CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY

6-3-2005

Đức ái là luật cao trọng nhất phải tuân giữ

 

ĐỌC LỜI CHÚA

·   1Sm 16,1b.6-7.10-13a: (7) Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm, họ chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thấy tận đáy lòng.

·   Ep 5,8-14: (8) Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; (9) mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. (10) Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.

 

·   TIN MỪNG: Ga 9,1-41 (hay Ga 9,1.6-9.13-16.34-38)

Đức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh

(1) Khi ấy, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (6) Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: «Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa». Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: «Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?» (9) Có người nói: «Chính hắn đó!» Kẻ khác lại rằng: «Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!» Còn anh ta thì quả quyết: «Chính tôi đây!» (13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: «Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy». (16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát»; kẻ thì bảo: «Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?» Thế là họ đâm ra chia rẽ. (34) Họ đối lại: «Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?» Rồi họ trục xuất anh.

 (35) Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: «Anh có tin vào Con Người không?» (36) Anh đáp: «Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?» (37) Đức Giêsu trả lời: «Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây». (38) Anh nói: «Thưa Ngài, tôi tin». Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

CHIA SẺ


Câu hỏi gợi ý:

1.   Luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa, cấm rất ngặt không được làm việc ngày sabát. Ai lỗi luật có thể bị tử hình (x. Xh 31,14-15; 35,2). Vậy tại sao Đức Giêsu lại chữa bệnh rất nhiều lần trong ngày sabát bất chấp luật như thế? Ngài làm gương mù hay gương sáng cho chúng ta vậy?

2.   Nếu có trường hợp thi hành một điều luật nào đó trong luật Chúa hay luật Giáo Hội mà đi ngược lại đòi hỏi của đức ái, tức luật yêu thương của Đức Giêsu, thì ta phải làm theo luật nào?

Suy tư gợi ý:

1. Hai cung cách giữ đạo khác nhau

Trong bài Tin Mừng này, ta thấy hai não trạng hay hai cung cách giữ đạo khác nhau giữa Đức Giêsu và người Pharisêu. Một đằng nhìn thấy con người để yêu thương, và còn một đằng chỉ nhìn thấy lề luật, nguyên tắc để tuân giữ. Nghĩa là một đằng quan trọng hóa con người, còn một đằng quan trọng hóa lề luật. Đức Giêsu khi thấy một người mù cần được giúp đỡ, thì Ngài động lòng thương và ra tay cứu giúp, bất chấp hôm đó là ngày sabát, là ngày mà luật Môsê cấm ngặt không được làm việc. Như vậy, Ngài coi việc cứu người quan trọng hơn việc giữ luật sabát. Còn người Pharisêu coi việc giữ luật sabát quan trọng hơn việc cứu người. Theo họ, thà để người khác bị mù, bị thiệt hại, bị chết, còn hơn là vi phạm lề luật của Thiên Chúa.

2. Quan niệm khác nhau giữa người Pharisêu và Đức Giêsu

Hai thái độ ngược nhau đó luôn luôn tồn tại trong cách giữ đạo của các tín đồ trong mọi tôn giáo. Thái độ nào cũng có những lý do chính đáng của nó. Thái độ nào cũng đúng, nhưng đúng ở những mức độ tâm linh cao thấp khác nhau.

Theo quan điểm của người Pharisêu thì luật giữ ngày sabát là luật Môsê, cũng là luật của Thiên Chúa. Vì thế, người công chính phải tuân giữ lề luật, càng công chính thì càng phải giữ luật một cách chi tiết. Do đó, khi thấy Đức Giêsu chữa bệnh trong ngày sabát, họ bàn thảo với nhau: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát» (Ga 9,16). Họ quan niệm: nếu Đức Giêsu là người của Thiên Chúa thì tất nhiên Ngài phải giữ luật Môsê, thậm chí còn nghiêm chỉnh hơn chính họ nữa. Quan điểm của họ quả hết sức hợp lý vì nó hoàn toàn được xây dựng trên rất nhiều đoạn Kinh Thánh khuyên người ta phải giữ luật (x. Đnl 27,26; 30,10; Gs 22,5; 23,6; 1V 2,3; v.v…). Vì thế, đối với họ, việc giữ luật tôn giáo là vô cùng quan trọng. Do đó, nếu có sự xung đột giữa một bên là giữ luật Chúa, một bên là đòi hỏi của lương tâm và đức ái, thì phải ưu tiên cho việc giữ lề luật.

Nhưng quan điểm của Đức Giêsu thì khác hẳn. Đành rằng luật Môsê là luật của Thiên Chúa, nhưng khi có xung đột giữa luật của Thiên Chúa với những đòi hỏi của tình yêu hay đức ái, thì phải ưu tiên tuân theo luật của đức ái. Nếu ngày sabát mà tình yêu hay đức ái đòi buộc phải làm việc, phải chữa bệnh, thì phải chấp nhận lỗi luật sabát mới đúng với ý Thiên Chúa. Đức Giêsu đưa ra trường hợp rất cụ thể khi chữa bệnh cho một người phụ nữ bị quỷ ám: «Còn bà này, là con cháu ông Ápraham, bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?» (x. Lc 13,10-17).

Vì thế, cho dù lỗi luật sabát có thể dẫn đến tử hình, nhưng Đức Giêsu hoặc các tông đồ đã nhiều lần lỗi luật sabát vì lý do bác ái hay vì một lý do chính đáng khác. Chẳng hạn, các môn đệ Đức Giêsu bứt bông lúa mì (x. Mt 12,1-8; Mc 2,23-28; Lc 6,1-5); Đức Giêsu chữa người bị bại tay (x. Mt 12,9-14; Mc 3,1-6; Lc 6,6-11); chữa một phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-17); chữa người mắc bệnh phù thũng (Lc 14,1-6); chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bếtdatha (Ga 5,1-18); chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41), tất cả đều được làm vào ngày sabát. Ngài đã bị các kinh sư và luật sĩ cảnh cáo nhiều lần về việc Ngài lỗi luật ngày sabát, và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn bất chấp, vẫn cứ lỗi luật sabát vì lý do đức ái, và bất chấp nguy hiểm. Ngài không hề khuyên bảo người bệnh hãy đến với Ngài vào ngày khác thì Ngài mới chữa bệnh cho. Cũng không bảo họ đừng đến với Ngài vào ngày sabát để Ngài giữ luật sabát cho trọn vẹn. Đó chẳng phải là một mẫu gương để chúng ta noi theo sao, hỡi những người theo Đức Giêsu và những kẻ tự hào mình theo Ngài?

3. Tình yêu hay đức ái ví như hiến pháp,
luật lệ khác ví như các khoản luật

Điều ấy cho thấy luật bác ái cao trọng hơn bất cứ loại luật nào, dù là luật thành văn của Thiên Chúa như luật Môsê, hay luật của Giáo Hội và những luật lệ do con người lập ra. Vì trong Kitô giáo, đức ái được ví như hiến pháp, còn tất cả những luật lệ thành văn khác đều chỉ được ví như luật pháp mà thôi. Luật pháp phải thể hiện tinh thần của hiến pháp, giúp hiến pháp được thực hiện trong những trường hợp cụ thể hơn trong đời sống. Vì thế, trường hợp nào mà thi hành một điều khoản của luật pháp trở thành vi phạm hiến pháp thì trường hợp ấy, ta không nên thi hành khoản luật ấy. Nếu ai vẫn cứ thi hành khoản luật ấy, thì người ấy vi phạm hiến pháp. Nếu vì muốn thi hành cho đúng hiến pháp mà đành phải vi phạm một điều khoản trong luật pháp, thì việc vi phạm đó không còn là vi phạm nữa. Vì mục đích của luật pháp là để thực hiện hiến pháp, chứ không ngược lại.

Đức ái chính là hiến pháp, là luật tối thượng bao trùm tất cả mọi khoản luật, nên thánh Phaolô đã dám quả quyết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8; x. 18,10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Thánh Giacôbê thì cho đức bác ái là luật cao nhất của Kinh Thánh: «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Lời tuyên bố của hai vị thánh này thật rõ ràng. Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis).

Luật Môsê là luật của Thiên Chúa, được chính Thiên Chúa truyền qua Môsê. Thế mà khi có sự xung đột giữa luật Môsê và đức ái hay điều lương tâm đòi buộc, thì Đức Giêsu đã chấp nhận lỗi luật Môsê (tức luật Chúa) chứ không chấp nhận lỗi đức ái hay lỗi luật lương tâm. Hiện nay, luật của Đức Giêsu đã thay thế luật Môsê, và luật của Ngài là luật yêu thương, nên yêu thương chính là luật tối thượng, đúng như thánh Giacôbê đã nói ở trên (Gc 2,8). Luật Môsê là luật của Thiên Chúa mà còn vậy, huống chi những luật do con người lập ra. Ai coi việc thi hành đức ái nhẹ hơn một khoản luật nào đó do con người lập ra, thì câu sau đây của Đức Giêsu đáng để cho họ suy nghĩ: «Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân» (Mt 15,8-9). Vậy, chúng ta phải theo lập trường của Đức Giêsu hay của người Pharisêu?

4. Mục đích của lề luật là hình thành đức ái trong lòng con người

Cũng như một cây non cần phải buộc vào một cọc thẳng để cây mọc thẳng lên. Nhưng khi cây đã mọc thẳng và các mô mộc trong cây đã cứng cát rồi, thì người ta bỏ cọc đi. Luật lệ giống như cái cọc thẳng ấy để giúp cho tâm linh còn non yếu mọc thẳng lên. Nó có nhiệm vụ hình thành đức ái ở trong ta. Khi đức ái của ta đã được hình thành và trở nên vững chắc, thì ta phải hành động theo sự đòi hỏi của đức ái đã được hình thành ấy trong ta. Lúc ấy lề luật đã đóng hết vai trò nhiệm vụ của nó.

Thật vậy, theo thánh Phaolô, lề luật được lập nên không phải cho người công chính, mà cho người tội lỗi tức chưa hiểu biết được cốt tủy của sự công chính (x. 1Tm 1,8-10). Ngài cũng nói: «Không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,20-21; x. Gl 3,11). Sự công chính không hệ tại việc giữ luật lệ: «Nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Kitô đã chết vô ích» (Gl 2,21); mà do việc có thực hành đức ái hay tình thương đích thực ở trong lòng hay không. Vì sự công chính hay thánh thiện hệ tại việc mình có trở nên giống Thiên Chúa hay không, có Thiên Chúa ở trong mình hay không. Mà Thiên Chúa tự bản chất chính là tình yêu, là đức ái (x. 1Ga 4,8.16).

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con hiểu được sự cần thiết của lề luật trong sự phát triển tâm linh. Nhưng cũng cho con hiểu được sự giới hạn và vai trò nhất thời của lề luật. Mục đích của lề luật chính là hình thành đức ái hay tình yêu đích thực ở trong con. Nếu giữ lề luật trọn hảo nhưng đức ái chân thật vẫn không hình thành được trong lòng con, thì việc giữ luật ấy có ích lợi gì? Xin Cha cho con hiểu được điều ấy.                           

Joan Nguyễn Chính Kết

 


 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà