THỨ NĂM TUẦN THÁNH, NĂM A

LỘI NGƯỢC DÒNG ĐỂ YÊU ĐẾN CÙNG

(Xh 2,1- 14; 1Cr,11,23-  26; Ga 13,1-5)

 

Ai đã từng chăm sóc bệnh nhân trong thời điểm nguy kịch, hẳn sẽ thấy được lời tâm huyết của họ được bộc lộ với trọn cả tâm hồn. Lúc này, những lời được thốt ra chẳng khác gì lời vàng vì nó rất thiêng liêng. Tại sao vậy? Thưa bởi vì những gì là cuối cùng thì đều quan trọng. Chẳng hạn như suy nghĩ cuối cùng; lời nói cuối cùng; giây phút cuối cùng; hành động cuối cùng.

Hôm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để chiêm ngưỡng, tái diễn và hiện tại hóa những hành động và lời nói cuối cùng của Đức Giêsu, trước lúc rời xa các môn đệ để lên đường chịu nạn chịu chết.

1.      Bí tích Thánh Thể, nguồn sự sống được trao ban

Khi đi xa, mặt cách lòng, người đi kẻ ở bị lệ thuộc bởi không gian và thời gian. Lúc ấy, tâm trạng của cả hai đều rất nhiều cảm xúc. Nhưng có lẽ một trong những điều mà ai ai cũng cảm thấy cần phải làm cho nhau, đó là: để lại một tặng vật làm kỷ niệm.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng biết giờ của mình sắp trở về cùng Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương những kẻ thuộc về Ngài, thì Ngài yêu cho đến cùng, vì thế, trong bữa ăn, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban cho các môn đệ và nói: “Này là Mình Thầy … Này là chén Máu Thầy …” Hãy cầm lấy mà ăn mà uống. Đây chính là tặng vật thần linh, là gia sản thiêng liêng cho Giáo Hội.

Tuy nhiên, với Bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, ý nghĩa và giá trị không chỉ đơn thuần là quà tặng hay gia sản hoặc chỉ là một kỷ niệm, mà hôm nay, chúng ta cử hành như một ký ức!

Không! Nó đã vượt ra khỏi những hoài niệm để hiện tại hóa cách thực nghiệm khi đã được chuyển đổi bản thể. Tức là mỗi khi được cử hành nhân danh Chúa, thì lúc ấy bánh và rượu đã biến đổi và trở thành chính Thịt và Máu Chúa. Nói cách khác, Bí tích Thánh Thể là chính Chúa. Vì thế, mỗi lần chúng ta đón nhận và rước lấy, ấy là lúc chúng ta hạnh phúc tuyệt vời vì được đụng chạm đến chính Chúa. Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa. Ta và Chúa cùng chung nhau một dòng máu, một sự sống.

Như vậy, qua Bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu thiết lập, chúng ta được đụng chạm đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đây là điều mà lý trí con người không ai dám nghĩ tới!

2.      Thiên Chức Linh Mục, nối dài tình yêu tự hiến

Ngay sau khi thiết lập Bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã đi thêm một bước nữa để thỏa lòng yêu thương. Vì thế, Ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh ngay sau đó. Khi trao ban chức linh mục cho nhân loại, Đức Giêsu không chỉ mong muốn cho mọi người cảm nghiệm và sống đặc tính của tình yêu nơi Bí tích Thánh Thể, nhưng: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến thầy”. Như vậy,  cùng một lòng dạ yêu thương, Đức Giêsu muốn các linh mục sẽ thay Ngài, nhân danh Ngài để tiếp diễn hiến tế tình yêu này mọi ngày cho đến tận thế.

Điều này cho chúng ta thấy, Bí tích Thánh Thể gắn liền với Thiên Chức Linh Mục. Nếu Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, thì Bí tích Truyền Chức đòi hỏi người lãnh nhận phải là người cảm nghiệm sâu xa cũng như sống đặc tính của tình yêu là hiến mình vì người khác. Chấp nhận biến bản thân của mình trở nên của ăn của uống cho người khác. Nói cách khác, chấp nhận bị ăn, bị uống. Bên cạnh đó, người linh mục là người làm cho tình yêu ấy được rõ nét khi thi hành bác ái với mọi người.

Khi thiết lập chức linh mục, có thể nói, Đức Giêsu đã đảo ngược vị chí. Từ một Thiên Chúa quyền năng, nhưng nay, Ngài đã chấp nhận bị lệ thuộc bởi con người và ý muốn của linh mục. Từ một người đáng được phục vụ, từ nay Ngài trở thành người phục vụ.

 Như vậy, qua Bí tích Truyền Chức, các linh mục chính là hiện thân của lòng thương xót Chúa; các ngài không ngừng diễn ta và loan truyền lòng thương xót ấy cho nhân loại, đồng thời, các ngài cũng không ngừng làm cho con chiên của mình được ngụp lặn trong lòng thương xót Chúa, nhất là nơi Bí tích Thánh Thể. 

3.           Bài học về yêu thương được trao ban

Sau khi diễn tả tình yêu qua việc thiết lập Bí tích Thánh Thể và Truyền Chức Thánh, lại một lần nữa, Đức Giêsu thực hiện ngay trước mặt các môn đệ một hành động quyết liệt và cũng đầy cảm động của tình yêu, đó là việc rửa chân cho các môn đệ.

Trong bữa ăn, Đức Giêsu đã: "... đứng dậy, rời bàn ăn, cởi bỏ áo ngoài, lấy khăn thắt lưng; rồi Người đổ nước vào thau, và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ".

Một loạt hành động gây ngạc nhiên không nhỏ đối với các môn đệ, bởi vì theo truyền thống Dothái, thì việc rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ của mình trước bữa ăn. Trước hành vi này, các ông ngỡ ngàng đến tột độ, bởi vì không có lý do gì Thầy lại rửa chân cho trò. Không có lý chứng gì để giải thích một hành vi ngược đời như vậy??? Sự bất ngờ đến ngỡ ngàng này đã được Phêrô thốt lên: “Không đời nào Thầy phải rửa chân cho con”.

Tại sao Phêrô lại ngỡ ngàng đến như vậy? Thưa là bởi vì hành động này vượt ra khỏi tầm kiểm soát của lý trí các ông.

Khi rửa chân xong, Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học thấm thía đúng chất của cảnh người đi kẻ ở, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.

Hay hiểu cách khác, nếu các con là môn đệ đúng nghĩa của Thầy, thì dấu chỉ chắc chắn nhất chính là các con cũng phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Yêu như thầy chính là quỳ xuống trước những người không ưa mình, vu khống mình, bán đứng mình và trối bỏ mình để tha thứ tất cả, yêu thương tất cả.

Đây chính là lời mời gọi đầy yêu thương của Đức Giêsu. Đây cũng chính là điều răn mới mà Đức Giêsu đã truyền dạy.

4.      Bài học cho chúng ta

 

Sợi chỉ xuyên suốt trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay chính là tình yêu. nói cách khác, toàn bộ nghi thức và hành vi cử hành hôm nay nhằm diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ngang qua các nghi thức cử hành, Giáo Hội mời gọi con cái của mình không phải chỉ chiêm ngắm và trầm trồ khen ngợi những hành vi yêu thương của Đức Giêsu. Ngược lại, sau thánh lễ này, Giáo Hội muốn cho con cái của mình phải là người nghiệm được tình yêu ấy trong chính cuộc đời của mình. Đồng thời hãy ra đi để đến những nơi thiếu vắng tình yêu, tiếng cười, nhằm diễn tả tình yêu của Đức Giêsu cho anh chị em chúng ta bằng chính đời sống của mình.

Thật vậy, ngày nay, biết bao nhiêu nơi thiếu vắng đi tình yêu, thiếu vắng tiếng cười. Những nơi đó có thể là khu ổ chuột, bãi rác hôi hám bẩn thỉu; những nơi đó có thể là đầu đường, xó chợ; có thể là chốn ăn chơi xa đọa; nhưng cũng không thiếu những tiếng khóc lóc đến thê thảm ngay trong các gia đình giữa những thành phố lớn… đâu đâu cũng thấy toát lên những tiếng khóc ai oán vì thiếu vắng tình yêu. Ngược lại, sự vô cảm, dửng dưng lại đang lộng hành đến độ chóng mặt.

Trước thực trạng ấy, lời di chúc của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu” mà chúng ta vừa nghe sẽ là lời mời gọi và hối thúc chúng ta lên đường để thực thi sứ mệnh tình yêu của Chúa đến với mọi người, nhất là những nơi ngoại biên, bên lề trong xã hội hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thật xúc động khi chiêm ngắm từng hành vi, cử chỉ của Chúa trong bữa Tiệc Ly chiều hôm xưa mà hôm nay chúng con vừa cử hành. Xin Chúa ban cho chúng con có được trái tim nhân hậu và xót thương của Chúa, để chúng con cũng làm những việc Chúa đã làm khi xưa cho anh chị em chúng con trong xã hội hôm nay. Amen.

 


Suy Niệm Lời Chúa Năm A