Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng

(16-12-2001)

Ðọc Lời Chúa

          Is 35,1-6a.10: (4) Hãy nói với những kẻ nhát gan: Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. (5) Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. (6) Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.

          Gc 5,7-10: (7) Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. (8) Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn bền tâm vững chí, ngày Chúa quang lâm đã gần tới.

 

          TIN MỪNG: Mt 11,2-11

Câu hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Ðức Giê-su

(//Lu 7,18-28)

(2) Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Ðức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: (3) Thưa Thầy, Thầy có thật là Ðấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? (4) Ðức Giê-su trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: (5) Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, (6) và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.

(7) Họ đi rồi, Ðức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: Anh em ra xem trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? (8) Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa thì trong cung điện nhà vua. (9) Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Ðúng thế đó; tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. (10) Chính ông người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

(11) Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao Gio-an Tẩy Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Ðức Giê-su xem Ngài có phải là Ðấng Cứu Thế không? Theo ông nghĩ, nếu Ðức Giê-su là Ðấng Cứu Thế, là Vua Do Thái, thì ông sẽ đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?

2. Ðức Giê-su đến có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gio-an Tẩy Giả và của những người Do Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của chúng ta không?

3.Tại sao khi Ðức Giê-su đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí, hay vì họ chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước để khi Ngài đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?

 

Suy niệm

1. Thắc mắc của Gio-an Tẩy Giả

Gio-an Tẩy Giả người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính thế, ông đã bị ngồi do dám tố cáo những sai trái của chính quyền đương thời vua Hê-rốt. Tình trạng khó khăn tuyệt vọng trong dễ làm người ta xuống tinh thần, thế, đức tin của Gio-an vào Ðức Giê-su phần nào bị thử thách.

thể lúc đó ông tự hỏi: Nếu Ðức Giê-su Ðấng Cứu Thế ông sứ mạng tiền cho Ngài, thì tại sao ông lại phải ngồi thế này? Nếu Ngài Ðấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa phải để ông ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông sẽ phải cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gio-an cũng quan niệm như mọi người Do Thái khác rằng Ðấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái sẽ trở thành một vị Hoàng Ðế cai trị toàn cầu. thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt ông vẫn còn phải ngồi thế này thì quả khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông đến gặp Ðức Giê-su để hỏi cho rõ. họ đã đến gặp Ngài.

 

2. Những điều ứng nghiệm nơi Ðức Giê-su, Ðấng Cứu Thế

Ðức Giê-su đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Ðấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo về thời đại của Ðấng Cứu Thế: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1). Ðó là những điều mà Ðức Giê-su đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.

Thử đặt mình vào địa vị Gio-an Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Ðấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin được Ngài là Ðấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một tội nhân?

Chính thế, ngay từ lúc này Ngài đã nói: Phúc thay người nào không vấp ngã tôi. Liệu câu nói ấy ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta vấp ngã Ngài không? nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo sẽ đến như kẻ trộm đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã Ngài.

 

3. Ðức Giê-su đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo

Tôi e rằng khi Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:

Nhân loại luôn luôn tiến hóa đổi mới. thế, các tôn giáo - vốn phương tiện phục vụ con người, dẫn con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ con người một cách phù hợp hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hiếp bóc lột dân chúng. Những quan niệm tôn giáo thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm thể chế tôn giáo không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra bầu cũng (Lc 5,37). Ðương nhiên trong tôn giáo những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan trọng phân biệt cái nào thể thay đổi cái nào cốt lõi không thể thay đổi được.

Tôn giáo luật lệ của tôn giáo một cái linh thiêng, thần thánh, được hiểu do Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Ðnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ những Ðấng Thiên Sai như Ðức Giê-su mới thể làm chuyện ấy. Chính Ðức Giê-su đã thực hiện một cuộc cách mạng đại về tôn giáo. cũng chính làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, số người đã Ngài vấp ngã!

 

4. Cuộc cách mạng tôn giáo của Ðức Giê-su

Tôn giáo Do Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những luật lệ do Mô-sê ban hành được coi linh thánh vĩnh cửu, được hiểu luật của Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa tâm linh của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự như khi con người còn một đứa trẻ, muốn sống tốt thì không thể chỉ dùng lời khuyên trông chờ vào sự hiểu biết của được. Lời khuyên hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Ðối với một đứa trẻ, chỉ cần sợ roi để làm theo những mệnh lệnh của người lớn đã đạt yêu cầu, chỉ cần như thế đã được coi một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này chỉ cần giữ luật cho đúng được. người Pha-ri-siêu thời Ðức Giê-su chính mẫu người được coi trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn thể giữ luật trọn vẹn hơn họ!

Nhưng từ Mô-sê đến Ðức Giê-su, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa tâm linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi trẻ con của họ để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để thích hợp với trình độ mới của họ, chính Ðức Giê-su người sứ mạng thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa, xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ sợ cha mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi hay tốt nữa, phải do một động lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu thương làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. thế, cách sống hay giữ đạo vị luật của người Pha-ri-siêu không còn được Ðức Giê-su coi công chính nữa: Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn công chính hơn các kinh người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời (Mt 5,20).

Những cuộc cách mạng đại về tôn giáo như Ðức Giê-su đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị những người đương thời chống đối chưa nhận ra sự hợp của nó. Họ còn chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc đã được nhập tâm từ nhỏ, được coi những chân bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân ấy. Chính thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới, nguyên tắc mới.

Ðể nói lên sự ưu việt của thời hậu cách mạng do Ðức Giê-su, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Gio-an Tẩy Giả mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tân Ước được. Thật vậy, về tinh thần phong cách sống đạo, giữa Gio-an Tẩy giả Ðức Giê-su, giữa các môn đệ của hai vị sự khác biệt rệt. Ðiển hình như: Các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Ðức Giê-su rằng: "Tại sao chúng tôi các người Pha-ri-sêu ăn chay, môn đệ ông lại không ăn chay?" (Mt 9,14; Mc 2,18).

Vậy, chúng ta hãy tỉnh táo để khi Ðức Giê-su đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (Mt 11,6).

Cầu nguyện

Lạy Cha, lần trước Ðức Giê-su đến đã có biết bao người vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra được những kinh nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện trong Tin Mừng để khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học ấy. Amen.      

Joan Nguyễn Chính Kết

 

 

Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm A | Về Trang Nhà