
nói riêng luôn tin vào lời Chúa phán rằng: "Bay hãy xin thì bay sẽ được...".
Với ai, họ xin gì bà không biết, nhưng bà tin, điều bà xin có gì là to tát lắm
đâu mà Chúa lại không nhận lời. Chỉ có điều Thiên Chúa đang thử thách lòng kiên
nhẫn và Đức tin của bà nên chưa cho bà gặp được mà thôi. Bà luôn nhủ mình như vậy.
Sáng nay lão dậy sớm, ngồi đợi
bà trước cửa phòng. Nhác thấy bóng bà, lão hồ hởi.
- Nay tui tranh thủ ra ga tàu
chở khách sớm, tiện đường nên đợi bà đi chung. Bà lên xe đi tui chở bà ra bến.
Bà định bụng không lên, nhưng
nghĩ đến chặng đường từ nhà ra bến xe hơi xa nên bà đồng ý ngồi lên cho lão chở.
Lão cũng ngạc nhiên lắm vì đó giờ bà có chịu ngồi xe lão đâu.
Lão ở trọ cùng khu với bà.
Lão không có vợ con, lão sống một mình, kinh qua đủ thứ nghề nhưng rồi lão chọn
nghề xe ôm cho những năm tháng già yếu còn lại. Lão hiền lành, nhưng rồi sau mối
tình thời trai trẻ mặn mà, bị chính người con gái mình thương phụ bạc, lão đâm
ra chán nản, khép mình lại, không còn dành tình cảm cho ai. Lão và bà chẳng thù
oán gì, nhưng cũng không thân thiết. Hàng xóm láng giềng nên quen biết chào hỏi
xã giao. Lão hình như có tình cảm với bà từ những ngày đầu bà chuyển về sống
trong khu trọ này nhưng bà luôn lảng tráng. Vì từ lâu bà đã không còn tình cảm
dành cho đàn ông, kể từ ngày bà phát hiện ra chồng bà ngoại tình, rồi bỏ bà
cùng đứa con trai lay lắt sống với bữa rau bữa cháo qua ngày.
Nhưng trách sao được khi đó
là lựa chọn của bà, cũng chỉ tại ngày ấy bà không nghe lời cha mẹ, đi yêu người
đàn ông ngoại đạo, để rồi tự mình chuốc lấy khổ đau. Bà ôm con trong tay, ngằn
ngặt cười khóc. Nhưng rồi sau tất cả, bà tự vực mình đứng lên, sống mạnh mẽ hơn.
Mà nếu ngày ấy không nhờ có cha xứ khuyên răn, chắc bà đã tìm đến cái chết để
giải thoát đời mình.
Bà bế con ra chợ mưu sinh,
khi thì mớ cá bà mua lại từ những người trong xóm đi lưới, lúc con gà, chục trứng,
mớ rau... cuộc sống sẽ cứ thế yên bình trôi qua nếu như không có biến cố ấy.
Đứa con trai bà biến mất, năm
ấy chắc nó cũng lên bốn, lên năm. Vì một phút bất cẩn thôi mà thành ra cớ sự.
Bà khóc lóc trong đau khổ, vật vã kiếm tìm nhưng không được. Biết bao đêm bà
không thể nào chợp mắt, vì mỗi lần nhắm mắt thì hình ảnh thằng bé lại ùa về,
xâu xé tâm can. Nếu chẳng phải do bà bất cẩn thì đâu ra nông nỗi này.
Bà cứ dằn vặt mình sau biến cố
ấy. Tự trách mình, gầy rạc đi vì những tháng ngày ròng rã tìm kiếm. Cho đến khi
bà gục xuống, nằm cấp cứu trong bệnh viện. Ai nghe được câu chuyện cũng thương
xót cho bà. Họ tin rằng rồi bà cũng tìm thấy đứa con ấy, vì mọi chuyện với
Thiên Chúa không gì là không thể đó sao.
***
Thằng nhỏ nó có vết bớt ngay
cổ tay, nhìn qua giống hình vuông, nhưng nhìn kĩ thì giống hình ngôi sao năm
cánh. Bà nhớ rõ mồn một về thằng nhỏ như thế, nhắm mắt bà cũng không thể quên
được, tưởng như chỉ sờ bằng tay bà cũng nhận ra. Nhưng hỡi ôi, biết bao nhiêu
người đến mua hàng từ giỏ xách nho nhỏ của bà, bà đều chú ý tới cổ tay nhưng vẫn
hoàn toàn vô vọng. Có nhiều khi thành phố đổ mưa khiến bà đổ bệnh nhưng khi
nghĩ đến con, bà không cho phép mình ngơi nghỉ. Biết đâu được, trong một đêm nằm
ngủ, Chúa gọi bà đi, ăn năn tội chẳng kịp. Ngày ấy chắc chắn sẽ đến, nhưng bà vẫn
mong mỏi được gặp lại thằng nhỏ, giờ bà chỉ mong gặp được thôi, để biết thằng
nhỏ còn sống và hạnh phúc, với bà như thế là mãn nguyện rồi.
Chẳng biết tự lúc nào lão xem
việc đi tìm người có vết bớt hình ngôi sao ở cổ tay như nhiệm vụ của mình. Lão
xót xa khi thỉnh thoảng chở khách ngang qua bến xe, thấy bà đội nắng để tìm kiếm
chút hy vọng. Nhất là khi mỗi đêm thấy bà thất thểu trở về, lắc đầu mà lão chỉ
trực muốn khóc. Lão thương bà quá, muốn khuyên bà gì đó nhưng biết chắc bà
không nghe lời nên thành ra lão đành lao mình vào vòng luẩn quẩn tìm kiếm, như
việc tìm kim dưới đáy biển vậy, nhưng biết đâu sẽ gặp, ở đâu đó trong thành phố
rộng lớn này.
- Có khi nào thằng nhỏ nó
không sống ở thành phố này không bà?
- Tui chắc chắn mà. Tui tin
Thiên Chúa của tui không chỉ sai đường.
- Thiên Chúa nhiều khi cũng
sai chứ bộ. Như Phật của tui cũng vậy thôi.
- Ông nói tào lao nghen. Từ đầu
tui đâu có mượn ông đi tìm.
- Không có, ý tui không phải
vậy. Tại tui lo cho bà... - Lão như biết mình nói hố, nên vội vàng chữa cháy.
Ánh mắt bà lia thẳng về phía lão, sắc lẹm. Nhưng rồi thấy khuôn mặt tồi tội ấy
của lão, bà như dịu đi, chẳng hiểu lão từ hành tinh nào tới mà dở hơi không đỡ
được. Lo chuyện mình chưa xong, lại ôm đồm thêm việc của người khác.
Những khi rảnh rỗi bà hay ngồi
kể lể lão nghe, về cuộc sống trước kia của mình, nhưng hơn hết vẫn là đứa con
trai bà. Nếu như Chúa thương để nó còn sống, hoặc được nhà nào nuôi nấng tử tế
chắc năm nay thằng nhỏ chừng ba mấy, bốn mươi tuổi. Không biết vết bớt nó có bự
hơn hay nhòe đi không? Không biết thằng nhỏ nó có hận bà không nữa, những câu hỏi
đại loại như vậy luôn đau đáu trong bà, từng ngày, từng đêm không ngớt.
***
Tiếng xe cấp cứu inh ỏi cả
khoảnh sân của bệnh viện. Ngày cũng lụi dần sau những tán cây rộng lớn còn sót
lại không nhiều ở thành phố này. Trong khi lão đang chở khách trên đường thì điện
thoại đổ chuông. Thành phố vào giờ tan tầm, xe cộ chẳng biết từ đâu ập ra kín
bưng khắp các ngả đường, còi xe inh ỏi. Nhờ có vị khách ngồi sau nhắc lão mới
biết mình có điện thoại. Lão tấp xe vào lề đường, bắt máy, đầu bên dây kia là một
giọng nam.
- Alô, phải số điện thoại của
chú Tám không ạ?
- Phải, tui Tám đây. Mà xin hỏi
anh là ai?
- Dạ con gọi từ bệnh viện Y.,
chú vui lòng tới bệnh viện ngay, người nhà chú bị tai nạn, đang nằm khoa cấp cứu
ạ.
- Vậy sao? Vâng, cám ơn, tui
tới liền.
Điện thoại vừa dứt, những thắc
mắc ùa về trong đầu lão. Ở thành phố này lão làm gì có ai là người thân thích.
Có khi nào bệnh viện nhầm số? Nhưng họ gọi đúng tên lão mà. Lão cứ thắc mắc, bối
rối mà quên mất vị khách đang nôn nóng ngồi sau xe chờ đợi nãy giờ. Mãi tới khi
vị khách gọi, lão mới quay trở về thực tại mà vội vàng chở khách tới nơi rồi chạy
nhanh vào bệnh viện.
Lão bước vào cửa buồng cấp cứu,
thấy bà nằm đó trong tình trạng hôn mê sâu, máy móc bấu chặt vào cơ thể. Lão vẫn
không thể tin đó là bà. Sao có thể như vậy được. Lão định bước vào cạnh giường
bà nằm những bác sĩ ngăn lại.
Mọi thắc mắc chỉ được giải
đáp sau khi gã tài xế ấy xuất hiện, kể tường tận cho lão nghe. Lão nghe xong, lặng
người, không ngờ chỉ vì đi tìm kiếm chút hy vọng mỏng manh hơn sợi chỉ suốt bao
năm mà bà phải đánh đổi nhiều thứ quá, giờ thì cả mạng sống của mình cũng không
ai đảm bảo. Chợt lão nghĩ đến lời bà nói mà tự nhủ, không biết Thiên Chúa của
bà có biết được điều này hay không?
Từng ngày trôi qua với lão
trong vô vọng, bà vẫn chẳng tiến triển gì, vẫn nằm đó hôn mê, lão đứng nhìn bà
mỗi ngày, không nỡ rời đi, sợ khi bà tỉnh lại không có ai cạnh bên. Bác sĩ, điều
dưỡng thấy lão đứng ngồi không yên nên cũng an ủi.
- Bác nhà không sao đâu, chắc
do tai nạn bất ngờ, cộng tuổi già sức yếu nên lâu hồi phục, bác đừng lo lắng
quá, chúng tôi sẽ cố gắng hết mình.
Lão nghe xong cũng an tâm phần
nào. Tất cả chỉ biết trông chờ vào số trời. Mà ông quên mất rằng đã có lần bà
nói với ông, sinh mệnh của bà phụ thuộc vào Thiên Chúa của bà hay sao.
Khoảng chục hôm thì bà tỉnh,
nhưng người có vẻ đau đớn và yếu ớt. Bà thấy lão, muốn nở nụ cười nhưng không
tài nào nhấc mép nổi. Nụ cười bà muốn dành cho lão từ lâu lắm nhưng lúc còn khỏe
bà lại không thể trao cho lão, bản tính nghi ngờ từ hồi còn trẻ vẫn đeo bám bà.
Giờ muốn cười thì không thể, khắp cơ thể như chống đối lại bà. Lão như hiểu được
bà muốn nói gì nên ghé sát tai lại. Bà mấp máy hồi lâu, khó khăn lắm lão mới hiểu
được điều bà muốn nói.
***
Vị linh mục đứng cạnh giường
bà xức dầu sau khi có sự đồng ý của bác sĩ. Đó là tâm niệm, mong muốn của bà.
Có vẻ như linh cảm của bà mách cho bà biết trước được điều gì đó. Lão đứng cạnh
bên, chú ý từng động tác của vị linh mục. Cho tới khi vị linh mục ra về lão mới
nhận ra có điều gì đó thân thuộc biết bao nhưng ngay lúc ấy lão không tài nào
nhớ ra được.
***
Bà được ra viện trong sự háo
hức đợi chờ. Lão đưa bà về nhà trọ nghỉ ngơi, không cho bà lang thang đi bán đồ
ở bến xe nguy hiểm nữa.
Suốt quãng đường về bà vịn
tay chặt vào hông lão, miệng không ngừng rối rít cảm ơn. Lão nghe không lọt
tai, vì chưa bao giờ bà dành cho lão những lời lẽ nhẹ nhàng như vậy.
Lão định bụng sẽ để bà khỏe hẳn
rồi sẽ nói chuyện quan trọng này cho bà nhưng lão không đợi được. Bà nghe lão
nói cũng háo hức lắng nghe.
- Tôi có chuyện quan trọng, định
để bà khỏe hẳn rồi sẽ nói bà nghe nhưng tôi không đợi được.
- Có chuyện gì ông cứ nói ra
đi. Ấp úng gì nữa.
- Tui nghĩ từ mai bà không phải
đi lang thang bán đồ tìm con bà nữa đâu.
- Ủa sao vậy ông? Ông có tin
tức gì về con trai tui sao.
- Không, tui không có. Nhưng
tui tìm được người có vết bớt cánh sao ở cổ tay rồi. Còn phải con bà hay không,
chắc chỉ có bà mới biết.
- Nhưng người đó ở đâu, ông
mau nói đi. Ông làm tui đau tim quá.
- Người ấy..., chính là vị
linh mục mà bà đã nhờ tui đến gặp để tới bệnh viện cầu nguyện cho bà.
- Chúa ơi, không thể nào chứ.
- Tui nói thiệt tình, giỡn bà
chi.
- Vậy ông mau chở tui tới gặp
Người đi... Mà thôi không được, chắc gì Người phải là con tui. Mà nếu phải, chắc
gì Người chấp nhận tui ông nhỉ. - Mạch cảm xúc của bà biến đổi nhanh quá, đối lập
nhau khiến lão cũng không tài nào hiểu nổi.
Lão không biết trả lời bà thế
nào, nhưng nhìn vào trong mắt bà, lão thấy ánh lên niềm vui đó giờ bà chưa từng
có được.
***
Lão chở bà đến ngôi giáo đường
ấy như mong muốn của bà. Tới nơi, đang là giờ Thánh lễ, bà kéo tay lão vào ngồi
ở hàng ghế cuối cùng. Bà đưa đôi mắt lên nhìn vị linh mục trong chiếc áo trắng
đang giảng lễ trên gian thánh, mắt bà lung linh, niềm vui đượm nhuần trên gương
mặt nhăn nhúm bởi mưa gió và thời gian.
Tan lễ, lão chở bà về, suốt
quãng đường đi bà không nói gì, lão cố bắt chuyện để bà vui hơn nhưng đáp lại
chỉ là im lặng. Bất giác lão thấy áo mình ướt nhẹm từ lúc bà kêu mệt nên ngả đầu
vào lưng mình. Trời có nổi mưa đâu mà sau lưng lão ướt, đâu hay nước mắt bà
tuôn, vì bà đang vui, suốt bao năm, niềm vui có được từ nước mắt.
Mã số: 17-073
Trời xanh mát dịu, những ánh nắng
nhẹ đan trên những rặng cây. Bà Ánh đang ngồi lần chuỗi, thì thầm với Đức Mẹ
bên hiên nhà. Tượng đài Đức mẹ nằm trước sân, ánh mắt mẹ vẫn trìu mến nhìn vào
ngôi nhà nhỏ bé này.
- Mẹ, đưa cho con ít tiền,
mau mau con đi gấp! - Nam giục mẹ vẻ vội vội vàng vàng.
Bà mẹ vẫn lặng yên, tay vẫn lần
những hạt chuỗi nhỏ. Bỗng Nam cáu giận, chạy tới giật tràng chuỗi từ tay mẹ; những
hạt chuỗi đứt ra tung tóe bắn xuống đất, Nam vùng vằng:
- Suốt ngày kinh với tụng, lần
hạt, đọc kinh có ra tiền không?
Những hạt chuỗi đá lăn trên
sân, gặp ánh nắng mặt trời, nó tỏa ra những tia sáng thật kì lạ. Bà Ánh lững thững
bước vào trong nhà, đi ra cầm một nắm tiền đưa cho con trai, vẻ mặt tủi sầu
không quên dặn:
- Con ơi, con định làm khổ
thân mẹ đến bao giờ nữa đây? Ba con ra đi như vậy rồi mà con vẫn không thay đổi
sao! Về nhà sống yên đi con.
Đây không phải là lần đầu bà
rơi nước mắt vì thằng con trai yêu dấu của mình. Đã biết bao lần Nam làm mẹ
khóc, mẹ đau. Bạn bè trang lứa cùng Nam đi nghĩa vụ quân sự, ai về cũng ngoan
ngoãn hiền lành. Riêng Nam thì mang về cho gia đình một cái gánh, gánh mà cả đời
này chắc bà Ánh không thể quên được. Nam hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ra về và
mang theo giấy nợ 30 triệu đồng từ các tay cho vay gần nơi khu căn cứ. Như tiếng
sét đánh ngang tai, bà Ánh như không tin vào mắt mình; còn ông Hùng thì đã bị đột
quỵ ngay sau đó vài hôm vì vốn đã có sẵn bệnh về tim. Giấy nợ mang về, ông Hùng
ra đi… Bà Ánh như không còn đủ sinh lực để sống trên cõi trần này nữa. Bà khóc
đến kiệt kuệ, khóc đến không còn giọt nước mắt. Điều gì đã khiến Nam nợ nần nhiều
như vậy trong khi đang thi hành nghĩa vụ quân sự? Lô đề, nhậu nhẹt và tính sĩ
diện của mình, ngày này qua tháng nọ; thời gian rảnh là Nam có mặt ở mấy quán
xung quanh đó ra sức đầu tư cho những con lô, những số đề và rủ cả bạn bè nhậu
nhẹt. Hai năm kết thúc nghĩa vụ quân sự, bù qua số lãi và thâm thua, Nam kết lại
với số nợ từng đó. Vậy là một mình bà Ánh phải hứng chịu những gì ập tới gia
đình. Bà lấy tiền tiết kiệm và vay bà con làng xóm để trả cho Nam. Nào Nam có
thay đổi, vẫn tụ tập, vẫn chơi bời…
- Đi đây, tối con về. - Nam cầm
số tiền mẹ đưa, nói xong rồi đi thẳng.
Căn nhà vốn đã vắng vẻ nay lại
trở nên u sầu hơn. Bà cũng không thể tưởng tượng được cậu bé ngày nào còn vui
tươi giúp lễ nhà thờ nay lại thành kẻ tan hoang phá phách. Chẳng lẽ đây chính
là thánh giá mà Chúa muốn gửi gắm nơi bà? Nam càng chơi bời, càng phá phách bao
nhiêu thì bà lại càng tỏ ra kính mến Chúa và trông cậy Đức Mẹ bấy nhiêu. Bà phó
thác mọi sự và hằng ngày vẫn luôn nài nỉ thầm thĩ lần chuỗi với Mẹ mong một
ngày nào đó Nam thay đổi, ăn năn. Đã xế chiều, Bà lủi thủi nấu cơm và mong đứa
con về ăn. Vẫn biết rằng ăn xong là nó cùng đám bạn lượn đi ngay nhưng tình mẫu
tử cháy bỏng trong bà thì cho dù là dăm ba phút thấy sự hiện diện của con ở nhà
là bà cũng mừng rồi. Nam dẫn một nhóm người tóc xanh tóc đỏ về, nói năng vài ba
câu sau đó ăn bát cơm rồi kéo nhau lăn ra ngủ. Cảnh tượng này đã kéo dài vài
tháng nay rồi. Đến ngày bà Ánh không còn đâu tiền để Nam chìa tay xin, Nam quyết
định ra đi cùng nhóm bạn. Mấy tháng trời… nửa năm, rồi đến ngày 28, 29. Hôm nay
đã là 30 Tết, vẫn không thấy bóng dáng Nam về. Bà Ánh tủi thân, khuôn mặt hằn
lên những nếp nhăn thật tội nghiệp. Một mình một vẻ trong căn nhà hiu quạnh,
hàng xóm láng giềng ghé qua thăm nom bà rồi lại về sửa soạn cho gia đình. Chắc
chỉ có Đức Mẹ trước sân mới hiểu thấu được nỗi khổ của bà, vì Mẹ đã quan sát, lắng
nghe và cảm nhận những lời tâm sự hằng ngày của bà. Bỗng có một chiếc ô tô màu
đen dừng trước cổng nhà bà, một nhóm người lạ mặt bước xuống xe tiến vào sân:
- Bà già, đây có phải nhà thằng
Nam con ông Hùng không?
- Các anh là ai vậy? Nam nhà
tôi đi làm không có nhà.
- Làm cái gì mà làm, có tiền
thì trả cho thằng oắt con ấy đi, 20 triệu. Nợ tụi này hơi lâu rồi đấy.
Bà hơi choáng vì cảnh tượng
này lại một lần nữa hiện ra, nợ nần, tiền bạc... sao nó cứ đeo bám mãi gia đình
của bà như vậy? Bà ngồi thụp xuống ghế thở dài.
- Tiền… Nhà già này làm gì còn
tiền nữa mà trả với nợ.
Biết không làm ăn gì được với
bà già này, đám người bước đi không quên ngoái lại sau đe dọa:
- Về nhắn với thằng con trai
quý tử của bà lo mà thanh toán trước khi ngôi nhà này bị ra đi.
Làng Lý Nhân yên bình như vậy,
có ai biết đâu rằng trong căn nhà nhỏ này có biết bao nhiêu là khổ cực, nỗi khồ
mà chỉ có một mình người mẹ phải chịu. Hết nước mắt, bà không thể khóc được nữa.
Cái Tết đó thật là buồn và hiu hắt, bóng một người lủi thủi đi ra rồi lại đi
vào như đang mong ngóng ai đi xa về.
Tết đó Nam không về.
Nam ngao du cùng bạn bè suốt
mấy tháng trời; khi tiền tiêu xài đã hết, nhóm người cũng tan rã, ai đi đường nấy.
Nam không có tiền về nhà, làm thuê thì không ai mướn vì Nam đâu biết làm việc
gì. Một tuần, hai tuần rồi gần cả tháng, Nam lang thang trong các bãi đậu xe để
xin phụ xe nhưng ai cũng ngán ngẩm lắc đầu. Buổi tối không chốn nương thân, Nam
tìm vào các gầm của những chiếc xe ô tô tải để tránh sương và ngủ qua đêm. Bãi
đậu xe rộng lớn, loáng thoáng vài người cũng trong hoàn cảnh như Nam, cũng ngủ
vất vưởng nay đây mai đó. Tối nọ, vừa ngả lưng xuống chợp mắt thì Nam nghe có
tiếng lạ và một dáng người mặc đồ trắng xóa vụt qua người Nam. Nam giật thót
tim và hét lên:
- Ôi! Mẹ ơi, ma… ma…!
Nam tái xanh mặt, sợ run lên
và không thể nào ngủ lại được. Anh ngồi tưởng tượng có thể đó là những oan hồn
bị chết oan trong các vụ tai nạn của những chiếc xe tải này gây ra sao? Và rồi
bao nhiêu những thứ khác hiện lên trong đầu Nam.
- “Con sợ gì trên đời này nhất”?
- Lời cô giáo lý viên hỏi khi Nam còn nhỏ.
- Dạ, con sợ ma nhất ạ.
- Vậy khi con cảm thấy sợ,
con hãy làm dấu thánh giá, Chúa sẽ ở bên và che chở cho con.
Những lời nói ngày nào vọng lại
trong tâm trí Nam. Nam bất thần đưa tay lên làm dấu. Bao lâu rồi Nam quên mất
làm động tác này, cái động tác của một người con cái Chúa. Nam thức cho đến tận
sáng ngày hôm sau và quyết tâm xin cho được một công việc nào đó làm nuôi thân
để khỏi gặp lại cảnh như ngày hôm qua. Bưng bê, rủa chén, bốc vác…thứ gì Nam
cũng làm thử nhưng chỉ được và hôm là lại bỏ rồi lang thang khắp đường phố. Ma
xui quỷ khiến thế nào mà nhóm xã hội đen lần mò ra được tung tích của Nam.
Chúng đuổi theo, bao vây và định bắt giữ Nam để thanh toán. Nam hoảng quá chạy
vào những chỗ đông người, len lỏi mong sao trốn thoát được bọn quỷ dữ này. Chạy
mãi, chạy mãi đến lúc gần như kiệt sức không còn một tí hơi, Nam bất chợt thấy
một ngôi thánh đường thế là rẽ luôn vào đó. Đúng lúc đang trong giờ lễ, Nam chạy
vào làm xôn xao một chòm giáo dân. Đám người kia cũng vừa kịp chạy tới nhưng đã
bị mấy ông trùm quản đuổi ra vì ngoại hình và cách ăn mặc lạ lẫm, hung tợn. Nam
lặng đờ người ngồi trong ngôi thánh đường, tâm trí đang rất hoảng loạn vì tí nữa
thì bị nhừ đòn. Lấy tiền đâu ra trả cho chúng đây, không trả thì chúng sẽ giết
sống mình?... Tiền… Tiền kiếm ở đâu đây?... Những câu hỏi cứ lần lượt hiện lên
làm Nam rối bời. Nghe tiếng cha giảng, tiếng giáo dân đọc kinh… Nam vẫn chưa thể
tập trung được vì mấy năm rồi Nam không bước chân đến cửa nhà nguyện.
Được mấy người hỏi han và giúp đỡ, Nam được giới
thiệu tới làm cho một lò mì gần đó. Làm chưa đầy hai tháng, Nam lừa chủ và ôm gọn
số tiền ra đi theo những con lô con đề với
ước mơ gỡ nợ. Không những không còn tiền mà Nam còn bị thâm nặng và phải vay
thêm một số chủ mới. Nợ nần chồng chất, một chủ rồi lại hai, ba chủ… Các nhóm
cho vay nặng lãi biết bị lừa nên quyết săn lùng Nam cho bằng được để dằn mặt
cho nếm vị đời. Lần này thì không thể thoát nổi, Nam đã bị mấy nhóm người bao
vây trong khi đang dùng cơm trưa tại một tiệm ăn. Chúng đánh đập đòi trả tiền,
những cú đấm đá thụi mạnh vào mặt, vào bụng và sườn Nam.Vừa lúc đó có một người
đàn ông chạy tới:
- Các anh sao lại đánh người
như thế này, có chuyện gì thì từ từ giải quyết?
- Nó nợ tiền bọn tôi, định trốn
nợ đây. Để xem có trốn được không, hôm nay xử cho nó không lết được thì thôi. Định
chơi khăm bọn này hả.
Người đàn ông vội lấy ra ít
tiền nói là trả trước ít lãi và hứa sẽ trả hết từ từ. Một lúc sau bọn chúng mới
đồng ý và bỏ đi. Đau đớn vô cùng, Nam ngẩng
mặt nhìn lên xem vị cứu tinh của mình là ai thì hết sức ngạc nhiên, vì đó chính
là ông chủ của lò mì mà Nam đã từng làm và từng phản bội. Vừa đau vừa tủi hổ,
Nam giàn giụa nước mắt nói lời xin lỗi và cám ơn vị ân nhân vô cùng tốt lành.
Được đi làm lại tại lò mì, Nam vô cùng sung sướng; có chỗ ăn chỗ ở an toàn là cảm
thấy quá hạnh phúc rồi. Chiều chiều, gia đình ông ra nhà thờ để lần chuỗi đọc
kinh cùng các giáo dân trong giáo họ. Lúc đầu Nam ngại ngùng không ra nhưng vài
lần được thúc giục, Nam mới miễn cưỡng ra nhà thờ lẫn chuỗi mỗi khi làm mì
xong. Ngồi trước Thánh thể, trước tượng Mẹ, Nam cảm thấy lòng mình sao thanh thản
và bình yên đến lạ vậy, chưa có bao giờ Nam có được cảm giác như thế này. Suốt
ngày tiền bạc, lô đề và nợ nần cứ xoay
quanh đầu Nam, làm sao Nam có thể yên ổn được. Dần dần, Nam cảm thấy thật hạnh
phúc khi cùng mọi người ngồi đọc kinh lần chuỗi trong nhà nguyện, một cái cảm
giác an bình đến lạ lùng và khó hiểu.
Một ngày nọ, Nam được giao
nhiệm vụ đi rao mì cho mấy nhà trong một xóm nhỏ.
- Chú ơi, chú gì ra nhận mì
này.
- Vào đây cho tôi, mang vào
giùm tôi đi. - Tiếng khàn khàn của một người đàn ông trung tuổi cất lên.
Nam ái ngại bước vào vì căn
nhà quá lụp xụp, đập vào trước mắt là một người đàn ông đang xúc từng miếng
cháo đơm cho bà vợ nằm liệt giường. Không khí trong nhà hơi ảm đạm kèm theo mùi
hơi khó chịu, Nam cố gượng hỏi vài câu để đưa mì rồi đi ra mau mau. Người phụ nữ
đã liệt nửa người hơn 20 năm nay, ông một tay phải nom vợ và chăm sóc thêm hai đứa con. Hình ảnh
ấn tượng đặc biệt với Nam là tay người phụ nữ cứ mân mê tràng chuỗi suốt,tuy liệt
nửa người đó nhưng không ngày nào là bà không lần chuỗi. Bà nói với Nam, đó là
liều thuốc cho bà sống và là hương vị nêm cho gia đình bà luôn được đầm ấm cho
đến hôm nay. Nam xin phép ra về, lòng cứ bồi hồi xao xuyến vì cái thứ thuốc thần
kì đó. Mải nghĩ ngợi lung tung, Nam tông xe vào một em bé đang đi bộ trên đường.
- Mày đi kiểu gì thế hả, mắt
để lên trán à? - Nam hét toáng lên.
Em bé hoảng quá khóc thét, chắc
nó khoảng lớp 3, lớp 4. Nam nhìn xuống nắm đồng tiền lẻ từ tay em bé rơi bay ra
phất phơ dười lòng đường.
- Mấy cái đồng bạc lẻ, khóc
gì mà khóc.
- Đây là số tiền cháu dành dụm
để mua thuốc cho bà cháu. Hu..hu…- Em bé nức nở phân trần.
Nam lặng người đi, “tiền mua
thuốc cho bà”, “tiền dành dụm”…Đã bao giờ mình mua thuốc cho mẹ chưa, một năm,
gần hai năm nay rồi chưa một lần ghé về. Ngày hôm đó hình ảnh người phụ nữ liệt
giường và em bé cứ hiện lên trong Nam. Nam cảm thấy tội lỗi và bất hiếu vô
cùng, Nam ra quán uống rượu để giải sầu rồi lững thững bước vào nhà thờ. Mắt
Nam như nhòe đi, sống mũi cứ cay cay. Nam nhìn tượng Đức Mẹ đang bồng Chúa
Giêsu, nước mắt mẹ chảy ra lăn dài trên má. Nam dụi dụi mắt cứ ngỡ mình đang
nhìn lầm, dụi đến đau mắt nhưng hình ảnh đó vẫn
hiện lên rõ rành rành. Nam tự đưa tay tát mình một hai cái thật đau để tỉnh
mơ nhưng sự thực vẫn đó. Nam không tin vào chính mắt mình nữa. Nam khóc, khóc vì thân phận lầm lỗi của mình,
khóc vì mình mà làm cho biết bao nhiêu người đau khổ. Khóc vì mình quá tệ bạc,
tệ bạc đến nỗi làm cho Mẹ rơi nước mắt.
Nam đấm ngực ăn năn cho thân phận bọt bèo của mình. Càng nhìn lên tượng Mẹ, Nam
lại càng thấy tâm hồn đau hơn.
- Mẹ khóc vì lỗi tội của con
phải không? Mẹ khóc vì lâu nay con không đến nhà thờ, không đọc kinh, không hiếu
với gia đình phải không? Con là cái thằng đáng chết mà, một kẻ chẳng ra gì.
Nam ngồi lâu, thật lâu trong
nhà nguyện. Tối hôm đó, Nam viết lên dòng thời gian trên trang mạng xã hội:
“Các bạn biết không, chuỗi Mân Côi là một mầu nhiệm thật tuyệt vời, Mẹ Maria đã
cho tôi thầy điều đó. Nhiều người nghĩ chắc tôi say xỉn nên nói lung tung. Thực
sự là tối nay tôi có uống chút ruợu, nhưng khi viết những dòng tâm sự này, tôi
hoàn toàn tỉnh và không hề say. Kí tên: Nam lầm lỗi”. Dòng tâm sự đã làm xôn
xao nhiều bạn bè của Nam, một số người bán tín bán nghi về những gì Nam nói, một
số khác cũng bị đánh động bởi “chuỗi mân côi” của một kẻ tội lỗi từ bạc tiền.
Ngay ngày hôm sau, Nam xin ông chủ về quê.
- Ai đấy, ai kéo cảnh cửa đó,
vào đi. Có phải cô Hoa sang lấy thuốc cho tôi phải không? - Tiếng người mẹ già
phát ra từ trong căn nhà nhỏ, sau khi nghe thấy có tiếng động từ cánh cửa.
Nam đứng im, ngập ngừng không
dám bước vào. Năm phút, mười phút…mười lăm phút Nam vẫn cứ đứng yên ngoài hiên
nhà. Đến khi tiếng ho khụ khụ của mẹ trong nhà phát ra, Nam chạy òa vào trong
bên giường mẹ.
- Mẹ bị ốm phải không mẹ?
- Ai đấy? Ai vào nhà tôi đấy?
- Mẹ ơi, con đây, Nam đây mẹ.
Con xin lỗi mẹ, ngàn lần xin lỗi mẹ, con không ra gì, con có lỗi với mẹ.
Bà mẹ không tin vào đôi tai của
mình, bà cố gượng dậy, ôm cổ đứa con trai của bà. Nó đã trở về, trở về thật sao.
- Con….con về nhà đấy ư? Con
có đi lại nữa không con… con?
- Mẹ ơi, con không đi đâu nữa
mẹ, con…con…- Nam nức nở nói trong nước mắt.
Mẹ đã già đi nhiều từ ngày
Nam bỏ đi, tóc mẹ đã nhuốm màu mây bạc. Nam đau thắt từng khúc ruột, người mẹ
cưu mang mình, nuôi dưỡng mình đã vì mình mà chịu bao khổ cực, đã vì mình mà cạn
đắng những giọt nước mắt.
- Mẹ ơi, con là đứa con bất
hiếu, bất hiếu với bố, với mẹ. Con không xin mẹ tha thứ cho con nhưng con chỉ
xin mẹ đừng buồn vì con nữa. Con hứa con sẽ sống tốt hơn, con xin thề con sẽ
không nhúng đến các tệ nạn nữa. Con thấy được những đau đớn của các tệ nạn ấy rồi.
Chỉ có gia đình, những lời kinh mới làm cho con cảm thấy an bình thôi ạ.
- Con…con…!
- Sao con lại…con...?
Mẹ Nam khóc không lên tiếng,
muốn nói điều gì đó nhưng không sao nói được. Chắc có lẽ vì bà quá xúc động,
không thể kiềm chế được.. Bà không thể tưởng tượng được có ngày hôm nay, ngày
mà thằng con trai của bà quay về nói lời xin lỗi, quay về với lòng ăn năn hối cải.
Bà quơ tay, xoa đầu con, bà muốn nói lắm nhưng không thể cất tiếng được, tim bà
đang rất bất bình thường vì những cảm xúc loạn xạ. Từ từ, từ từ bà lịm dần, lịm
dần đi; đôi tay bà buông thõng xuống giường rồi nghiêng qua một bên. Hai hàng
nước mắt chảy chầm chậm xuống từ hai khỏe mi, miệng bà mỉm cười, khuôn mặt bà
nhìn rạng rỡ hơn bao giờ hết.
- Mẹ …..Mẹ ơi….Mẹ!!!
***
Nam nhớ lại như in ngày Nam
vùng vằng đứt tràng chuỗi từ tay mẹ mình, những hạt chuỗi đã bắn đi tung tóe khắp
nơi. Nam thẫn thờ lần theo xung quanh tượng đài Đức Mẹ trước sân mình mong tìm
được những hạt chuỗi vô cùng quý giá ấy. Liệu có thể tìm được sao? May thay, Nam
bá tay lên kệ thấy một cái lọ thủy tinh nhỏ, trong đó ánh lên những hạt chuỗi lấp
lánh, Nam mừng rỡ vội mở ra. Những hạt chuỗi vẫn sáng lóng lánh như ngày nào,
kèm thêm một mẩu giấy nhỏ đã phai nhòe màu mực: “Xin Mẹ thương và cứu vớt con
trai con, dâng Mẹ”. Nam bồi hồi xao xuyến, chẳng lẽ mẹ đã viết giấy này, đã
liên lỉ cầu nguyện cho mình và mong mỏi mình trở về.
- Một, hai, ba…tám, chín. Sao
lại có mỗi chín hạt thế này, chuỗi mười hạt cơ mà. Mình phải tìm cho ra hạt cuối
cùng đó, chuỗi sao lại thiếu được.
Nam đi quanh, đi quanh để tìm
cho ra hạt chuỗi cuối cùng đó nhưng vô ích, chẳng có kết quả gì. Đã gần hai năm
rồi từ ngày những hạt chuỗi đó bắn tung ra và cũng đã gần một tháng rồi từ ngày
mẹ xa cách. Nam quỳ xuống bên tượng Mẹ, ăn năn về những việc mình làm. Đấm ngực
than khóc vì mình là nguyên nhân gây ra
bực bội cho bố và sự ra đi của ông; là mũi dao nhọn đã đâm thâu tâm hồn người mẹ
yêu dấu. Suốt đời này biết làm sao để đền bù những tội lỗi gây ra đó.
- Mẹ Maria ơi, con đáng chết
phải không, đáng đọa đày vì tội bất hiếu? Bố mẹ thân yêu đã ra đi ngày con phạm
những lỗi lầm và cũng lại ra đi ngày con nhận ra lỗi và hoán cải trở về. Con phải làm sao đây, làm sao để rửa sạch vết
nhơ tâm hồn con đây? Muôn đời con thật đáng tội lỗi.
…..
- Hạt chuỗi thứ mười có phải…có
phải là chính nơi bản thân con, phải vun đắp đền bù để hạt chuỗi đó luôn được tỏa
sáng, để đủ cho dây chuỗi cuộc đời kia? Hạt chuỗi này cần con xây dựng từng
ngày, đi tìm từng ngày trong cuộc sống con. Mẹ ơi Mẹ….xin dạy con!
* * *
Những tiếng nói tiếng cười được
tìm lại nơi ngôi nhà nhỏ bé; tiếng đọc kinh, lần hạt vào các giờ tối, tiếng trẻ
con ríu rít đọc theo từng từ bố mẹ dạy. Một lò mì được sinh ra trong xóm nhỏ để
phục vụ và giúp đỡ những người nghèo khổ, vết lầm cũ đã được xóa xong. Anh đã kết
hôn cùng cô con gái của ông chủ lò mì, một sự nghiệp mới, một cuộc sống mới đã
được sang trang. Mẹ Maria vẫn luôn tươi cười che chở dìu dắt cho những bông hoa
bé nhỏ của cuộc trần.
- Này anh, nhà anh lần chuỗi
suốt thế, lần hạt đọc kinh có ra tiền không, có nhiều tiền bằng bán mì không?
- Ô… cái anh này! Mỗi ngày nếu
lần 100 hạt là chúng tôi có ngay 100 đôla gửi cho các linh hồn, gửi để cầu nguyện
cho chúng tôi và cho cha mẹ chúng tôi rồi đấy.
Mã số: 17-080
Trời trở gió…
Ông Thuấn quỳ sụp trước lèn Đức Mẹ nức nở: “Lạy Mẹ, con đã làm gì sai, xin Mẹ hãy chỉ cho con, vì sao như vậy, tại
sao lại như vậy…”. Gió rít lên từng hồi như muốn đánh tan lời ông. Mọi khi
ông vẫn thường đứng cầu nguyện, lúc mệt mỏi thì ngồi xuống ghế đá, đây là lần đầu
tiên ông quỳ dưới chân Mẹ, ông không thể đứng nổi hay đang ân hận về những việc
mình đã làm, ông cũng không biết nữa. Đầu óc ông quay cuồng như chiếc lá rụng
vào gió xoáy. Tháng tháng ngày ngày như thước phim quay chậm đang giày vò tâm
trí ông…
***
Ông Thuấn vốn là thầy thuốc cứu người. Ấy thế nhưng “dao sắc chẳng gọt được chuôi”. Bao năm
chữa vô sinh cho người ta, vậy mà gần năm mươi tuổi đầu ông chưa có được mụn
con. Phần vì ráng tìm vợ người Công giáo, phần vì ông hơi “nghệ sĩ”, muốn tìm người có “tâm
hồn đồng điệu” nên bị “quá lứa lỡ
thì”. Cũng may ngoài bốn mươi thì gặp bà Thuấn - cô giáo làng bên, lúc bấy
giờ là “con bệnh” của ông, bệnh viện
đã trả về, nghe tiếng ông sang cắt thuốc cầu may. Đến khám gặp lúc ông đang
châm cứu cho người ta, cô giở một cuốn tiểu thuyết dày cộp ra đọc và lập tức
thu hút ánh nhìn của ông. Để làm quen, ông đề nghị “đổi sách lấy thuốc” nhưng cô không chịu, chỉ cho mượn thôi. Lâu dần
hai người “dính với nhau như sam”
thành vợ chồng, ai cũng cười: “Cái anh
Thuấn này may, tự dưng lấy được vợ trẻ lại có học”, chỉ ông biết bệnh thận
của bà Thuấn không dễ chữa, việc có con lại càng khó.
Không biết cuộc sống “đều
đều” của ông Thuấn sẽ trôi về đâu nếu không có phong trào “xây lèn Đức Mẹ” nổi lên khắp giáo phận.
Giáo xứ của ông chẳng giàu có gì nhưng cũng cố gắng gom góp tiền để xây, “vay nợ cũng phải xây cho xong”, Cha Xứ
bảo vậy. Ông Thuấn dù không dư giả cũng đóng góp tiền công khám chữa bệnh một
tháng. Ai ngờ lèn Đức Mẹ lại thiêng đến thế, bao người đến xin đều được thành
thử tiếng vang khắp huyện, khắp tỉnh, người ta về cầu Mẹ, đã tài trợ cho xứ rất
nhiều tiền, dư để trả nợ, còn xây khuôn viên vườn hoa và đặt cả hàng ghế đá cầu
nguyện nữa. Phải biết là những năm đầu thập niên chín mươi thế kỷ trước, ghế đá
là một mặt hàng “xa xỉ” nhé. Vậy mà
trước lèn Đức Mẹ xứ ông có hẳn hai hàng ghế đá, mỗi bên năm chiếc, đúng chẵn chục
cũng đủ biết công đức người ta đóng góp nhiều đến thế nào. Nhưng cũng rất kỳ lạ
là sau khi công trình xây xong đẹp đẽ thì, nói hỗn phép, Mẹ “mất thiêng”, người ta xin không có được
nữa. Lèn Đức Mẹ vì thế vắng vẻ hẳn, chỉ còn giáo dân trong xứ vẫn cầu nguyện với
Mẹ hàng ngày thôi. Người trong xứ nửa đùa nửa thật: “Mẹ cho thế là đủ rồi, xây xong hết thì Mẹ còn sang giúp các nơi khác nữa
chứ, Mẹ ở Fatima có mấy ngày mà ở xứ mình hơn nửa năm rồi còn đòi gì nữa”.
Ông Thuấn không nghĩ thế, Mẹ thương thì Mẹ còn quay lại, “cứ xin thì sẽ được” (*). Và cứ thế, dù trời ráo hay mưa, dù đêm
giông hay gió, ông đều dâng Mẹ “năm chục”
mỗi ngày…
Thế rồi năm năm sau ngày cưới, hai năm kể từ ngày xây xong lèn Đức
Mẹ thì bà Thuấn bất ngờ có thai, cái thai lại rất khỏe, sinh bé gái bụ bẫm xong
bệnh tình bà còn thuyên giảm nữa mới hay. Ông bà đặt tên con bé là Maria Hảo,
cho dù ba đời nhà bà Thuấn đều đặt tên thánh con gái là Têrêsa - vị Thánh nữ
thành Avila nổi tiếng. Con bé Hảo lớn lên khỏe mạnh thông minh nhưng cũng rất
nghịch ngợm tinh quái làm ông khá vất vả vì mẹ nó yếu không trông nổi, dạy nó học
càng khó, “phu bất phụ giáo” mà. Đến
năm nó mười tám tuổi thi đỗ đại học danh tiếng ở Hà Nội, ông tự hào lắm song
cũng vô cùng lo sợ nó ở thủ đô một thân một mình dễ hư thân mất nết. Nhưng mọi
lo lắng của ông chỉ là thừa, đúng như cái tên của nó, con bé thậm chí còn mang
về tấm “bằng đỏ” làm hai lỗ mũi của
ông phỗng ra, chắc hai chiếc xe tăng cũng chui lọt. Hôm nó “vinh quy bái tổ”, ông sung sướng “nhâm nhi” hết nửa chai rượu thuốc lâu năm, tay vân vê chòm râu, vừa
cười vừa hỏi:
- Con gái rượu có tính đi làm chỗ ông Q. không, hay là có chỗ ở “Hà Lội” rồi. Thôi cứ về công ty ông Q.
cho gần nhà. Bố nói với ông Q. rồi đấy, làm giỏi thì gả luôn cho thằng Tân, hề
hề… Xem xem bạn bè bố có cháu chắt cả rồi đấy! Bố cũng muốn có cháu bế rồi!
Nhanh nhanh đi, bạn bè con lấy chồng hết cả rồi còn gì, đừng làm ông bố già này
phải mang tiếng nuôi “gái ế” trong
nhà, hề hề…
Không ngờ con bé Hảo không cười, nó nghiêm mặt lại, giọng lí
nhí:
- Con không… Dạ… con không…
- Không cái gì mà không, mày không cái gì?
- Dạ con không, con không…
- Lắp bắp cái gì, nói nhanh lên nào!
- Dạ, con không lấy chồng ạ, con tính đi Xơ (Soeur)…
- Hả…
Ông giật bắn mình đứng dậy, chén rượu tuột khỏi tay vỡ tan. Bà
Thuấn vội vội vàng vàng đi nhặt mảnh chén, sợ ông giẫm phải. Nhưng có lẽ là
không cần thiết bởi ông gần như chết đứng tại chỗ, mặt đỏ gay đỏ gắt, đuôi mắt
giật giật, miệng mấp máy không thành lời, một lúc sau mới bật thành tiếng, nửa
tức giận nửa thất vọng:
- Tao…tao…tao nuôi mày chừng này tuổi rồi để mày không nghe lời
tao hả?
Thấy ông giơ tay lên, con bé đã nhanh nhẹn lùi lại né, nhưng nó
vẫn nghiêm nghị:
- Bố, bố đã bao giờ bảo con phải lấy chồng đâu? Bố bảo con phải
ngoan, phải học giỏi, phải sống theo gương thánh Quan Thầy. Giờ con mà đi Xơ được
thì cũng đồng trinh theo gương Đức Mẹ, sao bảo con không nghe lời ạ?!
- Mày, mày…
Khuôn mặt ông trở nên méo xệch, dù cố gắng hết sức để thể hiện
cái uy quyền của người cha nhưng ông đã không thể đứng vững, lồng ngực như vỡ
tung, bầu trởi chao đảo trước mắt, chỉ lờ mờ nghe mấy tiếng la thất thanh “ông ơi, ông ơi”, “bố, bố, con sai rồi…” trước khi khuỵu xuống…
- Lúc bố ngất đi con hoảng quá nên mới nói “con sai rồi” chứ không phải đâu, con vẫn muốn đi Xơ, muốn đem Tin
Mừng đi khắp muôn nơi…
- Mày ra ngay cho tao, ra ngay khỏi phòng cho tao…
Phòng bệnh nhốn nháo bởi tiếng gầm của ông, tay ôm ngực, ông lại
gục xuống lần nữa. Mọi người kéo Hảo ra ngoài trước sự bực dọc của mấy vị bác sỹ,
y tá: “Đã bảo không được để ổng xúc động
rồi mà”.
Ông xuất viện, con bé Hảo không đến đón, mọi người bảo nó quay lại
Hà Nội đi làm, nó tránh mặt vì sợ ông lại “tăng
xông” nhưng ông thừa biết nó tự bắt xe vào Tu Viện rồi, mọi người “thì thầm” gì mà to đến cả làng còn nghe
thấy, ông đâu có điếc. Người ta đâu hiểu nỗi lòng của người cha già có đứa con
độc nhất đâu, đó là chưa kể việc đã nhỡ hứa gả nó làm con dâu ông bạn đồng niên
rồi. Họ xầm xì bàn tán, nào là “cái ông
Thuấn này kỳ quá, người ta mơ có con đi tu còn không được, đằng này con nó quyết
chí đi tu, nó lại vừa ngoan vừa giỏi vầy thì sẽ đạt, lúc đó làm ông Cụ, bà Cố
chả vinh hiển à”, nào là “con giai
còn bảo nối dõi tông đường gì gì đó chớ con gái thì đi tu chả tốt à, mấy đứa
con gái nhà tôi mà muốn đi tu là tôi cho đi tất… làm ông thêm phần bực bội,
lòng ngổn ngang trăm mối, tự vấn quẩn quanh không biết mình đúng hay sai. Ông
chỉ xuôi xuôi khi bà Thuấn nhỏ nhẹ: “Thôi
thì nó là con của Đức Mẹ, giờ nó đi tu là coi như nó về với Mẹ rồi ông”. “Nhưng lúc tôi xin Mẹ, tôi xin được con cháu
đầy đàn như sao trên trời, khi nó lớn ngày nào tôi cũng xin có thật nhiều cháu
ngoại mà…”, ông cố vớt vát, nửa như oán trách Mẹ vậy.
***
Năm đầu nghe nói con bé Hảo đi giúp xứ lên tận Tây Nguyên xa
xôi, ông lo lắm. Nhưng trộm nghĩ Hà Nội đầy bụi bặm cám dỗ còn chẳng làm hư được
nó huống là Tây Nguyên trong lành, con người chân chất. Con bé Hảo chỉ dám gọi
điện cho mẹ. Biết vậy, ông nửa kín nửa hở nhắn gửi là ông đã chấp thuận việc nó
đi tu rồi và đang cầu nguyện cho nó bền đỗ. Vậy mà qua gần một năm nó mới dám
nói chuyện với ông, nhưng cuộc nói chuyện đầu tiên sau chừng ấy thời gian lại bắt
đầu bằng cuộc tranh luận mới.
- Thì người Tin lành cũng tốt mà bố. Con lên đây gặp nhiều người
theo đạo Tin lành lắm. Con cũng được biết đến các Mục sư, họ giảng dạy rất là
hay, rất là thuyết phục. Người theo đạo Tin lành cũng thường xuyên làm thiện
nguyện. Vậy nên ở trên này người ta theo đạo Tin lành chẳng kém đạo Công giáo
đâu bố. Con thấy phải học hỏi cách truyền giáo của người ta nhiều, bố ạ.
- Bố bảo không là không. Con có nghe bố không, đừng có qua lại với
dân Tin lành ấy. Họ không tin Đức Mẹ đồng trinh, không tin các phép Bí tích, tiếp
xúc với họ nhiều là lạc giáo đó, nghe chưa…
- Dạ, có lẽ bố nhầm một chút rồi ạ, Tin lành cũng có nhiều hệ
phái mà bố. Ví như phái Lutheran cũng tin một Chúa Ba Ngôi, tin Ngôi Lời nhập
thể, tin có sự sống đời sau, tin xác loài người sống lại trong ngày sau hết như
mình. Đây cũng là phái có rất nhiều nét tương đồng với Công giáo và khả năng Hiệp
nhất hàng đầu đó bố. Sự chia tách năm xưa chỉ là tai nạn thôi ạ. Cũng là do
hoàn cảnh lịch sử, thời đại nữa. Với cả những người theo đạo Tin lành ở đây
cũng giúp đỡ con nhiều. Qua lại với họ có gì không tốt đâu ạ.
- Tao lại chả là bố mày à. Mày còn trẻ
người non dạ lắm con ơi, khéo mà mày bị người Tin lành dụ dỗ rồi. Tao nói lần
cuối nhé, không qua lại với người Tin lành, không đọc sách về cái ông Luther lạc
giáo ấy nghe chưa!
- Nhưng bố ơi - Giọng con
bé Hảo yếu ớt - Sr bề trên bảo con có năng khiếu viết văn, lên trên này nhớ
tìm hiểu và viết bài luận về đạo Tin lành đó bố…
Tắt máy, ông Thuấn ngồi thừ ra. Bé đến giờ ông mới nghe chuyện
người Công giáo đi tìm hiểu đạo Tin lành. Nghĩ sao Sr bề trên lại giao nhiệm vụ
khó khăn đó cho con bé chứ. Cho dù nó đã hai mươi ba tuổi, đã tốt nghiệp đại học
thì nó cũng chỉ mới dự tu năm nhất mà thôi. Hồi bằng tuổi nó ông còn bị cấm đọc
sách về cái ông Luther lầm lạc ấy (mặc dù
lúc đó làm gì có mà đọc). Trong tâm thức của ông, lời các Mục sư Tin lành mật
ngọt lắm, nghe mấy ông Mục sư nói là bị thuyết phục hết, rồi lầm lạc đi theo
Tin lành hết. Không được. Ba bốn đêm ông nằm vật ngược vật xuôi không chợp mắt.
Bà Thuấn thấy vậy rỉ tai ông:
- Tôi biết ông lo lắm. Vậy ông cứ vào Tu Viện xin nó về xuôi đi.
Nói thế chứ tôi cũng không yên tâm…
- Bà không yên tâm là sao?
- Tôi nghe con bé kể chuyện trên đó mà phát hoảng. Nó kể, nó tìm
gặp người theo đạo Tin lành để có vốn viết bài luận. Họ đón tiếp nó nồng hậu lắm.
Ban đầu tưởng nó là người Ngoại nên họ chỉ dẫn nó đủ thứ, còn tặng luôn sách
kinh, sách bổn, sách thánh ca, đĩa CD… Sau nghe nó nói là người Công giáo, họ
không hề lạnh nhạt hay kỳ thị, thậm chí tỏ vẻ vui mừng hơn, bảo “Cũng là con một Cha trên trời thôi hà”.
Khi biết nó đi thiện nguyện, họ ủng hộ nhiệt tình, còn nhờ nó chỉ thêm các nơi
đang gặp khó khăn để đến giúp. Nó có vẻ khâm phục lối truyền giáo của người Tin
lành lắm. Nó cũng mến phục phương thức cầu nguyện rất sốt sắng nữa, chỉ cần hai
ba người đồng đạo là họ cầu nguyện theo nhóm ngay, lời cầu nguyện rất tha thiết,
là lời khóc lóc kêu van thật lòng ấy. Vậy nên các Hội đoàn Tin lành có thể hoạt
động và mở rộng ở những nơi xa xôi hẻo lánh dù không có nhà thờ, không người chủ
sự. Người Tin lành cũng rất chịu khó tìm tòi, giáo lý của họ vững lắm nhé. Hôm
trước nó có tranh luận với một người bên Tin lành. Nó cho rằng việc “cách tân” để người tu hành như Mục sư
được phép lấy vợ là sai trái, làm mất tính thiêng liêng của Chức Thánh, khiến
cho người truyền giáo không giữ đức khiết tịnh, khó lòng chuyên tâm, thế là họ
phản biện ngay: “Chả phải nhiều vị trong
Nhóm Mười Hai cũng có vợ con đó sao, sau khi Chúa về Trời, các Tông đồ cũng về
sinh sống với gia đình song hành với việc truyền giáo đó thôi, chưa kể là ở bên
Công giáo thì Linh mục dòng khấn trọn đời, còn Linh mục triều có khấn đâu, hà cớ
gì buộc người ta không được lấy vợ, sinh con để mở rộng Nước Chúa là sao”.
Nó đuối lý đành phải thoái thác “để con
xem lại vấn đề này rồi tranh luận sau”…
- Đó bà thấy chưa, tôi đã bảo rồi, họ giỏi “dụ” lắm!
- Ông còn nhớ hôm trước Cha Xứ có giảng về sự gia tăng mạnh mẽ của
đạo Công giáo ở Hàn Quốc là điều chúng ta cần học hỏi không? Mấy hôm nay tôi
xem thêm trên mạng Internet mới biết, tuy đạo Công giáo gia tăng mạnh tại Hàn
Quốc nhiều năm qua nhưng số lượng giáo dân chỉ bằng phân nửa Tin lành thôi, ở
bên đó Tin lành phổ biến hơn và cũng có giai đoạn gia tăng thần kỳ không kém. Vậy
ắt là Tin lành phải có sức hấp dẫn lớn lắm chứ ông. Đồng ý là đâu đó có một số cách
thức trái luật “dụ” người ta, một vài
nơi bài xích phong tục tập quán và truyền thống của địa phương, nhưng những điều
con bé kể thì có phản giáo gì đâu. Với cả xét cho cùng, “ta” với “họ” cũng “cùng một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên
Chúa là Cha”. Tin lành hay Chính thống đều là một phần chưa hoàn hảo của
Chân Lý mà thôi…
- Hừ, bà cũng đọc cả mấy tin đó hả, chết thật, coi chừng bà lạc
giáo trước nó ấy…
Ông Thuấn lom lom nhìn bà từ phía trên kính.
- Ông đừng có nói bậy, tôi thấy thế tôi mới càng lo, ông còn
không mau mau thu xếp vào Tu Viện đi.
- Bà đang ốm thế này…
- Tôi bảo con bé T. nó sang ngủ cùng, lo gì.
- Con bé liệt đó hả, bà còn chưa phải chăm nó nữa là nó chăm bà.
- Ôi dào, nó đi xe lăn tự lo được, với cả còn cái này nữa - Bà Thuấn vừa nói vừa đập đập tay vào chiếc
điện thoại di động - ông cứ yên tâm đi đi, nhanh còn kịp.
Nghe vậy ông Thuấn vội khăn đùm khăn gói định vào Tu Viện thì được
tin con bé Hảo đã về xuôi, kết thúc việc đi xứ ở Tây Nguyên. May quá, vậy là
yên tâm rồi.
***
Gần tết, ông nhận được một món quà nửa thích nửa không: bằng
khen “Giải Nhì cuộc thi tìm hiểu về đạo
Tin lành toàn Giáo Tỉnh” của con bé Hảo, là giải thưởng chính cái bài luận
đó. Nó lấy địa chỉ nhà, được giải không có điều kiện đến nhận nên Ban tổ chức
người ta gởi về theo địa chỉ đăng ký dự thi. Mặc dù không thích cuộc thi này
nhưng khi bà Thuấn treo cái bằng khen lên giữa phòng khám ai ai cũng tấm tắc
khen, ông đi ngoài đường có bao người níu lại hỏi thăm với giọng đầy cảm phục,
ngưỡng mộ làm hai lỗ mũi của ông lại phỗng to như năm ngoái. Phần tiền thưởng
thì ông kính Đức Mẹ hết, nó là con của Đức Mẹ mà, với cả giờ vô nhà dòng rồi
cũng chẳng cần tiền làm gì…
Tin vui nối tiếp tin vui: con bé Hảo được về thăm nhà. Ông ra tận
bến xe đón thì ngỡ ngàng khi nó dẫn theo một anh thanh niên có dáng vẻ thâm trầm
khó đoán. Thấy ông “soi” thật kỹ anh
chàng như muốn hỏi “ai đây”. Con bé vội
giới thiệu: “Đây là bạn con ở Chủng viện,
ảnh nghe tiếng Lèn Đức Mẹ xứ mình nên về hành hương bố ạ”.
“À, ra là đi nhà thầy, vậy
cũng tốt”. Ông mỉm cười đầy thân thiện,
kính trọng, càng yêu mến, cảm phục cách nói chuyện có vẻ nghiêm nghị kiểu thầy
tu, sự hiểu biết về Đạo Chúa rất sâu sắc của chàng trai. Ông vui lắm. Nhưng
không hiểu sao ông vẫn dự cảm có điều gì đó chẳng lành. Ông cứ ngờ ngợ, hình
như đã gặp người này đâu đó, cái phong cách này quen quen hay giống ai đó mà
ông đã từng được nghe kể. Nhất là khi ông phản đối gay gắt về việc con bé Hảo tỏ
vẻ bênh vực đạo Tin lành, “thầy” thủng
thẳng dàn hòa chỉ bằng một câu nói lấp lửng nhưng đủ làm ông không thể phán
kháng: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,…”
(**).
“Thầy” ở chơi hai ngày rồi cùng Hảo trở vào Nam. Lúc đó bà Thuấn mới
cho ông hay “thầy” thực ra là Mục sư
mà Hảo gặp lúc đi giúp xứ và ít nữa “hai
đứa” sẽ cùng nhau quay lại Tây Nguyên tiếp tục truyền giáo, biết ông không
bao giờ chấp thuận nên “chúng nó” chỉ
dám báo với bà trước thôi, lúc đó ông mới ngớ người ra. Vậy là không dưới một lần
con bé Hảo đâm thâu trái tim ông, nhưng lần này thực sự là “đòn chí mạng” làm ông á khẩu luôn. Không thể tin một con bé có ăn
có học đàng hoàng, tuổi tác cũng không còn nhỏ, giáo lý “thuộc cả bìa”, đã bước nửa bước chân vào Nhà Dòng lại có thể từ bỏ
Giáo Hội, bỏ cả cha mẹ như vậy. Đã thế còn được mẹ nó bao che, cổ xúy nữa chứ!?
Phản! Phản hết cả rồi! Ông nhăn nhó, chỉ tay vào mặt bà, khóe miệng giật giật rồi
gục xuống…
***
Đêm dần về khuya, gió dịu lại, ông Thuấn mệt mỏi thiếp đi, bỗng
một cánh tay mềm mại đặt lên vai ông, “Tất
cả những điều ông mong muốn đều trở thành hiện thực, ông còn đòi hỏi trách cứ
gì nữa?”. Ông giật mình quay lại. Một luồng sáng chói lòa khiến ông hoa mắt
chóng mặt ngã sấp xuống, thoảng trong gió có tiếng nói dịu dàng:“Cảm ơn ông đã nhớ đến ta mỗi ngày bằng Chuỗi
Mân Côi, cầu nguyện cho nhân loại biết hoán cải, trở về với Chúa. Nhưng ông biết
đấy, Người Kitô hữu không chỉ là Vương đế và Tư tế, còn phải là Ngôn sứ nữa!
Ông đã hướng con bé sống chức vụ Vương đế và Tư tế, còn chức vụ Ngôn sứ, hãy để
nó thực thi theo cách riêng của mình…”
Trong ánh sáng mờ dần rồi tắt hẳn, ông Thuấn ngây người ra khi
thấy cảnh Núi rừng rộng lớn và hàng ngàn tín hữu đa sắc tộc Tây Nguyên đang được
ôm trọn trong vòng tay bé Hảo, con gái ông…
---------------------------------------------------------------------------------------
(*) Trích Kinh Thánh Tân Ước.
(**) Trích Ca dao.
Mã số:
17-082
Có nhiều lúc tôi tự đặt
câu hỏi phải chăng tôi sinh ra là cái cớ cho bố mẹ tôi?
Thân thể của người phụ nữ đạo Công giáo và thân thể của người
đàn ông đạo Tin Lành đã hòa quyện với nhau để tạo nên tôi. Đó là cái cớ đầu
tiên, tại sao tôi cho nó là một cái cớ các bạn biết không? Hôn nhân của ba mẹ tôi vốn dĩ là một cuộc chiến
đấu và đó là cả một sự mạo hiểm. Ngày trước gia đình cả hai bên không đồng ý cho ba mẹ lấy nhau vì
không cùng chung một tôn giáo. Ông bà tìm đủ mọi cách để chia rẽ bố mẹ mặc dù
biết rằng bố mẹ tôi rất yêu nhau. Mẹ đã nói với ngoại: “Nếu mẹ không cho con lấy
anh, con sẽ chết”. Vậy mà ngoại không một chút mảy may thay đổi, ngoại đáp: “Có
giỏi thì mày làm đi!”. Không phải ngoại không thương mẹ mà thực ra ngoại sợ rằng
khi lấy chồng không cùng đạo mẹ sẽ khổ. Tìm đủ mọi cách, mọi lời thuyết phục
nhưng đều vô hiệu hóa, mẹ và bố quyết định làm một việc mà đáng lý ra người Công giáo như mẹ không được
làm nhưng vì yêu mẹ chấp nhận. Và thế là chỉ một tháng sau hai bên nội ngoại phải
đồng ý cho bố mẹ tới với nhau vì một sinh linh đã được tạo nên và, bạn biết,
sinh linh đó chính là tôi. Tôi không biết cái duyên cớ này tôi nên vui hay nên
buồn, thực sự tôi không có đáp án cho câu hỏi này.
Từ khi con bé như tôi “oe… oe…” cất tiềng khóc chào đời thì cả
hai con người cùng tin vào Thiên Chúa ấy lại bắt đầu giáo dục và dạy dỗ tôi
theo tập tục tôn giáo họ. Năm tháng cứ thế trôi qua tôi trở thành một cô bé
xinh đẹp, ngay cả chính bản thân tôi không phải tự kiêu nhưng tôi cũng phải thừa
nhận điều đó. Trong xóm đạo nhỏ gần ven sông, người ta cho rằng tôi là một thiếu
nữ mang dáng dấp của một con người, con người đó là chính là Đức Maria - Mẹ
Thiên Chúa, người phụ nữ mà người theo đạo Tin lành như bố không hề tin và có
lúc bố còn cười nhạo. Thực ra mà nói, mang trong mình hai luồng tư tưởng khác
nhau nên có nhiều lúc tôi cũng chẳng tin vào Đức Mẹ. Suy cho cùng tôi là người ở
giữa nên tôi gắng dung hòa. Phải chăng tôi như là hiện thân của Maria nên mẹ lấy
đó làm hãnh diện và muốn rằng sau này tôi phải trở thành một nữ tu. Khi nghe được
thông báo từ chính miệng mẹ là muốn tôi trở thành một nữ tu, bố gạt phăng:
- Không bao giờ có điều đó xảy ra, tôi cấm, tôi muốn nó yêu và kết
hôn với một mục sư để làm chứng cho đạo Tin lành.
Thế là một cuộc cãi vã lại xảy ra, không hẹn mà gặp cả hai cùng
bật người quay qua hỏi tôi:
- Con theo ai?
- Con… Con…
Chúa ơi, con biết theo ai bây giờ? Sao Ngài lại đặt con vào giữa
cuộc đời với cảnh sống này chứ? Ngài muốn gì nơi con? Tôi đặt ra hàng loat câu
hỏi như vậy mà không hề nhận được một câu trả lời.
Cuộc sống hằng ngày của tôi như được bố mẹ lập trình sẵn, có lúc
tôi phát chán với cuộc sống này. Ban ngày dưới sự điều quân của bố, giờ nào rảnh
là tôi phải đứng ngay trước cửa các nhà thờ để phát tờ rơi loan báo về đạo Tin
Lành. Tối đến tôi lại phải phục tùng mẫu hậu bằng việc tới nhà thờ tham dự Thánh Lễ và lần chuỗi Mân côi. Những
việc làm này không phải tôi không muốn nhưng vì mỗi lần theo ai là tôi lại phải
nghe đối phương hét lên: “Để con bé ở nhà!”. Và thế là lại có những lời qua tiếng
lại trước lúc dẫn tôi đi.
Thời gian cứ thế trôi qua, tôi nhận ra rằng tôi quá quan trọng
trong cuộc đời của bố mẹ tôi để rồi hai bên sợ hãi tôi sẽ theo ai, tôi bỏ rơi
ai cho tới độ cả hai luôn tìm cách để kéo tôi về một trong hai. Tôi không ngờ họ
yêu tôi tới mức đưa ra quyết định ly hôn để chiếm trọn tôi. Tại sao chứ? Tại
sao ba mẹ cùng tin vào Chúa, cùng một đối tượng để tôn thờ mà lại có thể đưa ra
những quyết định như vậy.
Phải chăng, điều ngoại lo khi xưa giờ đây đã thành hiện thực… Một
tuần nay bố mẹ đâu nhìn mặt nhau, cứ chung là đụng, gia đình đâu có bữa ăn nào
cơm ngon canh ngọt. Đêm đêm lại nghe tiếng mẹ rên xiết trong phòng: “Chúa ơi,
sao con khổ như vậy, biết thế lúc trước con nghe lời mẹ không lấy anh”. Bố lại
vọng qua: “Bà nghĩ tôi hạnh phúc khi lấy bà chắc!”. Tôi thiết nghĩ, chẳng nhẽ
những gì bố mẹ kể cho tôi về chuyện tình của hai người trước đây không đủ để giữ
họ hay sao? Tại sao con người lại đối xử với nhau như vậy?
Áp ngày lễ Giáng Sinh mà gia đình tôi như có đại tang vậy. Tôi
không muốn ở nhà một giây phút nào hết. Tối 24 tôi quyết định ngao du một mình,
lang thang trên con đường đầy hoa và ánh chớp, rộn ràng tiếng người cười nói,
nhưng lòng tôi lai đau như cắt. Tôi đi một cách bất định và tôi bước mà không
biết mình bước tới đâu. Đang thẫn thờ, tôi nghe văng vẳng đâu đó tiếng một đứa
bé: “Mẹ ơi, mình vào cầu nguyện với Đức Mẹ đi, lúc nào Mẹ cũng bên mình hết”.
Tôi biết Mẹ Maria chứ, tôi còn biết rõ nữa là khác nhưng hình như chưa một lần
tôi cầu nguyện với Đức Mẹ. Nghe con bé thủ thỉ với mẹ nó tôi cũng thấy chạnh
lòng và rồi duyên cớ sao tôi cũng đi vào và ngồi nhìn Mẹ. Chỉ là nhìn thôi, sao
nước mắt tôi lại rơi, tôi cứ nhìn và sao tôi thấy Mẹ đẹp thế, phải chăng sự nín
nhịn quá lâu nay gặp được một ánh mắt nhân từ tôi bung ra hết. Tôi lại khóc và
tôi kể lể cho Mẹ nghe mọi điều: “Mẹ ơi, tại sao gia đình con lại như vậy, bố mẹ
con sùng đạo tới mù quáng phải không? Con khổ lắm mẹ có biết không?... Tôi buột
miệng, buột ra hết và tôi buột luôn: “Con đi tu Mẹ nhé!”. Giữa cái tiết trời
mùa đông lạnh giá của đêm Giáng sinh, từng cơn gió rít lên, khiến tôi tê buốt
nhưng lòng tôi ấm lại. Trời đã về khuya, định thần bước chân ra về, bỗng nhiên
tôi nghe như ai đang gọi tên tôi, nhưng quay lại thì không phải, di chuyển bước
chân thì tôi lại nghe rõ hơn, quay người nhìn lại tôi bắt gặp ánh mắt nhân từ của
Mẹ Maria một lần nữa và tôi nghe: “Nhiên ơi, Mẹ sẽ đồng hành cùng con”. Bất
giác tôi đáp nhẹ: “Thưa Mẹ, con biết, con xin vâng”. Tôi nở một nụ cười và sải
chân về nhà.
Lại nữa rồi, đặt chân tới cổng tôi đã nghe tiếng bố mẹ cãi nhau:
- Bà thấy chưa, bà dạy nó kiểu gì mà tới giờ này chưa thấy về.
- Nó là con của một mình tôi chắc, ông là bố nó mà.
Xô ngay cánh cửa, tôi chạy rầm vào nhà:
- Đủ rồi thưa bố mẹ, con là con của bố mẹ sao bố mẹ cứ phải
giành giật nhau, Chúa dạy bố mẹ như thế sao? Bố mẹ luôn miệng nói yêu con, tình
yêu bố mẹ dành cho con là như thế sao? Hôm nay, con sẽ nói quyết định của con
cho bố mẹ nghe.
Cả hai nín thở nhìn về phía tôi.
- Con sẽ đi tu.
- Không!- Bố hét lên một tiếng thật khủng khiếp.
Lúc này đây mẹ tôi cười như một kẻ đắc thắng, còn bố, bố hiện
lên với một gương mặt dữ tợn và đầy hận thù. Mẹ chạy lại ôm chầm lấy tôi, nhưng
tôi đẩy mẹ ra:
- Thưa bố mẹ, con đưa ra quyết định này không phải vì con không
tin bố, càng không phải vì con nghe theo mẹ, nhưng là chính Mẹ Maria đã dẫn đưa
con. Bố, con biết bố sẽ thất vọng về con nhưng bố, từ sâu thẳm con rất yêu bố,
yêu Chúa của bố và yêu Mẹ của Chúa nữa, con mong bố hiểu… Mẹ, con cũng rất yêu
mẹ nhưng không phải vì thế mà con đưa ra quyết định này, con xin mẹ đừng cười một
cách đắc thắng như vậy. Con xin phép bố mẹ ngày mai con đi.
Sáng sớm hôm sau, trời mưa tầm tã như khóc cho chính tôi vậy.
Tôi nghĩ vậy và tôi hạnh phúc. Ngoài trời mưa, trong nhà mẹ khóc vì sắp phải xa
tôi. Riêng cửa phòng bố vẫn đóng kín mịt, tôi biết bố đang giận tôi. Đã tới giờ,
tôi chào mẹ và ghé sát cửa phòng bố: “Chào bố, con đi”. Mọi thứ im lặng không một
chút động đậy, và thế là tôi đi.
Đặt chân tới cánh cổng tu viện với biết bao bỡ ngỡ, mọi thứ thay
đổi, cuộc sống khác, con người khác, bước đầu làm tôi thấy bất an. Nhưng có một
điều tôi thích là tượng Đức Mẹ ngay trước
cổng, ngày nào tôi cũng ra đó cầu nguyện với Mẹ. Sau một tuần, cuộc sống nơi tu
viện dần quen, tôi cảm thấy yêu nơi này và lại yêu Mẹ Maria hơn. Mặc dù cuộc sống
chung có nhiều chuyện nhưng so với những gì tôi chịu trước đây thì nó đâu là
gì. Mọi vui buồn tôi đều có Mẹ đồng hành.
Cho tới một hôm, tôi đang ngồi cầu nguyện với Mẹ cho gia đình
thì có người tới báo, con sắp xếp về quê đi, mẹ con vừa mới qua đời. Tôi như
không tin vào tai mình, tâm thần tôi bấn loạn… Tôi chạy vào phòng vơ đại những
gì tôi có và chạy. Trong lúc chạy tôi lại nghe: “Mẹ sẽ đồng hành cùng con”, tôi
khóc và đáp: “Vâng, thưa Mẹ!”.
Thì ra, mẹ tôi đã bị ung
thư từ lâu, nhưng vì sợ tôi lo nên không dám nói. Giờ đây đứng trước linh cữu mẹ,
tôi thầm cảm ơn mẹ đã dạy đức tin cho tôi, đã một lòng trung thành với đức tin
Công giáo tới cùng. Tôi về, bố không hề nói với tôi một câu, phải chăng bố còn
giận? Tiễn biệt mẹ xong, cũng tới ngày tôi phải lên lại nhà dòng. Nỗi buồn, nỗi
đau tôi ôm một mình tâm sự với Đức Mẹ. Tôi lại cất bước ra đi, cửa phòng bố lại
đóng kín không một lời chào biệt, tôi tủi và nước mắt lăn trên khóe mi. Gạt nước
mắt tới cửa phòng bố: “Chào bố, con đi!”.
Thấm thoát đã 10 năm trôi qua kể từ ngày tôi đi tu và rồi cũng tới
cái ngày tôi chính thức trở thành hiền thê của Chúa. Trải qua bao nhiêu thử
thách, buồn vui sướng khổ giờ đây tôi được nên một với Ngài. Tôi hạnh phúc, tôi
thầm cảm ơn tất cả mọi người và đặc biệt là Mẹ Maria. “Nhưng bố con thì sao, chẳng
nhẽ tới bây giờ bố còn… Mẹ Maria ơi, con nhớ bố con lắm!”.
- Nhiên, lại đây mẹ gặp!- Bất ngờ, mẹ Bề trên gọi tôi.
- Sao con có vẻ suy tư vậy, phải vui lên, ngày mai là ngày thành
hôn của con rồi, còn gì bận tâm hay sao?
- Dạ, không… dạ, là vì con nhớ bố con quá mẹ ạ!
- Con à, con cứ bình an đi! Mọi chuyện Chúa lo, Chúa đâu thua
lòng quảng đại của chúng ta đâu con… Con phải dọn tâm hồn bình an để đón Chúa
và mẹ báo cho con biết ngày mai trong Thánh Lễ con sẽ nhận được một món quà rất
lớn. Con hãy chờ nhé.
Đêm trước ngày khấn dòng, tôi không muốn ngủ, mắt tôi nhắm nhưng
lòng trí tôi cứ mở, tôi thì thầm với Chúa Mẹ và cảm ơn các Ngài, và rồi tôi lại
nhớ bố: “Bố ơi, trong góc khuất của tâm hồn con nhớ bố vô cùng, bố biết không?”.
Giây phút tân lang rước tân nương đã tới, tôi bước lên cung
thánh với lời hứa trọn vẹn thủy chung với đấng Tình quân tôi tôn thờ. Dứt lời hứa,
tôi trở về bàn quỳ, bỗng nhiên tôi nghe tên mình được xướng: “Sr Maria Nguyễn
An Nhiên, trong Thánh Lễ hôm nay sẽ có một phần riêng dành cho con, con hãy
nhìn về phía cuối nguyện đường!”.
- Bố!
Không tin vào mắt mình, tôi không tin người đang tiến về phía
tôi là bố, tôi càng không ngờ bố lại xuất hiện trong Thánh Đường này, nơi mà
tôi nghĩ bố không bao giờ đặt chân tới. Tiến lên cung thánh cầm lấy cái micro,
bố nói trong nước mắt: “Nhiên bé nhỏ của bố, bố xin lỗi con rất nhiều, bố xin lỗi
vì ép con phải theo truyến thống của bố mặc dù con không muốn. Bố xin lỗi con
vì tất cả. Suốt những ngày tháng qua bố đã vô cùng ân hận vì gây cho con và mẹ
con quá nhiều đau khổ, bố nhớ mẹ lắm. Giờ đây bố muốn nói cho con biết rằng bố
đã hiểu đức tin Công Giáo, bố tin Chúa và yêu mến Mẹ Maria nữa. Thực sự, cái
đêm con quyết định đi tu bố giận nhưng đêm đó hình ảnh của Đức Mẹ đã quấn lấy
và chiếm trọn trái tim bố. Bố không biết tại sao như vậy. Cả hai lần con đi bố
muốn chạy ra ôm chầm lấy con nhưng bố không đủ can đảm. Con biết không? Mẹ
Maria đã cứu sống bố trong một lần bố bị đột quỵ. Bố tưởng mình đã chết, nhưng
trong lúc hấp hối đó bố lại thấy Đức Mẹ xuất hiên. Mẹ mỉm cười trao tràng chuỗi
cho bố. Bố thốt lên: “Mẹ ơi, con xin lỗi, xin Mẹ cứu con”. Không ai ngờ rằng bố
lại sống. Ai cũng cho đó là một phép lạ. Và bố tin. Con biết không, bố thường
nghe văng vẳng bên tai: “Mẹ sẽ đồng hành cùng con!”. Bố biết đó chính là Đức Mẹ.
Con gái yêu, bố tạ ơn Thiên Chúa vì cho bố làm bố của con, bố biết, để bố đạt đến
sự hoán cải này tất cả là nhờ con. Bố biết bố không có tư cách, không có quyền
đòi hỏi con điều gì nhưng bố xin con hãy trung thành trong ơn gọi và bố con
mình hãy cùng hiệp nhất và chung một niềm tin con nhé. Bố con mình hãy cùng “chữa
lành ký ức và làm chứng cho Đức Kitô”…
Cả thánh đường im lặng. Tôi chết lặng người trong niềm hân hoan
vui sướng. Một cú hích làm tôi tỉnh, tôi tiến lại ôm trọn thân xác còm cõi của
bố và thủ thỉ: “Phải chăng con là cái ‘cớ’!
Mã số:
17-083
Nắng chiều hè oi bức, hậm hực trút cơn lửa giận lên toàn cõi
nhân gian. Phía đằng Tây ráng chiều đỏ rọi, mặt trời như quả cà chua chín nẫu,
lửng lơ chưa chịu rụng. Tường đứng trên sảnh tầng cao nhất của sân bay ngắm
hoàng hôn qua lớp kính trong suốt. Năm năm rồi Tường mới lại được ngắm nhìn bầu
trời quê hương. Cái bầu trời với những dải mây u ám, xám xịt, lặc lè gánh gồng
xô đẩy nhau cảm giác như thể đưa tay ra là chạm đến da trời ram ráp, xù xì như
bàn tay nứt nẻ, thô kệch của mẹ Tường mỗi khi trời trở gió. Đôi bàn tay mà mỗi
lần áp lên má mình, đôi mắt Tường lập tức nhắm tịt lại chỉ để ngăn không cho
dòng nước mắt nóng hổi chực trào ra. Đôi bàn tay đã khiến Tường quyết tâm rời bỏ
nơi chôn rau cắt rốn để sang đất nước Nhật Bản xa xôi mang theo khát khao sẽ
tìm thấy “Miền Đất Hứa”. Nơi Tường nghĩ sẽ có những dòng sông trong vắt uốn lượn,
những chú chim bồ câu chẳng nhát người và những chiếc bánh mì trắng phau từ
trên trời rơi xuống không bao giờ cạn như niêu cơm Thạch Sanh. Miền Đất Hứa của
Moise, Tường đã mặc định nó chính là bầu trời Tokyo xanh trong, mềm mại. Dưới bầu
trời ấy Tường mơ mình nằm gối đầu lên đùi mẹ bên gốc cây thông già cao lớn xòe
ra những tán lá xanh rì, bàn tay mẹ nhẹ vuốt tóc cậu, làn gió dìu dịu thổi qua
tai cậu những bản nhạc không lời du dương, dòng sông nước chảy êm đềm như những
mạch máu muôn đời dưỡng nuôi thân xác nhân gian. Và cậu sẽ trở lại là chú mục đồng
ngày ngày ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều, thổi sáo, hát những bài Thánh
ca hân hoan: “Trong trái tim Chúa như nôi hồng con xin được như bé ngủ mơ, một
giấc mơ, nghìn giấc mơ những giấc mơ ấm êm tuổi thơ…”. Cậu cứ hát, hát mãi, hát
mãi cho đến khi giấc mơ dịu lại.
Nắng chiều dần tắt, từng đàn chim nối đuôi nhau tìm đường về tổ,
Tường xốc lại balo kéo vali rời khỏi sân bay, lòng thầm nhủ: “Về nhà thôi”.
Người lái xe taxi trạc ngoại ngũ tuần, làn da cháy nắng, mái tóc
lưa thưa lốm đốm bạc, gương mặt nhăn nheo trông rất khắc khổ. Cái khắc khổ lây
lan sang cả từng đồ vật, từng bộ phận trong chiếc xe có phần cũ kĩ này. Nhưng
chính thế lại khiến Tường có cảm giác gần gũi, thân thuộc.
Ngồi trên xe Tường chăm chú nhìn cảnh vật hai bên đường. Qua một
lần cửa kính, tất cả dường như được phủ một lớp sương mờ ảo. Đường từ sân bay về
nhà Tường là đường ven đô, bởi vậy hai bên là cánh đồng lúa với những vệt vàng
vệt xanh chạy đến tận chân trời. Trên cánh đồng ấy bầu trời đột nhiên như cao
hơn, xanh trong hơn và vạn vật đều trở nên yên bình hơn, những dải lúa uốn lượn
nhè nhẹ cho cậu biết có ngọn gió nào vừa thổi qua. Người nông dân vẫn hăng say
làm việc. Thảng mới thấy bóng một con bò vàng lững thững bước nhẹ trên con đường
dẫn về thôn làng lấp ló đằng xa. Mỗi lần như thế Tường lại áp mặt vào cửa kính,
căng mắt ra nhìn như tìm kiếm một điều gì đó. Mãi cho đến khi bóng dáng con vật
khuất dạng, cậu mới quay mặt lại nở một nụ cười vu vơ. Không ai biết cậu đã
khám phá ra bí mật gì trong cái cảnh bình thường tẻ ngắt của nhân gian kia. Ông
lái xe già nhìn cậu thích thú nhưng vẫn bảo toàn thái độ im lặng từ đầu đến cuối.
Có lẽ ông nghĩ đối với một thế giới nội tâm ngây thơ, yên bình như thế thì chỉ
cần buông một tiếng nói nhỏ thôi cũng là một sự xúc phạm ghê gớm. Trên chiếc xe
này ông đã từng đón đưa biết bao đứa con xa quê trở về nhà. Nhưng một tâm hồn
muốn ôm trọn đất mẹ như thế này lần đầu tiên ông được chứng kiến. Ông đoán hẳn
cậu ta phải được sinh ra trong một gia đình tử tế lắm, được yêu thương che chở
nhiều lắm mới có được một trái tim đáng quý đến vậy.
Chiếc xe rời đường quốc lộ đi vào đường đê. Hai bên đường nhà cửa
san sát. Bầu trời lúc này như chiếc mũ màu ghi phủ lên mặt đất một màu nhờ nhợ.
Âm thanh trong trời chiều lộn xộn: tiếng ếch kêu, tiếng quạ khóc, tiếng chó sủa,
tiếng gà gáy, tiếng người huyên náo… Tất cả như một bản Thánh ca của sự sống.
Tường căng tai lắng nghe thứ âm thanh nguyên thủy nhất, thanh bình nhất, hạnh
phúc nhất. Nó làm dậy lên trong tâm hồn Tường những xúc động trong trẻo kì lạ.
Và kia, cây bàng cô đơn gắn liền với tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp của
Tường đã hiện ra trước tầm mắt. Người dân làng cậu vẫn nói rằng mỗi khi đi xa
trở về chỉ cần nhìn thấy cái dáng đứng thẳng, cô độc vươn đôi cánh tay dài ngoẵng
lên bầu trời ngàn năm không đổi kia là biết rằng mình đã về tới mảnh đất quê
hương yêu dấu. Tường nhớ ngày xưa đám trẻ chăn trâu làng Tường và đám làng bên
vẫn thường phân bua nhau xem cây bàng ấy thuộc về làng nào. Phân bua gì mà đến
sứt đầu mẻ trán. Kết quả là cây bàng ấy chẳng thuộc về làng nào cả. Nó nằm
chính giữa con đường ngăn cách cánh đồng hai thôn. Ấy thế mà lũ trẻ làng Tường
lúc đó còn không cam chịu đến nỗi có đứa tức giận cầm cuốc băm vào gốc cây. Từ
vết chém mủ ứa ra ròng ròng trắng đục như dòng sữa mẹ. Thằng bé cầm cuốc lúc đó
tên Tâm không biết vì lý do gì vừa nhìn thấy thế mặt nó liền tái đi, lập tức vứt
cuốc bỏ chạy. Cả đám thấy thế cũng bỏ chạy theo.
Sau này lúc ngồi trong nhà thờ chờ vào xưng tội thằng Tâm ngồi
bên cạnh Tường, thậm thụt hỏi: “Tội cuốc vào gốc cây thì bị phạt thế nào hở
mày?”. Tường bối rối không biết trả lời bạn ra sao vì cậu chưa nghe thấy nói có
tội này bao giờ. Lúc đó cậu chỉ biết có tội đánh người, chém người… chứ không hề
biết chém cây cũng là tội. Tâm nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Tường xong mặt nó cũng
xị ra, nói: “Chắc phải lần hạt năm chục mỗi ngày trong vòng một tháng như chú
tao mất thôi”.
Rồi nó bắt đầu kể bằng cái giọng rầu rĩ, thật thà rất trẻ con:
“Hồi trước thằng Trâu (Thằng Tâm lúc nào cũng coi đám trâu bò lợn gà như người)
nhà tao dứt sẹo chạy sang ăn vụng đống rơm nhà chú Hai tao. Chắc tại nó đói
quá. Mấy ngày liền tao ốm, bố mẹ tao thì đi làm từ sáng tới tối không có thời
gian đi cắt cỏ cho thằng Trâu nên nhìn thấy đống rơm nhà chú Hai thằng Trâu không
nhịn nổi mới kéo đứt cả cọc nhảy sang ăn trộm.
Chú tao đánh đuổi thế nào nó cũng không về. Chú tao tức quá vớ luôn cây
cuốc chém một phát cụt nửa chân thằng Trâu. Thằng Trâu rống lên bỏ chạy nhưng
không có chân nó ngã đổ uỳnh ra đất máu chảy đỏ lòm. Nó cứ nằm thế mà rống lên,
chắc nó đau lắm. Tao nhìn thấy nó thế tao cũng khóc rống lên. Chú tao quát: “Im
mồm, khóc cái gì mà khóc, tao còn chưa đánh cả nhà mày là may”. Tao sợ chú tao
lắm, bố tao còn sợ nữa là. Tối bố mẹ tao về nhìn thấy thằng Trâu thế bố mẹ tao
cũng khóc. Chú tao gọi người vào bán thằng Trâu. Đêm đó người ta vào làm thịt
thằng Trâu ngay giữa nhà chú tao. Người ta đưa tiền cho bố tao rồi mang thịt thằng
Trâu đi. Bố tao vừa cầm tiền vừa lẩm bẩm: “Sắp đến vụ rồi lấy gì mà cày”. Chú
tao cười, tao thấy con trâu nhà chú tao cũng cười. Hôm sau chú tao đi xưng tội.
Vừa ra khỏi cổng nhà thờ ông bảo với bố tao: “Cha bắt tôi lần hạt năm chục mỗi
ngày trong vòng một tháng liền, phúc cho con trâu nhà anh”.
“Lúc tao chém vào gốc cây bàng nhìn thấy nhựa chảy ra tao tưởng
tượng giống như lúc con trâu nhà tao chảy máu. Chắc là cây bàng cũng đau lắm,
tao sợ quá mới bỏ chạy. Mấy thằng nghe tao hỏi đều bảo tao ngốc, cây thì làm gì
biết đau. Mày nói xem có phải tao ngốc lắm không?”.
Cho đến tận bây giờ Tường cũng không làm sao quên được ánh mắt
ngây thơ chờ đợi của thằng Tâm nhìn thẳng vào mắt Tường lúc đó. Và cũng cho đến
tận bây giờ cậu vẫn không thể trả lời được câu hỏi rốt cuộc thằng Tâm có ngốc
hay không. Tường chỉ biết khi thằng Tâm thất vọng vì không nhận được câu trả lời
của Tường, nó cúi đầu thấp xuống tận ngực mãi lâu sau cũng không ngẩng lên. Cậu
bé Tường lúc đó không đủ nhạy cảm để nhận ra rằng thằng Tâm đang nghĩ đến bố
nó.
Bố thằng Tâm bị thiểu năng. Mùa vụ ông kéo cày đi theo đít con
trâu, hết vụ ông theo vợ đi phụ hồ, đóng gạch, đánh giấy giáp… việc gì ông cũng
làm và làm rất siêng năng. Cả làng gọi ông là chú Ngốc. Chú Ngốc thật thà chẳng
bao giờ biết tính toán hơn thua được mất. Đi cày chú cày sâu bừa kĩ hơn người.
Mọi người thích chú, ai cũng muốn mượn chú cày. Em trai chú Ngốc thì ngược lại.
Dân làng hay bảo có bao nhiêu cái khôn nó dồn hết cho thằng Hai. Mẹ chú Ngốc
thì nói: “Làm người khôn mới khổ chứ ngu ngu đần đần biết khổ là gì”. Ấy thế
nên có cái gì ngon ngọt bà vun vén hết cho chú Hai. Mỗi khi có ai nói bà ăn ở bất
công bà lại phân trần: “Lạy Chúa, đúng là mồm miệng quân ác quỷ, nào tôi lại nỡ
lòng ăn ở bất công với con với cháu. Cái thằng đần thối kia nó sung sướng hết
phần người khác. Bao nhiêu chuyện lớn chuyện bé trong nhà này thằng Hai nó phải
gánh hết”. Và cũng bởi thế nên ngày nào người ta cũng nghe ông Hai đấm ngực kêu
gào thảm thiết: “Lạy Chúa, tôi khổ quá”. Chỉ là “chuyện nhỏ nhặt như cơm bữa
hàng ngày”. Chẳng hạn như đi cày, đáng lẽ phải đi ba mươi đường thì ông chỉ đi
hai mươi sáu đường thôi vì sức trâu có hạn. Vợ ông đi bán chè khô, ông dạy vợ
lúc pha thử cho khách thì phải pha loại hảo hạng, nước xanh, thơm, ngọt còn lúc
khách gật đầu mua rồi thì lấy “hàng thật giá thật” cho khách. Khách pha lên thấy
nước đỏ quạch như nước chè hâm lại. Vợ chú cười ý nhị: “Tiền nào của nấy”. Từ
đó mỗi khi bà nội thằng Tâm kêu: “Thằng Hai nó khổ lắm”, mọi người cũng liền gật
gù đồng tính: “Có thế thật, ngày nào nó cũng phải lo lắng suy tính làm sao ăn
gian nói dối. Ngày nào cũng phải nghe người ta chửi bới, sao mà không khổ cho
được. Cứ ngu ngu đần đần như thằng Ngốc lại sướng”.
Tường bảo bác tài cho dừng xe cạnh cây đa đầu làng. Cậu trả tiền
xe, tặng bác tài gói kẹo Matcha trà xanh, xuống xe, lấy hành lý, chào bác rồi
bước đi theo hướng ra ngoài đồng. Trời đã tối mịt. Trăng lơ lửng lên cao. Gió
thổi lồng lộng. Khói đốt rơm bốc lên nghi ngút, khét lẹt. Tường lặng lẽ bước
đi. Dưới ánh trăng bóng cậu đổ dài, mỏng manh như chiếc lá rơi nghiêng trên mặt
đất. Bác tài khó hiểu định lên tiếng hỏi cậu đi đâu mà giờ này còn không về nhà
nhưng rồi lại thôi. Có gì đó vô hình ngăn trở bác không dám lại gần thế giới của
cậu trai trẻ này. Có thể do hai người vốn là hai thế giới xa lạ. Hoặc cũng có
thể cái xa lạ thực ra là do vẻ ngây thơ, hồn hậu ánh lên trong mắt cậu thanh
niên ấy khác hoàn toàn cái thế giới mà hàng ngày bác vẫn bon chen, dẫm đạp lên
để kiếm bát cơm manh áo. Bác tài đứng đó nhìn mãi cho đến khi bóng đêm nuốt chửng
lấy Tường.
Vườn Thánh chìm trong đêm tối tĩnh lặng âm u. Con đường ngoài
kia, xe máy ô tô vẫn đi lại tấp nập nhưng chẳng một tia sáng nào có thể rọi được
tới nơi này. Cái chốn thẳm cùng của nhân gian ai là người không muốn lãng quên.
Tường mò mẫm tìm đến mộ của bố. Cái vị trí ấy nhắm mắt cậu cũng
có thể tìm được. Trong bóng đêm thầm lặng Tường ngồi xuống bên ngôi mộ nhớ lại
những tháng ngày ấu thơ yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc ấy chỉ vỏn vẹn
mười năm, và cũng chính từ ngày này của mười năm trước cái yên bình đó đã theo
bố cậu ra đi.
Cậu nhớ cái ngày đưa tang bố cậu, đêm ấy hai mẹ con cậu ngồi tựa
cửa nghe các chú các bác liệt kê tiền đám ma. Khoản nợ nhà cậu như cái cây mỗi
ngày lớn thêm một chút.
Cậu nhớ cái ngày người ta đến xiết nợ, con lợn nái sắp đến ngày
sinh người ta thương tình dắt đi cho. Đêm ấy mẹ cậu ngồi kể chuyện chị Dậu. Con
chó cái mới sinh đã thành chuyện con lợn nái.
Cậu nhớ ngày cậu cãi nhau với đứa em nhà chú. Nó chửi cậu ngu. Cậu
bảo nó “mất dạy”. Nó cười: “Bố tao chưa chết tao chưa mất dạy”. Năm ấy em họ cậu
chín tuổi.
Cậu nhớ ngày giỗ hết bố cậu, mẹ cậu đi sang từng nhà chú nhà bác
cậu mở lời muốn làm giỗ cho bố cậu, “để các cháu nhớ mà thêm lời đọc kinh cầu
nguyện cho bác nó”, mẹ cậu nói như van lơn. Chú cậu đội vội cái mũ cối lên đầu,
trả lời trống không: “Vội lắm, không có thời gian, chết trẻ sung sướng gì mà cỗ
với bàn. Xin lễ thôi là được. Ngày nào tôi chẳng nhắc nhở các cháu đọc kinh cho
ông bà cho bác chúng nó”. Mẹ cậu lủi thủi về nhà làm mâm cơm cụ. Trước thánh lễ
quẩy lên nhà Cha. Đợi Cha, các thầy, các dì ăn xong lại quẩy về. Mâm cỗ gần như
còn nguyên mà chẳng ai muốn động đũa. Mẹ cậu ngước nhìn bàn thờ nghi ngút khói
hương. Khói làm cay mắt mẹ, và làm cay cả mắt cậu. Thánh lễ ngày hôm đó ngoài mẹ
con cậu ra chỉ có cô và hai chú của Tường. Các thím và các em còn bận ở nhà
trông cửa hàng.
Tường nhớ bao nhiêu là chuyện. Những câu chuyện cứ bốc lên nghi
ngút như sương khói bủa vây lấy Tường, làm mắt cậu cay xè. Ở đâu đó vọng lại tiếng
cuốc kêu nghe sầu thảm. Ngọn gió thổi qua làm bùng lên những ánh lửa lập lòe
trên những đống rơm rải rác khắp cánh đồng. Chỉ có nơi này từng giây từng khắc
đều là lạnh lẽo.
Tiếng chuông nhà thờ đột nhiên vang lên xé toạc cả không gian,
Tường có cảm giác như âm thanh ấy đập tan lớp đất đá, thấm xuống từng ngôi mộ
đánh thức những con người đang say giấc ngàn năm phải thức dậy. Không biết là
do sương đêm lạnh, hay là do nỗi bàng hoàng đang chế ngự tâm hồn cậu khiến Tường
khẽ rùng mình ớn lạnh. Ánh trăng bỗng chốc sáng hơn. Hàng vạn những ngôi sao
cũng tỏa ánh sáng lấp lánh. Tường nhìn lên bầu trời rồi lại nhìn xuống mặt đất.
Không gian trời đất gần đến như hòa làm một. Ánh sáng và bóng tối hòa làm một.
Sự sống và cái chết dường như cũng hòa làm một. Chỉ có tiếng chuông nhà thờ vẫn
miệt mài vang lên, vang mãi, vang đến từng mạch máu đường gân thớ thịt từng tế
bào trong thân thể cậu. Nó dụ dỗ cậu, lôi kéo cậu khiến cậu vô lực, u mê bước về
phía nó.
Khung cảnh nhà thờ vẫn không khác gì mấy so với năm năm trước.
Có chăng chỉ là người đi lễ bây giờ thưa thớt như sao trên trời những ngày u
ám.
Tan lễ, mấy ông bà vẫn có thói quen đứng tụm năm tụm ba ở sân
nhà thờ trò chuyện, những câu chuyện vô thưởng vô phạt.
- Trời dạo này nóng dữ, nóng chết mất thôi.- Một ông cụ tầm thước,
chừng bảy mươi tuổi, có bộ râu dài đến ngực cất lời than thở. Lúc ông nói, bộ
râu của ông đung đưa theo miệng ông.
- Mặt đất nóng lên do ô nhiễm môi trường làm thủng tầng ô dôn.-
Người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi đeo cặp kính gọng sắt - không biết
là kính cận, kính lão hay loại kính thời trang bán đầy ở những sạp hàng la liệt
trên đường quốc lộ, phân tích.
- Là Chúa phạt.- Người phụ nữ đứng cạnh, bàn tay cầm cỗ tràng hạt
to tròn, lấp lánh như những hạt ngọc, vừa nói vừa đưa tượng Thánh Giá lên miệng
hôn, có lẽ cô vừa đọc xong một câu kinh hoặc một lời cầu nguyện.
- Trời cứ nóng thế này thì lão đây đến về với Chúa mất thôi.- Cụ
già nói.
- Sao cụ lại nói thế. Cụ phải sống đến trăm tuổi, phải làm tấm
gương con chiên ngoan đạo cho con cháu học theo chứ. Lớp trẻ bây giờ mất nết
quá, chúng nó đến bỏ đạo bỏ Chúa mất thôi.- Người đàn ông trung niên nói.
Đúng đó.- Người phụ nữ chen vào- Cái lũ trẻ ranh càng ngày càng
lười đi nhà thờ, đọc kinh cầu nguyện. Giờ chúng nó thích đú đởn, nhí nhảnh,
chưa nứt mắt ra đã ình cái bụng. Bố mẹ chúng chết chúng cũng không thèm đọc cho
một câu kinh.
- Ừ, đấy cô nói tôi mới để ý- Cụ già vừa nói vừa đủng đỉnh vuốt
râu- Như Thánh lễ hôm nay không biết là lễ giỗ linh hồn Phê-rô nào mà con cháu
chẳng thấy mặt mũi đâu.
- Thật là lũ khốn nạn, cái dòng giống khốn nạn! Cầu Chúa đày lũ
khốn nạn ấy xuống hỏa ngục hết đi.- Người phụ nữ rít qua kẽ răng. Rồi cô lại
đưa Thánh giá lên môi lại bắt đầu lần hạt, đọc kinh cầu nguyện.
- Thật là cả cái giáo xứ này có mấy dòng họ được ngoan đạo như
dòng họ Nguyễn nhà mình, chị nhỉ?- Người đàn ông trung niên quay sang nói với
chị gái.
- Chú nói đúng quá.- Cụ già hùa theo, lại vuốt râu.
- À không, ý cháu là dòng họ Vũ cũng nhiều người ngoan đạo lắm.-
Người đàn ông trung niên nhận thấy mình nói hớ, ngượng nghịu chữa lại.
- Làm gì có, làm gì có!- Ông cụ xua tay lắc lắc đầu, bộ râu ve vẩy
theo cái đầu của ông.
- Dạ, ý cháu là họ Vũ có được tấm gương ngoan đạo như ông là được
tiếng cho cả dòng họ rồi ạ. Mà cháu cũng đang thắc mắc không biết hôm nay giỗ
ai nhỉ? Nhà ai xin lễ giỗ cho ông bà tổ tiên mà con cháu chết hết đâu rồi, đúng
là tuyệt tự tuyệt tôn, ô uế cả gia phả, cụ thấy có phải không ạ?
Đúng lúc ấy có một ông cụ tầm trên bảy mươi tuổi từ trong nhà thờ
đi ra. Cái lưng còng khiến cụ vừa đi vừa phải nghển cổ lên nhìn.
Người đàn ông trung niên vừa nhìn thấy cụ lập tức lên tiếng:
- Chào cụ, may quá gặp cụ ở đây, cụ cho con hỏi hôm nay giỗ linh
hồn Phê-rô nào vậy cụ?
Cụ ngẩng đầu lên nhìn một cái rồi lại cúi xuống, đáp giọng dửng
dưng:
- Chú Tốt đấy à, lâu lắm mới lại được gặp chú. Cả cụ Hòa cô Hiền
nữa, đông đủ quá nhỉ. Thật là một ngày tốt lành. Mà sao chú lại hỏi thế? Không
phải hôm nay lễ giỗ anh trai chú nên người bận rộn như chú mới bớt công bớt việc
về dự thánh lễ sao? Chú lúc nào cũng vậy, cái tật biết rồi còn giả vờ giễu cợt
người khác sao mãi mà không bỏ được?
- Cụ nói gì cơ, lễ giỗ anh trai cháu ấy ạ?
- Chẳng lẽ tôi lại già đến mức lẩm cẩm rồi? Hôm nay chẳng phải
giỗ anh Phúc chồng chị Hạnh, anh trai của cô chú, cháu ngoại của ông trưởng họ
Vũ đây hay sao.- Cụ vừa nói vừa chỉ vào ông cụ có bộ râu dài.- Chị Hạnh chị ấy
xin lễ cho chồng từ cả tháng trước rồi. Nhanh thật thế mà đã mười năm. Kia kìa,
chị dâu chú đang dạy lớp Kinh Thánh đó.
Dãy nhà giáo lý phía sau rặng nhãn tỏa ra thứ ánh sáng âm ấm của
bóng đèn sợi tóc, một người phụ nữ nhỏ nhắn chừng hơn bốn mươi tuổi đang say
sưa đọc Kinh Thánh cùng bọn trẻ. Từ lớp học vẳng lại tiếng lũ trẻ đồng thanh đọc:
“Khốn cho các ngươi, hỡi những người kinh
sư và người Pha-ri-siêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng
bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-siêu
mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng
được sạch”.
Càng về đêm, bầu trời càng cao, mặt trăng càng tỏ. Nhà thờ không
ánh điện, không bóng người chẳng khác nào một ngôi mộ khổng lồ bị lãng quên
trong vĩnh hằng tĩnh lặng. Ngồi trong bóng đêm suốt ba tiếng đồng hồ Tường đã
quen với nó, rồi bỗng cậu cảm thấy như nghiện cái bóng đêm này, nghiện cái âm
u, tịch mịch này, nó khiến cậu bình tâm, khiến cậu quên đi hết thảy giận giữ,
oán hờn, khiến trái tim cậu mở rộng hoan hỉ. Giá có ai đó ở đây bây giờ cậu sẵn
sàng giang tay ra và ôm hôn họ… sẵn sàng giang tay ra và ôm hôn họ… Cậu cứ nghĩ
như vậy rồi dần dần thiếp đi lúc nào không hay.
BẢN THỂ LỆ GIẢI VIẾT
VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG
Cập nhật cho cuộc
thi lần thứ năm - 2017
GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG được Ban mục vụ Văn hóa & Giáo dục
Giáo phận Qui Nhơn thực hiện trong khuôn khổ dọn mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng
của Chúa đến với giáo phận Qui Nhơn (1618-2018), nhằm đào tạo cho Hội Thánh Việt
Nam nhiều cây bút văn xuôi. Thể lệ, chủ đề và cơ cấu tưởng thưởng của cuộc thi
được ấn định như sau.
I. THỂ LỆ
1. Cuộc thi kéo dài sáu năm, năm năm đầu (2013-2017) mỗi năm
trao giải một lần.
1b. Riêng lần thứ sáu (2018) sẽ có việc tổng kết các bài đạt giải
5 năm trước về tài năng (Tác giả có nhiều bài đạt giải cao), về nhiệt tình (Tác
giả gởi nhiều bài dự thi và đạt giải liên tục nhiều năm), về triển vọng (Tác giả
trẻ tuổi nhất đạt giải nhiều lần nhất), về phong trào vv… Ngoài ra sẽ vẫn đón
nhận bài dự thi bình thường như các năm trước và vẫn có khung giải thưởng từng
năm như các năm trước. Sẽ không hạn chế số lượng bài dự thi của cùng một tác giả.
Những tác giả có từ 5 bài trở lên được vào chung khảo sẽ nhận được những phần
thưởng đặc biệt, đồng thời sẽ khuyến khích tập hợp thêm những truyện khác của
mình để in thành những tuyển tập riêng trong Tủ sách Nước Mặn.
2. Cuộc thi dành cho các bạn trẻ Công giáo, trong cũng như ngoài
giáo phận Qui Nhơn, dưới 40 tuổi (năm dự thi – năm sinh theo sổ rửa tội ≤ 40).
Người đã đạt giải một lần, các năm sau có thể dự thi tiếp, dù đã hơn 40 tuổi.
Các bạn trẻ dự tòng cần có chứng từ đang theo học giáo lý dự tòng.
3. Thể loại: Truyện ngắn, mỗi truyện không dài quá 4000 từ. Không nhận truyện phóng tác. Phải là
sáng tác mới, chưa đăng báo, website hay blogs và chưa gửi dự thi ở bất cứ đâu.
4. Truyện lấy ý từ một tác phẩm khác, xin ghi rõ xuất xứ tác phẩm
gốc. Nếu bị phát hiện sao chép của người khác hoặc dựng lại theo ý tác phẩm
khác mà không ghi xuất xứ, sẽ bị loại và cấm thi các năm tiếp theo.
5. Đề tài:
Năm 2017, Hội thánh Công giáo có hai kỷ niệm lớn, Giải Viết Văn
Đường Trường xin được chọn làm chủ đề cho cuộc thi lần thứ V:
– 100 năm Đức Mẹ Fatima và việc thực hiện lời mời gọi hoán cải của
Mẹ trong đời sống người tín hữu từ ấy đến nay.
– 500 năm Hội thánh Công giáo và Hội thánh Tin
lành cùng nhìn lại cuộc cải cách của Lm Martin Luther. Người Công giáo cần học hỏi những gì nơi anh chị em Tin lành và
có những gì cần giới thiệu với họ? Đã có những nỗ lực nào cho tình hiệp nhất và
còn phải làm gì thêm nữa?
Ngoài ra, quý tác giả cũng có thể tham gia với những tác phẩm về
các chủ đề khác của Kitô giáo.
6. Mỗi năm, mỗi tác giả có thể tham gia tối đa 05 bài dự thi
(riêng năm thứ sáu 2018 không giới hạn số bài), có thể gửi chung một lần hoặc
nhiều lần.
7. Chỉ nhận bài dự thi qua điện thư email, gửi attach file với định
dạng .doc hoặc .docx, không nhận bài gửi qua đường bưu điện.
8. Đầu bài dự thi phải ghi rõ: tên thánh, họ và tên, bút danh,
năm sinh, rửa tội tại đâu, năm nào, địa chỉ nhà, giáo xứ, giáo phận, số điện
thoại liên lạc, địa chỉ email. Dù đã gửi nhiều email dự thi, đầu mỗi bài đều cần
ghi như thế. Những bài thiếu các chi tiết này sẽ không được nhập hồ sơ dự thi.
9. Mỗi bài dự thi sẽ được nhập hồ sơ theo lần gửi đầu tiên, mọi
chỉnh sửa về sau đều không được chấp nhận.
10. Địa chỉ nhận bài, xin gửi cùng lúc về 2 điện chỉ email: tinmunggiesu@gmail.com và gopnhattho@yahoo.com.
11. Thời gian nhận bài: trước ngày 01-3 mỗi năm. Những bài gửi về
muộn hơn sẽ được đưa vào hồ sơ dự thi năm sau.
12. Tưởng thưởng: Mỗi năm sẽ có 06 giải thưởng chính thức và 15
giải triển vọng, theo cơ cấu và sinh hoạt như sẽ nói dưới đây.
13. Kết quả cuộc thi hằng năm sẽ được công bố ngày 15-8 mỗi năm
14. Lễ trao giải vào ngày 21-9 mỗi năm.
15. Những tác giả được vào chung khảo mà không đạt giải sẽ được
hỗ trợ một phần tiền xe về dự ngày họp mặt trao giải.
16. Các thông tin về cuộc thi sẽ được đăng trên Facebook Văn thơ
Công giáo https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/,
trên trang mạng giáo phận Qui Nhơn http://www.gpquinhon.org
và những trang mạng ủng hộ chương trình này.
17. Các tác phẩm đạt giải sẽ được in thành tuyển tập do Ban Tổ
Chức giữ bản quyền.
II. TƯỞNG THƯỞNG
Cơ cấu giải thưởng
Mỗi năm, có 6 giải thưởng chính thức và 15 giải triển vọng.:
- một giải nhất: 20.000.000
$VN
- hai giải nhì, mỗi giải 12.000.000
$VN
- ba giải ba, mỗi giải 8.000.000 $VN
- 15 giải triển vọng, mỗi giải 3.000.000 $VN
Tuyển tập truyện ngắn riêng
Ngoài phần thưởng bằng tiền mặt, những tác giả đạt giải, nếu có
nhiều truyện khác có giá trị, sẽ được Tủ Sách Nước Mặn hỗ trợ xuất bản một tuyển
tập riêng dưới 200 trang với những truyện ngắn mang nội dung Kitô giáo.
Những tác giả không đến dự lễ trao giải sẽ chỉ được nhận 50% tiền
giải thưởng và không được hỗ trợ in tuyển tập riêng. Những tác giả chỉ dự lễ
trao giải 21-9 mà không tham gia hành hương 22-9 chỉ được nhận 75% tiền giải
thưởng, nhưng vẫn được hỗ trợ in tuyển tập riêng.
III. TƯỞNG THƯỞNG DÀNH CHO ĐỘC GIẢ
1. Bình chọn
Các truyện dự thi đã qua vòng sơ tuyển sẽ lần lượt được đưa lên
Facebook Văn thơ Công giáo của Giải VVĐT tại
https://www.facebook.com/groups/vanthoconggiao/
Mời độc giả tham gia bình chọn theo thể lệ trên FB.
2. Giúp phát hiện trường hợp sao chép
Những độc giả giúp phát hiện đầu tiên những bài dự thi sao chép
của người khác (xin ghi rõ xuất xứ bài gốc) sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời
được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.
Ban Tổ Chức chân thành biết ơn sự giúp đỡ của các ân nhân. Các hỗ
trợ tiền bạc hoặc hiện vật cho cuộc thi xin gửi về: Linh mục Võ Tá Khánh, 116
Trần Hưng Đạo, TP Qui Nhơn – Email: gopnhattho@yahoo.com
– Điện thoại: 0935-424-449.
Qui Nhơn, ngày 15-8-2016
(Cập nhật ngày 15-10-2016)
TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC
Lm Gioan Phêrô Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)
Trưởng Ban MV Văn hóa & Giáo dục Giáo phận Qui Nhơn