Chúa Nhật thứ 3 Thường Niên

 (25-1-2004)

ĐỌC LỜI CHÚA

·    Nkm 8,2-4a.5-6.8-10: (9) Tổng trấn Nêhêmi, thầy tế lễ Exơra tuyên bố: «Hôm nay là một ngày thánh dành cho Thượng Đế Hằng Hữu».

·    1 Cr 12,12-30: (13) Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể, và đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. (27) Vậy anh em chính là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.

 

·    TIN MỪNG: Lc 4,14-21

Đức Giêsu tại Nadarét (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6)

 (14) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. (15) Người giảng dạy trong các hội đường, được mọi người tôn vinh.

 (16) Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. (17) Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: (18) Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, (19) công bố năm hồng ân của Chúa.

 (20) Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. (21) Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến cuộc sống đời thường của con người?

2. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao trùm ấy không? Tại sao?

3. Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có phải là thái độ đúng đắn không?

Suy tư gợi ý:

1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).

Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ, hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả – cũng là một ngôn sứ – ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.

2. Đức Giêsu đến để giải phóng con người toàn diện

Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.

thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người 14 mối», trong đó không chỉ 7 mối về linh hồn còn 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người đặc biệt những kẻ nghèo khổ được sống chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, con cái hình ảnh của Thiên Chúa.

3. Người Kitô hữu phải bảo vệ quyền sống cho ra người

Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng – là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ được sống cho xứng với phẩm giá con người – thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»

4. Phải tranh đấu cho công lý

Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống cho ra người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng.

Muốn cho mọi người đang sống được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền sống cho ra người một cách cũng hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người – mà trước hết là chúng ta – sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

5. Tranh đấu như thế có hợp với tinh thần Kitô hữu không?

Việc tranh đấu cho quyền làm người và sống cho ra người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ bỏ ý muốn làm ngôn sứ!

Cũng tương tự như các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình.                       (JK)


Trở Về Mục Lục | Về Trang Nhà