CN V MÙA CHAY B

Gr 31,31-34 ; Dt 5,7-9 ; Ga 12,20-33

VƯỢT QUA SỰ CHẾT ĐỂ VÀO CÕI SỐNG

 

I.    HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Ga 12,20-33

(20)  (Khi ấy) trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp, (21) họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa miền Ga-li-lê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su. (22) Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: “Đã đến Giờ Con Người được vôn vinh! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy. Và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy. (27) Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha. Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”. (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: “Đó là tiếng sấm!”. Người khác lại bảo: “Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” (30) Đức Giê-su đáp: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

2. Ý CHÍNH:     

Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giê-su được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giê-su sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.

3) CHÚ THÍCH:

- C 20-22: + Mấy Người Hy lạp: Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giê-su điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.

- C 23-25: + Đã đến Giờ: Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30 ; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giê-su bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giê-su phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giê-su đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giê-su cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này...: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35 ; Mt 16,25 ; Lc 9,24).

- C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giê-su thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giê-su cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46 ; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giê-su cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giê-su chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giê-su thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giê-su khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.

- C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”... “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giê-su mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giê-su. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.

- C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất: Đức Giê-su sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13 ; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giê-su sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).

4. CÂU HỎI: 1) Đức Giê-su đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giê-su được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giê-su nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giê-su xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giê-su đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giê-su cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

2. CÂU CHUYỆN:

1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG

Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!

Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.

2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:

Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.

Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.

Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình... Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!". Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"

Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy." Ðiều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.

Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!

3. SUY NIỆM:

1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:

Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”

Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!

Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!

Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).

2) Con đường hạt lúa của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.

Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giê-su qua ba giai đoạn như sau:

+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: "Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2,6-7).

+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2,8).

+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội: "Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Pl 2,9-11).

Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giê-su như sau: "Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết:  Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).

3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.

Đức Giê-su đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giê-su. Phao-Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: "Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv 20,22-23).

Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".

4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.

Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:

- Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.

- Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.

- Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.

- Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.

- Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.

- Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.

4. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giê-su, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.

- Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời. 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- D) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH- HHTM

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B