CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN,

Năm B, ngày 20/7

Mc 6, 30-34

 

ĐÁM ĐÔNG BƠ VƠ KHÔNG NGƯỜI CHĂM SÓC

 

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Hình ảnh người chăn chiên xuất hiện thường xuyên trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã minh chứng Thiên Chúa luôn lo lắng cho dân như một mục tử nhân lành lưu tâm, săn sóc cho từng con chiên một và thánh vịnh 23 cũng nói lên nguồn cảm hứng sâu xa ấy: Thiên Chúa xuất hiện qua Con Người của Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Ngài, Chúa Giêsu tự coi mình là Đấng Chăn chiên hiền lành chăm sóc, hướng dẫn đoàn chiên, ban lương thực cho chiên và nhất là đem  Lời của Người để nuôi dưỡng đức tin cho đàn chiên của mình.

 

CHÚA THƯƠNG DÂN VÀ LUÔN NUÔI HỌ BẰNG CHÍNH LỜI  CHÚA:

Thực tế, trong cuộc đời phục vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, cái ưu tư lớn nhất và khẩn thiết nhất của Ngài là nuôi dân đang khát khao nghe lời bằng chính lời của Ngài. Vì thế, khi các môn đệ vâng lệnh Chúa đi rao giảng, trở về bao quanh Chúa Giêsu, họ muốn kể lại mọi chuyện cho Chúa nghe, nhưng đám đông dân chúng cứ bám sát các Ngài, đòi Chúa phải thực hiện những điều ngoạn mục để họ hoan hô, tôn vinh. Còn Chúa, Ngài không bao giờ muốn dân chúng đề cao Ngài hay tôn vinh Ngài, Chúa chỉ làm bổn phận của mình vì Chúa Cha, vì tình hiếu thảo của Ngài đối với Cha của Ngài. Chúa muốn các môn đệ rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, dưỡng sức và thư giãn để tiếp tục sứ mạng rao giảng, nhưng dân chúng cứ ùa theo các Ngài khiến các Ngài không có giờ ngơi nghỉ và ăn uống, trời lại tối và cảnh tĩnh mịch, hoang liêu, xa nhà, xa làng, dân chúng lại đói, nên Chúa Giêsu đã nghĩ tới lương thực nuôi họ và như thế phép lạ hóa bánh ra nhiều đã xẩy ra. Ở đây, cuộc đời của Chúa Giêsu có thể gồm tóm trong câu:  “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương”( Mc 6, 34 ) và Tin Mừng viết tiếp:” vì họ như bầy chiên không người chăn dắt và Người bắt đầu dậy dỗ họ nhiều điều”( Mc 6, 34 ). Đây là tất cả mạc khải về tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại, đối với con người. Trong thời Chúa Giêsu, nơi dân Do Thái có biết bao kẻ giỏi giang, thông thái, các luật sĩ, biệt phái là  những người có đủ sức để dậy dỗ dân, nhưng những lời dậy dỗ của họ không phát xuất tự Thiên Chúa mà do họ bầy ra, những lời của họ đáng lẽ giải phóng dân, làm cho dân được cởi mở, nhưng trái lại những lời của họ sai sự thật, trái với lương tâm cho nên nó trở thành ách nặng nề đối với dân, dân Chúa vẫn đói, vẫn khao khát sự thật. Chính vì thế, nhân loại muôn thời sẽ hiểu tại sao dù bất cứ Chúa Giêsu và các môn đệ ở đâu, dân chúng cũng ùa tới với các Ngài, khiến các Ngài không còn một chút thì giờ để ngơi nghỉ, để ăn uống. Chúa Giêsu quả thực đã cho dân thấy rõ sự khác biệt giữa lời giảng dậy của Ngài, của các môn đệ Ngài với lời dậy dỗ của các ký lục, biệt phái và luật sĩ. Chúa Giêsu đã chỉ ra rằng lời giảng dậy của các luật sĩ, biệt phái, ký lục đưa dân tới chỗ chia rẽ, đẩy dân ra khỏi đền thờ, khỏi hội đoàn, khỏi xã hội loài người. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã cho dân tiếp xúc với tình thương, với con tim quảng đại, với sự nhạy cảm tha thứ của Ngài. Chúa Giêsu đã đưa dân vào nước trời, vào tình thương vô biên của Chúa hay như ngôn sứ Giêrêmia và tác gỉa thánh vịnh 23 đã nói:” Chúa chính là Đấng chăn chiên lành đã dẫn chiên tới những cánh đồng xanh mát “. Chúa chính là mục tử nhân hậu Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại .

 

CHÚA VẪN TIẾP TỤC LÀM PHÉP LẠ:

Chúa Giêsu đã không ngừng gặp gỡ dân của Ngài, mỗi lần tiếp xúc, mỗi lần giảng dậy, loan báo một sứ điệp, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ân cần, Ngài thấy trước những nhu cầu, những khát vọng của dân. Phép lạ vẫn xẩy ra khi con người có lòng tin, khi con người sẵn sàng cộng tác với Chúa. Chúa làm phép lạ cho cá  và bánh hóa ra nhiều để nuôi đoàn lũ đông đảo dân chúng đi theo Ngài. Trước  khi làm phép lạ, Chúa đã trao ban cho họ lời sự thật, lời hằng sống. Chúa trao  cho dân những gì là quí nhất, những gì là đẹp nhất của Ngài. Ngài chạnh thương  đám đông, đang náo nức kéo đến và háo hức gặp Chúa Giêsu cùng các môn đệ  của Ngài vì thực ra họ không biết đi đâu. Đám đông dân chúng không biết phải  nói gì, nhưng họ đang chờ đợi, và đợi chờ tất cả nơi Chúa. Sự nô nức, nôn nao,  háo hức của đám đông dân chúng đã được Chúa đáp trả bằng tình thương của  Ngài. Chúa đã nói với họ bằng lời sự sống, Ngài đã mở mắt cho họ và khơi dậy  trong lòng họ ngọn lửa đức tin để họ nhận ra Chúa Giêsu và các môn đệ của  Ngài. Ở muôn thời, Chúa vẫn tiếp tục làm phép lạ và phép lạ lớn nhất là chính  phép lạ Chúa sống lại khải hoàn sau khi yêu nhân loại đến hy sinh cả mạng sống  của mình. Chúa tiếp tục mời gọi nhân loại tin và sống kết hiệp với Ngài, để đón  nhận sức sống mới, sự sống vĩnh cửu của Ngài và sống theo ý của Ngài. Phép lạ đã xẩy ra sau khi Chúa thấy đám đông nhiệt tình theo Chúa để lắng nghe Chúa  dậy bảo...Chúa không những nuôi nhân loại bằng Lời, nhưng còn cả bằng lương  thực trần gian. Chúa là một con người rất thực tế, gần gũi và hiểu con người. Tin  Mừng là con người, là Đức Giêsu Kitô và tin vào Đức Kitô, phép lạ vẫn tiếp tục  xẩy ra trong cuộc sống...

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn cảm nghiệm Chúa đang có mặt và đồng hành với chúng con từng phút giây trong cuộc đời.

 

Gợi Ý Chia  Sẻ:

1. Bạn cảm nghiệm thế nào về: Chúa chạnh thương dân chúng

2.Tại sao Chúa lại tự coi mình là mục tử nhân lành ?

3.Bạn nghĩ sao về câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ:” Anh em hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút ?”. 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B | Về Trang Nhà