CN 34 TN B- ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ VUA VŨ TRỤ

Đn 7,13-14 ; Kh 1,5-8 ; Ga 18,33b-37

 ĐỂ NÊN THÀNH VIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA GIÊ-SU

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 18,33-37

(33) Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (34) Đức Giê-su đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?”. (35) Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?” (36) Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này”. (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là Vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.

2. Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.

3. CHÚ THÍCH:

- C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thượng tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga 18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rô-ma truất quyền kết án tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giê-su đến dinh quan Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình Đức Giê-su. Họ đứng ngòai sân chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật Mô-sê, mà ai vi phạm sẽ không được ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng và thẩm vấn Đức Giê-su + “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”: Người Do thái đã tố cáo Đức Giê-su tội phạm về chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để yêu cầu quan Phi-la-tô qui tội phản loạn và kết án tử hình cho Người. Do đó Phi-la-tô đã tra vấn Người về việc này. + “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”: Đức Giê-su không trực tiếp trả lời câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?

- C 35: + Tôi là người Do thái sao?: Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo như thế để đòi ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì đến nỗi bị họ tố cáo như vậy?

- C 36: + “Nước tôi không thuộc về thế gian này”: Đức Giê-su không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định mình không phải một ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. + “nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho dân Do thái”: Lời này cho thấy sự khác biệt giữa vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x. Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21), về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).

- C 37: + “Vậy ông là vua ư?”: Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không nghĩ Người là một ông vua thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì Người không có quân đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + “Chính ngài nói: tôi là vua”: Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử: Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga 10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Tôi đã đến thế gian là để làm chứng cho sự thật”: Sứ mệnh của Đức Giê-su là đến để làm chứng cho sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su làm chứng cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo. Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc đời, lời rao giảng và nhất là qua biến cố Tử nạn và Phục sinh của Người. + Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”: Đức Giê-su đến không những để cứu độ dân Do thái được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và cũng là Thiên Đàng mai sau.

4. CÂU HỎI:

1) Tại sao các đầu mục Do Thái lại giải Đức Giê-su đến tòa án của quan Phi-la-tô?

2) Tại sao người Do thái không vào trong nhà, khiến quan Phi-la-tô phải ra ngòai hành lang để tiếp họ đang đứng dưới sân?

3) Đức Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào khác với nước thế gian?

4) Khi hỏi Đức Giê-su: “Ông là Vua ư?”, Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giê-su không?

5) Đức Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào?

6) Đức Giê-su đến để “Làm chứng cho Sự Thật” là sự thật nào và làm chứng bằng cách nào?

7) Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su còn đến cứu độ những ai?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Tôi là Vua” (Ga 18,37):

2. CÂU CHUYỆN:

1) THẺ CĂN CƯỚC TRONG VƯƠNG QUỐC TÌNH YÊU CỦA VUA GIÊ-SU:

Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Pi-ô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ bào thai để cứu tính mạng cho bà mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Nhưng mẹ bào thai sau khi cầu nguyện nhiều ngày đã kiên quyết từ chối đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “Tôi không thể giết con tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ đã tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mới sinh mà cô rất thương mến.

Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được di truyền từ chính người mẹ thân thương của mình. Đó là  người mẹ trẻ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc Chân Phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu tiếp bước theo chân Đức Giê-su. Chính Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô 2 đã nói: “Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới chỗ bị hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Giê-su. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng đã từng nói: “Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) Nước Trời chứng minh mình là công dân Nước Trời.

2) GƯƠNG BÁC ÁI CỦA MÁC-TI-NÔ THÀNH TOURS CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI :

MÁC-TI-NÔ là một quân nhân Rô-mavà một Kitô hữu. Một ngày mùa đông lạnh lẽo, khi ông đi vào một thành phố, có người hành khất chặn ông lại xin bố thí, Mác-ti-nô không có tiền, nhưng khi thấy người hành khất xanh xao và đang run rẩy vì lạnh, ông cởi chiếc áo khoác đã sờn rách và dùng gươm xén một nửa chiếc áo khoác trao cho người hành khất. Tối hôm ấy ông nằm mơ thấy thiên đàng có các thiên sứ bao quanh Vua Giê-su và trên mình Người mặc phân nửa chiếc áo khoác của ông. Một thiên sứ hỏi Chúa Giê-su: "Tại sao Ngài mặc nửa chiếc áo bị sờn rách đó ? Ai đã cho Ngài? » Chúa Giê-su trả lời: ”Chính Mác-ti-nô, tôi tớ của Ta đã tặng cho Ta đó”.

Quả thật như bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã xác quyết: Ta bảo các ngươi: “những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Và Chúa nói tiếp: “Hãy đến, hỡi những kẻ cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì khi ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm, Ta bị tù đầy, các ngươi đã đến với ta”(Mt 25, 34-36).

Thật là hạnh phúc cho chúng ta, nếu được Chúa nói với chúng ta như vậy trong ngày tận thế với tư cách là vị Vua Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Amen.

3) ĐỨC GIÊ-SU LÀ VUA TRÊN HẾT CÁC VUA, LÀ CHÚA TRÊN HẾT CÁC CHÚA:

Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là KÊ-NẮT Đệ Tam (CANUT III). Là vua của một cường quốc, nên chung quanh ông ta lúc nào cũng có những nịnh thần tâng bốc. Một hôm, trong một buổi triều yết, các nịnh thần đã nịnh nhà vua như sau: “Muôn tâu thánh thượng! Thánh thượng là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa. Thánh thượng có toàn quyền cả trên đất liền cũng như ngòai biển cả bao la!”

Nghe vậy, nhà vua muốn dạy cho quần thần một bài học, nên đã mời tất cả quan chức triều đình cùng đi du lịch đến một bãi biển dành riêng cho hoàng gia. Khi mọi người đều theo sau nhà vua xuống bãi tắm sóng vỗ rì rào, nhà vua đứng trước biển liền tuyên bố: “Hỡi biển cả kia. Nhiều người nói ta là vua trên hết các vua, là chúa trên hết các chúa, có quyền trên đất liền và biển khơi. Vậy hỡi biển cả hãy nghe đây: Ta truyền cho sóng biển không được tràn tới nữa!”. Nhưng dù nhà vua đã ra lệnh, mà nước biển vẫn cứ từng đợt thi nhau đổ tới tấp lên bãi cát làm ướt cả áo cẩm bào của nhà vua cùng quần áo các quan chức triều đình! Sau đó nhà vua dẫn quần thần đến một nhà nguyện gần đó. Vua quì gối trước tượng Thánh giá Chúa Giê-su, lấy ra chiếc vương miện bằng vàng đội lên đầu Chúa và cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giê-su. Chỉ có Chúa mới là “Vua trên hết các vua”, là “Chúa trên hết các chúa”. Chỉ có Chúa mới “có quyền trên cả đất liền cùng biển khơi” Con chúc tụng ngợi khen Chúa. AL-LÊ-LU-IA!”.

3. THẢO LUẬN:

1) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su trở thành Vua của gia đình mình?

2) Chúng ta cần làm gì để có thẻ căn cước trong Vương Quốc Vua Giê-su ?

4. SUY NIỆM:

Ngày nay quân chủ hầu như đã trở nên xa lạ đối với nhân loại. Trên thế giới hiện nay chỉ còn một ít nước Âu Á như: Anh quốc, Tây Ban Nha, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, Thái Lan, Cam-pu-chia… vẫn duy trì chiếc ghế của vua chúa hay nữ hoàng, nhưng chỉ mang tính tượng trưng theo truyền thống chứ không còn thực quyền. Thay vào đó, chế độ dân chủ đã được hầu hết các quốc gia áp dụng. Con người càng văn minh lại càng muốn được bình đẳng và không muốn kẻ khác đè đầu đè cổ mình. Như vậy Hội Thánh mừng lễ Chúa Ki-tô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi tâm thức của con người ngày nay, đặc biệt nơi giới trẻ hay không? Đức Giê-su có thực sự là Vua của chúng ta không và phải làm gì để trở thành công dân Nước Trời của Vua Giê-su sau này?

1) Đức Giê-su thực sự là Vua Mục Tử :

Qua bài Tin mừng hôm nay, Phi-la-tô đã đặt ra nhiều câu hỏi về điều mà các đầu mục Do thái mới tố cáo, Phi-la-tô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?”. Người trả lời rằng: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này là: làm chứng cho Sự Thật. Ai đứng về Sự Thật thì nghe tiếng tôi”. Qua đó, Đức Giê-su đã khẳng định Người chính là Vua, và Người được Chúa Cha sai đến thế gian nhằm thiết lập một Vương quốc Sự Thật.  Phi-la-tô không hiểu lời Người nói nên hỏi lại: “Sự Thật là gì?” . Sở dĩ ông không hiểu sự thật vì ông không phải thần dân của vương quốc Sự Thật do Người thiết lập (x. Ga 18, 33-38).

2) Vương quốc của Vua Giê-su là “Vương Quốc Sự Thật”:

Tin mừng Gio-an, Chúa Giê-su đã nói khá nhiều về Vương quốc Sự Thật mà chính Người sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giê-su đã vén mở một phần về Vương quốc sự thật ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn đệ, Đức Giê-su đã khẳng định: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Người đến để chúng ta là thần dân của Người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Người cũng cho Phi-la-tô biết về nước Trời của Người: “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Phi-la-tô sau đó đã cho treo một tấm bảng gắn trên đầu cây Thập giá với hàng chữ: “Giê-su Na-gia-rét, vua dân Do thái”. Qua đó ông đã chính thức công bố sự thật này là: Đức Giê-su là Vua của dân Do Thái.

3) Điều kiện để được vào Nước Trời là sống giới răn yêu thương cụ thể:

- Vua Giê-su đã đảo lộn mọi bậc thang giá trị của con người khi cho biết trong Nước Trời: “Ai muốn làm lớn nhất thì phải trở nên người bé nhất” noi gương Người, Đấng “đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).

- Vương quốc mà Chúa Giê-su thiết lập là Vương quốc của Tình Yêu, và chỉ những ai thực thi yêu thương mới đủ điều kiện gia nhập vào Nước ấy. Trong ngày phán xét Người sẽ nói với những kẻ sống bác ái chia sẻ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36). “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

- Trong bữa tiệc ly, Chúa Giê-su đã cho biết tình yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu còn là thái độ khiêm hạ phục vụ tha nhân, noi gương Đức Giê-su sẵn sàng quì xuống rửa chân cho môn đồ và dạy họ rằng: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Đức Giê-su cũng đề ra Hiến Pháp của Nước Trời là Bản Hiến chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật, trong đó, Người nêu ra điều kiện để gia nhập Nước Trời là : Phải sống khiêm hạ siêu thoát, ứng xử hiền hòa, chấp nhận đau khổ bệnh tật, ước ao nên trọn lành, có lòng thương xót, có tâm hồn thanh sạch, biết ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin...

4) Sứ vụ của các tín hữu là làm chứng cho Sự Thật và sống yêu thương:

Ki-tô hữu là những người chọn bước theo chân Đức Giê-su trên con đường của Ngài, là làm chứng cho sự thật. Vậy chúng ta phải làm chứng cho sự thật, nhất là trong bối cảnh hôm nay, khi sự giả dối ngày càng chiếm ưu thế trong xã hội bằng những cách như sau:

- Trước hết, phải sống đúng sự thật, theo sự mách bảo của Chúa Thánh Thần qua tiếng lương tâm. Vì có lẽ chưa bao giờ sự tha hóa trong cung cách làm ăn buôn bán của người Việt nam chúng ta lại bị xuống cấp như hôm nay. Chưa bao giờ vì mưu sinh, muốn làm giàu mau mà người ta đã dùng mọi thủ đoạn, bỏ qua tiếng lương tâm cáo trách, để buôn bán hàng gian hàng giả gây nguy hại cho sức khỏe của đồng bào mình: Ra đường thì dễ bị cán phải đinh do “đinh tặc” rải có thể bị té đến tử vong, đi vá xe lại bị “chặt chém”. Khi đổ xăng thì không chỉ bị gian lận về số lượng mà còn có thể mua phải xăng “dổm” gây cháy xe. Ra chợ thì dễ mua phải thực phẩm chứa thuốc độc hại: Nhiều người đã chết vì uống nhầm rượu “dỏm” hay mặc áo ngực phụ nữ có chứa chất độc hại gây ung thư da...

- Ngoài ra chúng ta phải biết dùng lời nói chân thật, khiêm tốn và khoan dung nhân hậu để đem lại sự an vui thuận hòa, để yêu thương và tha thứ, để bênh vực và che chở, để quan tâm nâng đỡ và khích lệ, đồng thời sẵn sàng chấp nhận cho người khác trổi vượt hơn mình, thì tâm hồn chúng ta mới thực sự an bình. Hãy năng hát bài Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô, rồi quyết tâm thực hành theo để nên chứng nhân Tình Thương của Chúa hôm nay.

5. NGUYỆN CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa là Vua của Sự Thật. Xin cho chúng con biết yêu Sự Thật và luôn nói thật, nhưng biết khôn ngoan để không nói những sự thật gây thiệt hại cho người vô tội. Xin cho chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo.

Trong giao tiếp xã hội, xin cho chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36).

Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin.

Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là công dân Nước Trời của Vua Giê-su, Đấng “là Đường, là SThật và là SSống” (Ga 14,6). Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của Chúa để đưa nhiều người về làm con Chúa trong đại gia đình Hội Thánh.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH - HHTM