con Thiên Chúa và đỐi thỦ cỦa Thiên Chúa

 (Luca 4,1-13 – CN I MC – C)

 

1.- Ngữ cảnh

          Các chương Lc 1,5–4,13 giới thiệu song song Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Mục đích của những chương này là nối kết “những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta” (1,1) với lịch sử của Israel: trong việc chuẩn bị, trong cuộc chào đời và trong những hoạt động công khai đầu tiên của Gioan và Đức Giêsu, rõ ràng là Thiên Chúa đã nhớ đến các lời hứa, đã lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Ngài và đã quyết định can thiệp để cứu giúp họ quá mức họ mong chờ. Lô-gích hoàn tất–vượt quá, chúng ta có thể tìm thấy lại trong phần tường thuật hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc 4,14–9,50).

Trong thời gian hoạt động công khai, Đức Giêsu có phải đối đầu với các sức mạnh ma quỷ, là những sức mạnh vẫn hành hạ loài người để biến họ thành nô lệ. Đức Giêsu đến là để cứu loài người khỏi những sức mạnh ấy (x. Lc 4,33; 8,26-39). Người cũng thông ban cho Nhóm Mười Hai quyền giải thoát loài người khỏi các sức mạnh ấy. Các đối thủ của Người kết tội Người là liên minh với Satan, nên mới được hắn ban cho quyền trên các quỷ (11,14-23). Trong khi các đối thủ Người thì cho rằng qua Người, đối thủ của Thiên Chúa đang hoạt động, Đức Giêsu lại quả quyết rằng đàng sau Người, có quyền năng của Thiên Chúa. Tương quan thực hữu của Đức Giêsu với Satan là thế nào, ta thấy ngay ở đầu hoạt động của Đức Giêsu, trong các cám dỗ. Trong những bản văn trước, tác giả liên tục cho thấy bản chất của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Tương quan này đạt tới đỉnh cao trong lời tuyên bố của Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha” (3,22). Cả trong các cám dỗ, vấn đề cũng vẫn là tương quan này. Tương quan này bị thử thách rồi được xác nhận xuyên qua sự từ khước của kẻ ở trong thế đối lập tận căn với Thiên Chúa.

          Cả ma quỷ và Đức Giêsu đều trích Kinh Thánh (chẳng hạn Satan dùng Tv 91,11-12 ở Lc 4,10-11), nhưng hắn không tỏ ra được là “kẻ mạnh hơn” (3,16;11,22). Như vậy, vào lúc khởi đầu sứ mạng, Đức Giêsu được giới thiệu như là “Đấng mạnh hơn” ra sức duy trì chương trình của Chúa Cha và vâng theo Kinh Thánh.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành năm phần:

1) Mở (4,1-2a);

2) Cám dỗ thứ nhất (4,2b-4);

3) Cám dỗ thứ hai (4,5-8);

4) Cám dỗ thứ ba (4,9-12);

5) Kết (4,13).

 

3.- Vài điểm chú giải

- được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa (1): Tác giả Lời Chúa cho thấy là kinh nghiệm của Đức Giêsu trong hoang địa đã xảy ra dưới sự bảo hộ của Thánh Thần. En tô ungmic có thể hiểu là “bởi Thánh Thần” (en = hypo = bởi, x. Mt 4,1) hay là “dưới ảnh hưởng” (en = trong).

- hoang địa (1): Đây là nơi gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 2,14-15), nhưng cũng là nơi trú ẩn của dã thú và ma quỷ (x. Lv 16,10; Is 13,21; 34,14; Tb 8,3).

- bốn mươi ngày (2): Chi tiết này lấy từ Mc 1,13, có thể nhắc đến Đnl 8,2 (trong khi Mt 4,1 là “bốn mươi ngày và bốn mươi đêm”, hẳn là lấy từ Đnl 9,9; Xh 24,18; 34,28; x. 1 V 19,8).

- quỷ (2): Tác giả Lời Chúa thay thế danh xưng Satan của Mc 1,13 bằng “quỷ”, diabolos (‘thần dữ”). Satan là một danh-ngữ Híp-ri có nghĩa là “đối thủ, kẻ kết tội, người truy tố”, được Bản LXX dịch là diabolos, “kẻ vu khống”. Lời Chúa không gọi quỷ là “tên cám dỗ” (ho peirazôn) như Mt 4,3, để cho thấy là ngài muốn ungm là kẻ đối lập, kẻ thách đố Đức Giêsu.

- Nếu ông là Con Thiên Chúa (3): Quỷ nhắc đến cảnh phép rửa (3,22).

- Đã có lời chép rằng (4): Gegraptai, “đã được viết”, là công thức đúc sẵn để đưa vào một câu trích Cựu Ước.

- Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh (4): Câu trích Đnl 8,3 giống với Bản LXX hơn.

- quỷ đem Đức Giê-su lên cao (5): Lời Chúa bỏ chi tiết “núi”, vì trong Lời Chúa của ngài, “núi” là một nơi để cầu nguyện và mạc khải của Thiên Chúa.

- Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi (8): Câu trích Đnl 6,13 này trong dạng giống với Thủ bản Lời Chúa của Bản LXX, Thủ bản B viết là “ngươi phải kính sợ” (gần với bản Híp-ri hơn).

- đến Giêrusalem (9): Đỉnh cao của các cám dỗ trong Tin Mừng III nằm ở thành định mệnh của Đức Giêsu.

- Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng (11): Tv 91,11 theo Bản LXX.

- Ngươi chớ thử thách Đức Chúa (12): Đnl 6,16 trích theo Bản LXX.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

          Một số người trong chúng ta cảm thấy ngỡ ngàng khi biết là Đức Giêsu cũng có những ngờ vực như chúng ta, Người cũng gặp những khó khăn trong khi thi hành sứ mạng, Người chỉ dần dà khám phá ra được chương trình của Cha Người về Người. Chúng ta sợ kéo Người xuống với bình diện chúng ta, thế nhưng Thiên Chúa không hề lạc hướng do sự bần khốn của chúng ta. Đúng hơn phải nói rằng Người còn nhận lấy sự bần khốn của chúng ta làm của Người, và bằng cách trở nên người phàm, đứng chung ung với người phàm (x. 3,1), Người đã đánh bại tội lỗi.

 

* Mở (1-2a)

Tác giả Lời Chúa cho thấy là sau phép rửa, Đức Giêsu đầy Thánh Thần. “Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa suốt bốn mươi ngày, và chịu quỷ dữ cám dỗ” (Lời Chúa 4,1-2a).

Qua các cám dỗ, ta thấy tất cả tính vững chãi và rõ ràng chắc chắn của tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Trong cuộc đối đầu này, ta cũng thấy rõ ràng là Đức Giêsu hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa.

 

* Cám dỗ thứ nhất (2b-4)

Cám dỗ thứ nhất kết thúc với câu trích Đnl 8,3: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”. Đức Giêsu bị thách đố sử dụng quyền lực của Người là Con Thiên Chúa mà giải quyết những khó khăn mà mọi con người đều trải nghiệm, mà phục vụ lợi ích riêng tư, tìm kiếm lương thực cho mình ngoài kế hoạch của Chúa Cha. Đnl 8,1-6 nhắc đến kinh nghiệm Israel càm ràm chống lại Môsê và Aharon vì nhớ cơm bánh Ai Cập (Xh 16; Lời Chúa 11,7-8). Họ đã được Thiên Chúa ban manna và chim cút, nhưng đã bị trách mắng. Còn Đức Giêsu dứt khoát loại trừ thách đố của quỷ và nhắc tới lời Đnl mang tính khuyến thiện tóm tắt biến cố Xuất Hành.

Thử thách liên hệ đến tương quan đúng đắn với Thiên Chúa có thể đến từ nhiều phía. Trong cám dỗ thứ nhất, thử thách đến từ những nhu cầu sống còn của con người, rồi từ quyền lực và từ sự uy ung của con người và cuối cùng từ một tương quan sai lạc với Thiên Chúa. Thử thách đầu tiên bắt đầu với cái đói của Đức Giêsu. Tên cám dỗ đề nghị Người sử dụng quyền lực của Người để loại trừ cái đói. Trong cái đói, sự sống bị đe dọa. Muốn sống, con người cần cơm bánh. Không có cơm bánh, trước sau rồi cuộc sống của con người cũng phải kết thúc. Con người cần phải và có thể sử dụng cái gì để bảo vệ sự sống mình? Phải chăng sự sống này, một sự sống cần cơm bánh và lệ thuộc cơm bánh, là một giá trị tuyệt đối, biện minh cho mọi nỗ lực? Phải chăng người ta có thể tập trung tất cả các phương tiện và tất cả sức chú ý mà thỏa mãn các nhu cầu cơ bản? Đức Giêsu tuyên bố rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. Người có một sự sống cao hơn sự sống lệ thuộc cơm bánh: sự sống này hệ tại dây liên kết vô điều kiện và hoàn toàn tin tưởng với Thiên Chúa. Sau này Đức Giêsu sẽ nói với các môn đệ: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn […]. Hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lời Chúa 12,22.31). Phải dành chỗ đầu cho việc quay hướng về Thiên Chúa và tin tưởng vào quyền năng nhân ái của Ngài, chứ không được thay thế những điều ấy bằng nỗ lực đảm bảo cho sự sống mình bằng cơm bánh. Mối quan tâm đầu tiên luôn luôn phải là Thiên Chúa và dây liên kết với Ngài.

 

* Cám dỗ thứ hai (5-8)

          Cám dỗ thứ hai kết thúc với câu trích Đnl 6,13: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm, là Đấng ungm phải phụng thờ”. Đnl 6,10-15 nhắc tới kinh nghiệm của Israel lang thang trong hoang địa và bị thu hút bởi nền phụng tự Canaan (Đnl 12,30-31) và họ thường xuyên được Môsê nhắc nhở đừng chạy theo các thần ngoại hoặc các quyền lực ngoại (Xh 23,23-33). Đức Giêsu bị thách đố chấp nhận quyền thống trị trên cách nước thế gian từ một kẻ khác Thiên Chúa. Thử thách này không nhắm minh nhiên đến Người như là Chúa Con, nhưng thách thức Người nhận biết một kẻ khác thay vì Chúa Cha như là chủ và Chúa của Người. Câu trả lời của Người trích trực tiếp một lời Môsê nói với con cái Israel, và vẫn rút từ một bài tóm mang tính khuyến thiện về một biến cố trong Xuất Hành. Đức Giêsu dứt khoát loại bỏ thách đố tôn thờ bất cứ thứ gì ngoài Yhwh, Đức Chúa, Cha của Người.

Có thể nói cám dỗ thứ hai bắt đầu từ đối cực của các khả năng loài người. Cám dỗ này không nhắm tới con người đang chiến đấu để có sự cần thiết tối thiểu cho cuộc sống, nhưng nhắm tới khả năng con người nhìn xa hơn chính bản ung và sự sống của mình, và khao khát được làm chủ thế giới. Ở đây điều được nhắm tới là sự hấp dẫn của quyền lực, của quyền bá chủ tối đa. Nếu tìm quyền lực vì chính nó, người ta phải trả giá. Việc hoàn toàn chỉ tìm kiếm quyền lực không phù hợp với việc nhìn nhận quyền chủ tể của Thiên Chúa. Khẳng định ý chí thống trị của mình là đối lập lại với Thiên Chúa là Chúa Tể. Tìm kiếm và vui hưởng quyền lực là phụng sự Satan. Đức Giêsu đưa việc thờ phượng Thiên Chúa ung đối lập với việc phụng sự này. Chỉ Thiên Chúa mới là Chúa Tể và ý muốn của Ngài có giá trị hơn tất cả mọi sự. Nhìn nhận Thiên Chúa như là Chúa Tể tuyệt đối là có nền tảng để tương quan đúng đắn với Ngài.   

 

* Cám dỗ thứ ba (9-12)

          Cám dỗ thứ ba kết thúc với câu trích Đnl 6,16: “ungm đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của ungm”. Đnl 6,16 nhắc đến kinh nghiệm Xuất Hành của Israel khi họ thử thách Đức Chúa (Yhwh) tại Mátxa và Mơriva mà đòi có nước uống (Xh 17,1-7). Yhwh đã trả lời bằng cách bảo Môsê đập tảng đá cho nước chảy ra; nhưng Môsê đã khiển trách dân đã thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu bị thách đố trong tư cách Con Thiên Chúa ung quyền lực Người để tỏ bày bản ung cách lẫy lừng cho người đương thời và như thế phù hợp với các ý tưởng dân gian về một lãnh tụ được phái đến từ trời cao. Đức Giêsu lại ung một chỉ thị khác của Môsê mà trả lời, cho hiểu rằng không một ai có thể xin Thiên Chúa can thiệp chỉ để thỏa mãn chuyện ngẫu hứng của mình.

Có thể diễn tả cám dỗ thứ ba thế này: “Bởi vì ngươi đẩy sự sống và quyền lực con người ra sau và đặt Thiên Chúa ở trên mọi sự, thì hãy tỏ ra hợp tình hợp lý mà sống điều này. Ngài đã hứa bảo vệ ngươi: vậy thì hãy thử nghiệm sự che chở này đi!”. Nhưng chính hành vi được đề nghị này cũng là một hình thái khác của quyền lực cho riêng mình. Chúng ta phải tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa, chứ không được đưa sự che chở của Ngài ung thử thách, chúng ta không được đẩy mình vào thế hiểm nghèo theo ý mình. Tương quan đúng đắn với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta làm trong mức khả năng cho phép và để cho Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn làm cho chúng ta. Tin tưởng vào Thiên Chúa không có nghĩa là lười biếng và thiếu suy xét cho hợp lý. Chúng ta phải sử dụng cách hợp lý và theo cách tốt nhất tất cả các khả năng Thiên Chúa đã ban cho. Cùng với sự tin tưởng, là trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.

 

* Kết (13)

          Câu kết cho thấy quỷ đã thất bại trong dịp này, nhưng nó chưa chịu thua. Nó chờ dịp khác. Đức Giêsu đã hiểu như thế và đã lưu ý các môn đệ: “Simôn, Simôn ơi, kìa Satan đã xin được sàng ungm như người ta sàng gạo” (Lời Chúa 22,31). Và quỷ đã trở lại khi nhập vào Giuđa để xúi y bán Thầy (22,3), khi Đức Giêsu bị chao đảo trong chí hướng hiến thân (22,42), khi các thượng tế và lãnh binh đến bắt Người (22,53), khi các thủ lãnh và lính tráng chế nhạo thách thức Người trên Đồi Sọ (23,35-39). Nhưng Đức Giêsu tiếp tục dứt khoát tiến bước theo thánh ý Chúa Cha.

 

+ Kết luận

          Đức Giêsu rất cương quyết và trung thành sống dây liên kết với Thiên Chúa. Không một cám dỗ nào có thể làm cho Người bị lung lạc, mà chỉ có thể làm cho chúng ta thấy Người bình thản và dứt khoát ở về phía Thiên Chúa và chứng tỏ Người là Con yêu dấu của Chúa Cha. Bằng sự vững chắc và cương quyết ấy, Người tiếp tục con đường đã theo và chỉ cho chúng ta cũng như làm cho chúng ta có thể đi vào quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa.

Có thể nói ba xen cám dỗ có chủ đề chung là sửa chữa một cách hiểu sai sứ mạng của Đức Giêsu như là Con Thiên Chúa. Dây liên kết ba xen ấy là một chuỗi các câu trích lấy từ sách Đnl nhắc lại ba biến cố Xuất Hành trong đó con cái Israel trong hoang địa đã bị thử thách và đã thất bại. Đức Giêsu được minh nhiên so sánh với họ: tại chỗ Israel đã thất bại, Đức Giêsu đã thành công. Trong mỗi xen, ma quỷ bị Đức Giêsu đánh bại bằng cách trích Kinh Thánh. Tác giả Lời Chúa không ghi lại một lời nào khác của Đức Giêsu. Như thế, Người được phác vẽ ra như là Đấng chiến thắng nhờ được võ trang bằng Lời Thiên Chúa (x. Ep 6,17).

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong lời mời gọi hoán cải, Gioan khẳng định rằng ơn cứu độ không mưa từ trời xuống cho chúng ta. Chúng ta phải chủ ý thực hiện một cuộc hoán cải quyết liệt và hữu hiệu mà quay về với Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta hoán cải và Ngài giúp chúng ta thực hiện, nhưng chúng ta phải chủ động bắt tay vào. Lối xử sự của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ cứ bị méo mó đủ cách. Nhiều thực tại khác lôi kéo sự chú ý của chúng ta, tỏ ra quan trọng và có giá trị hơn chính Thiên Chúa. Cám dỗ và thử thách vẫn có đó, nên ta cần phải lấy lập trường và quyết định. Đức Giêsu nêu gương cho chúng ta: vì Người luôn ở về phía Thiên Chúa, nên Người có thể trả lời cách yên hàn, chắc chắn và đàng hoàng. Người diễn tả ra cách đơn giản, tuyệt đối rõ ràng, điều gì có giá trị.

2. Bị thử thách không phải là một điều xấu: Đức Giêsu vừa được Thánh Thần hướng dẫn vừa chịu quỷ cám dỗ. Điều xấu là để mình sa chước cám dỗ. Nếu kiên trì chiến đấu và đạt chiến thắng như Đức Kitô đã làm trong hoang địa, ta đã có dịp diễn tả lòng hiếu thảo của mình đối với Chúa Cha. Dĩ nhiên không nên tự phụ mình thừa sức chiến thắng cám dỗ bằng cách đi tìm cám dỗ! Còn khi cám dỗ đến, chúng ta bắt chước Đức Giêsu ung những phương tiện siêu nhiên có được mà chiến đấu: Lời Chúa, cầu nguyện, Thánh Thể…

3. Chúng ta bị cám dỗ khi chỉ rút vào trong mình, và đầy người khác ra ngoài; khi chúng ta ung các tài năng để chỉ thỏa mãn chính mình; khi chúng ta xác tín rằng chúng ta phải lo cho chính mình, chứ không quan tâm đến người khác. Đức Giêsu đã sử dụng quyền của Người cho kẻ khác. Phải luôn nhìn nhận quyền chúa tể của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhưng sự nhìn nhận này thường xuyên bị đe dọa bởi việc đi tìm quyền lực: “Tôi có khả năng quyết định. Lời tôi nói và ý tôi muốn là dứt khoát và phải được tuân theo. Tôi có quyền xếp đặt các con người và các sự việc!” Đức Giêsu nhìn nhận quyền bính trong thế giới loài người. Tuy nhiên các quyền bính này không được coi như có quyền thống trị trên người khác, trái lại phải được sống như một công việc phục vụ (x. Lời Chúa 3,12-14; 22,24-27).

4. Trong cuộc sống này, chúng ta không thể mong được miễn giảm một cuộc chiến đấu gian khổ. Tuy nhiên, chúng ta được biết Tin Mừng này: có một Đấng mà tên cám dỗ không làm hại được; có Đấng tuyệt đối sống trung thành với Thiên Chúa. Cho dù chúng ta không chống lại được thử thách và cứ té ngã liên tục, sự kiện có một Đấng vẫn đứng vững và trung thành với Thiên Chúa phải thổi vào lòng chúng ta niềm vui và sự can đảm. Đức Giêsu đã không cần bằng chứng để tin vào tình yêu của Chúa Cha. Thế nhưng có những Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương họ khi mọi chuyện xuôi chảy với họ, còn khi có những trục trặc, họ bắt đầu ngờ vực. Còn Đức Giêsu, ngay trên thập giá, khi những con mắt trần gian thấy dường như Người bị Thiên Chúa nguyền rủa, Người vẫn tin vào tình yêu của Chúa Cha.

5. Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại, thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn con đường chung của mọi người, là sự thoải mái. Vinh quang không phải là một tội, mà còn là một quyền Người có thể ung. Sự rút lui của quỷ chứng tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu. Người đã không muốn bước theo một nẻo đường tiện nghi thoải mái, không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Khi rời khỏi hoang địa, không những Người được thánh hiến mà còn có đầy đủ tư cách Mêsia.   

Lm PX Vũ Phan Long, ofm


Suy Niệm Lời Chúa Năm C