Lễ Giáng Sinh C (Rạng Đông)

Hãy Qua Bêlem Mà Xem

 

Lc 2:15-20: 15 Và khi các thiên thần đã từ giã họ mà về trời, mục đồng bảo nhau: "Chúng ta hãy qua Bêlem mà xem điều đã xảy ra, và Chúa đã khấng tỏ cho ta biết". 16 Họ hối hả đi đến và đã gặp Maria và Yuse cùng hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy rồi, họ nói ra cho biết điều họ đã được phán dạy về Hài nhi. 18 Và mọi người nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng đã thuật lại cho mình. 19 Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi các kẻ mục đồng lui về tôn vinh và ca ngợi Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được nghe và thấy, chiếu theo lời đã phán dạy họ.

 

Đoạn nầy nằm trong văn mạch câu chuyện giữa các thiên thần và mục đồng (2:8-20), sau mô tả việc hạ sinh của Chúa Giêsu (2:1-8). Sau lời thiên thần báo tin, các mục đồng vội vã đến Bêlem, và tìm thấy Hài nhi (2:15-21). Ngay sau đoạn nầy, Luca thuật lại câu chuyện xảy ra tại đền thờ Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu được trình dâng lên sau tám ngày (2:21-38). Rồi cha mẹ đưa Ngài về lại Nazaréth (2:39-40). Phần cuối cùng của chương hai là trình thuật Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần đầu tiên, khi Ngài lên 12 tuổi (2:41-52).      

         

          Câu chuyện giữa các thiên thần và mục đồng (2:8-20) phân thành hai màn: thiên thần xuất hiện từ trời và loan báo Đấng Kitô sinh ra trong thành Đavít (2:8-14), và các mục đồng ra đi tìm đến Bêlem (2:15-20). Từ “các mục đồng”, poimēn, (cc. 8 và 20) và “vinh quang”, doxa, (c. 9) - “tôn vinh”, doxazō, (c. 20) đóng khung câu chuyện. Vinh quang của Thiên Chúa đã đến và hiện diện giữa họ. Họ đã thấy và tôn vinh Ngài. Chủ đề của đoạn là việc loan báo Đấng Cứu Thế đến và phản ứng của người đón nhận. Luca dùng các từ ngữ liên quan đến vương quyền như “thành Đavít”, “Đấng Cứu Thế” “Đấng Kitô”, và nhất là “vinh quang”, “vinh quang trên cao thẳm”, “tôn vinh” và bình an dưới thế”. Các mục đồng tìm đến và đã thấy “Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (c. 16) mà thiên thần đã loan báo như một dấu hiệu (c. 12). Dấu hiệu nầy quy chiếu ngược lên về màn hạ sinh của Chúa Giêsu được mô tả rất ngắn gọn chỉ trong một câu (c.7): “bà vấn Hài Nhi trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ”. Việc tìm thấy nầy kết thúc đoạn.

 

          Trong đoạn 2:15-21 Luca chú trọng đến việc khám phá Hài Nhi và phản ứng trước sự việc nầy; bởi đó ông dùng các từ ngữ thuộc giác quan nhiều lần, vì chúng liên qua đến một dấu hiệu hữu hình, như laleō, “nói” (cc. 15.17.18.20), rēma, “sự việc” (cc. 15.17.19), oraō, “thấy” (cc. 15.17.20). Nhân vật chính của đoạn là các mục đồng. Họ ước muốn xem thấy điều đã được loan báo (c. 15), và khi đã thấy, họ sẽ loan báo cho người khác (c. 20). Đoạn 2:15-20 làm thành một đơn vị duy nhất, và có thể chia thành hai phần: - Khám phá của các mục đồng (2:15-17); - Các phản ứng  (2:18-20). Từ poimenes, “mục đồng”:  họ đi đến Bêlem (c. 15) và trở về (c. 20) đóng khung phần nầy.

         

          Khám Phá của Các Mục Đồng (2:15-17)

    

          Sau ghi nhận các thiên thần ra đi, Luca mô tả cuộc gặp gỡ của các người thiện tâm đầu tiên (c. 14), là các mục đồng với Hài Nhi. Các mục đồng là người đầu tiên nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Hài Nhi. Lời các mục đồng nói với nhau gồm hai phần: “Chúng ta hãy qua Bêlem” và “chúng ta hãy xem điều đã xảy ra mà Chúa đã tỏ cho chúng ta biết”. Phần thứ hai là lý do thúc đẩy hành động của phần thứ nhất. Hai động từ dierchomai, “đi qua”, và horaō, “thấy”, ở thể cầu khẩn (subjunctive) chỉ sự khích lệ nhau giữa các mục đồng; heōs, “cho đến” chỉ một khoảng cách và đích đến. Luca không cho biết chiều dài lộ trình, mà thái độ của các mục đồng trên lộ trình ấy (c. 16). Họ muốn đi đến Bêlem cách vội vã để nhìn thấy Hài Nhi. “Bēthleem” là tên gọi khác của “kinh thành Đavít” (cc. 4.11). “Sự việc”, rēma mà các muốn thấy là “lời” của các thiên thần về Đấng Cứu Thế mà họ đã nghe, liên quan đến họ và toàn dân (cc. 10-12). Các mục đồng sẽ làm một hành vi tương tự là nói cho dân chúng về Đấng Cứu Thế khi họ đã thấy tận mắt (c.20). “Sự việc” nầy bây giờ họ nhận ra là bởi Chúa, ho kurios. Chúa làm cho họ biết, gnōrizō, sự cứu độ bắt đầu ngay từ việc sinh hạ của Đấng Kitô (cc. 15.17). Vậy sự việc đã được loan báo và đã xảy ra. Phản ứng đầu tiên trước sự việc nầy là quyết định ra đi để tìm gặp.

         

          Phản ứng tiếp theo là các mục đồng “vội vã ra đi”, steudō (c. 16). Tin mừng Luca ghi nhận sự vội vã của ba người: Đức Maria (1:39), các mục đồng (2:16) và Giakêu (19:5.6), và trong cả ba lần đều liên quan đến sự ân cần muốn gặp Chúa Giêsu. Họ vội vã đến một nơi, và ở đó họ gặp một Đấng chứ không phải một nơi chỗ: ở Bêlem có Đấng Cứu Thế, tại nhà Giakêu Chúa Giêsu đến. Động từ “tìm gặp”, “khám phá”, aneuriskō, chỉ được dùng ở đây và Cv 21:4, có đối tượng là người. Các mục đồng đã tìm thấy “Maria, Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Đến lúc nầy các mạo từ xác định đi trước brephos, “Hài Nhi” và phanē, “máng cỏ” ám chỉ điều đã được loan báo trước (2:7.12).

         

          Việc khám phá nầy đóng khung lại bằng các hạn từ đã được dùng ở câu 15: “các mục đồng”, “thấy”, “sự việc”, “nói”, “tỏ cho biết” (c. 17). Tuy nhiên ở đây có hai sự khác biệt so với câu 15. Động từ gnōrizō “tỏ cho biết” bây giờ có chủ ngữ là các mục đồng, chứ không phải là Chúa nữa. Đối tượng của hành động nầy vẫn là “lời”, “điều trình bày”, rēma, đã được nói cho họ. Và Luca không cho biết ngay trong câu nầy đối tượng gián tiếp của hành động nầy là ai, mà chờ sang câu 18.

 

          Các Phản Ứng (cc. 18-20)

         

          Các câu nầy mô tả các phản ứng trước biến cố “Hài Nhi vấn khăn đặt nằm trong máng cỏ”: những người nghe (c. 18), Maria (c. 19) và các mục đồng (c. 20).

         

          “Những người nghe”, pantes oi akousantes, là những người được kể lại (2:18; 1:66). Họ là dân chúng nói chung. Họ không chứng kiến tận mắt sự việc. Động từ thaumazō có liên hệ bởi gốc với động từ theaomai, “thấy”, chỉ sự kinh ngạc do việc thấy gợi lên. Trong trình thuật về việc đặt tên cho Gioan, người kinh ngạc là người tham dự nghi lễ hôm ấy (1:63), và người nghe kể lại là những người sống chung quanh vùng Giuđêa (1:65-66); thế mà những người nầy lại nhận ra hành động của Thiên Chúa trên trẻ nầy, “Vì bàn tay Chúa  đã trên trẻ nầy”. Ở những nơi khác trong tin mừng Luca, chỉ người chứng kiến tận mắt mới có thái độ kinh ngạc. Họ kinh ngạc vì nhận ra những hành động quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện qua Chúa Giêsu (1:66; 2:33; 4:22; 8:25; 9:43; 11:14; 20:26; 24:12). Ở đây Luca ghi nhận là những người nghe kinh ngạc. Họ kinh ngạc về “Hài Nhi vấn khăn đặt nằm trong máng cỏ” (2:7.12.16), theo như lời thuật lại của các mục đồng. Các mục đồng đã trở thành một chứng nhân sống động. Qua lời họ, người nghe nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong Hài Nhi nầy. Vậy một hành động hoặc hiện diện của Thiên Chúa có thể gây kinh ngạc cho con người; và trong thái độ nầy con người đã gặp được Thiên Chúa rồi.

 

          Maria cũng có phản ứng trước lời thuật lại của các mục đồng (c. 19). Maria không kinh ngạc, vì mẹ đã được loan báo về Hài Nhi nầy. Tuy nhiên, Maria mở lòng đón nhận lời của các mục đồng, vì mẹ chưa biết tất cả. Luca ghi nhận phản ứng của Maria trong hai dịp khác nhau: tại đây (2:19), và trong đền thờ (2:51). Trong cả hai trường hợp cụm từ “tất cả các điều ấy…. trong tâm hồn mẹ” được giữ lại. Syntēreō, “cất giữ cách cẩn thận trong tâm trí”; symballō, “đặt lại với nhau”, “đánh giá”, “suy đi nghĩ lại”. Rēma, “lời”, mà các mục đồng thuật lại là lời hoặc sự việc liên quan đến Hài Nhi (2.15.17.19). Các điều họ thông tin cho biết về Hài Nhi thì Maria chưa hề nghe biết. Hài Nhi được gọi là “Đấng Cứu Độ”, “Đấng Kitô” và “Chúa” (2:11). Các tước hiệu nầy nhấn mạnh sứ vụ cứu độ của Ngài; trong khi trong ngày truyền tin Maria chỉ nghe nói đến “Con Đấng Tối Cao” và “vương quyền Đavít” (1:32). Mẹ giữ cẩn thận các lời ấy và suy đi nghĩ lại trong tâm hồn để có thể hiểu tường tận.

 

          Tương phản với thái độ của Maria là giữ các điều ấy trong lòng của Maria, các mục đồng ra về trong tôn vinh và ca ngợi Thiên Chúa (c. 20). Những điều thiên thần loan báo đã thành hiện thực. Luca dùng thường động từ doxazō, “tôn vinh” vào cuối mỗi trình thuật về phép lạ để cho thấy thái độ của những người được chữa lành. Họ luôn luôn “tôn vinh Thiên Chúa”: người bại liệt (5:25tt); người chết (7:16); người phụ nữ còng lưng (13:13); người phong hủi (17:15); người mù (18:24). Trong hành động của Chúa Giêsu, họ nhận ra Thiên Chúa đã đến và cứu độ dân Ngài (x. 4:15.16-21). Như thế các mục đồng tôn vinh và ca ngợi Thiên Chúa vì họ đã nghe và thấy “Đấng Cứu Độ”, “Đấng Kitô”, “Chúa” đến giữa họ trong “Hài Nhi vấn trong khăn đặt nằm trong máng cỏ”. Sự hiện diện và hành động của Ngài chính là “Thiên Chúa đã viếng thăm và cứu độ dân Ngài” (7:16).

 

          Lời thiên thần loan báo liên kết toàn bộ trình thuật. Lời về Đấng Cứu Độ giáng trần. Lời nầy loan ra lớn dần: thiên thần- mục đồng- dân chúng. Bởi thấy tận mắt như các mục đồng hay nghe kể lại như dân chúng, lời hay sự kiện nầy đều làm cho người lãnh nhận đầy niềm vui, vì Thiên Chúa và vinh quang của Ngài đã bao trùm mọi người.

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm C