(Thơ Do-thái 12:1-2)
Cuộc sống của các
tín hữu Kitô mà lá thơ gởi các tín hữu Do thái viết cho họ đều biết đến những thử thách cùng đau khổ.
Đôi khi người ta có thể nản lòng: tại sao không chọn con đường dễ dãi hơn, tại
sao không đầu hàng?
Trái lại tác giả lá thơ mời gọi ta tiếp tục con đường đã
chọn: nó khó khăn, đòi hỏi, nhưng cuộc sống Tin mừng là cuộc sống đưa đến sự
sống trọn vẹn. Hơn nữa, tác giả còn thúc đẩy các tín hữu chạy và kiên trì cả
dưới gánh nặng phải chịu.
Cũng như đối với mỗi vận động viên điền kinh, mỗi người
chúng ta là những người quyết định theo Đức Giêsu cũng thế, để đạt tới đích thì
cần phải kiên trì, hay kháng cự, có khả năng giữ vững, là khả năng phát xuất từ
xác tín rằng Thiên Chúa ở với chúng ta, và từ nhất quyết muốn thành công.
Nhưng trên hết chúng ta được mời gọi nhìn thẳng lên Đức
Giêsu, Đấng đã đi trước cùng dẫn đường cho ta. Thực vậy, trên thập giá, nhất là
khi cảm thấy mình bị Chúa Cha bỏ rơi, Người là mẫu gương cho lòng can đảm, kiên
trì, chịu đựng: Người đã biết đứng vững trong cơn thử thách và đã phó thác nơi
bàn tay của Thiên Chúa mà Người cảm thấy như đã bỏ rơi mình (Xem Mác-cô
15:34).
Chị Chiara Lubich thường đề cập đến Đức Giêsu,
Đấng can đảm, không đầu hàng trước thử thách lớn lao nhất: Người là mẫu gương
cho cuộc chạy đua của chúng ta và mẫu gương phải vượt qua những thử thách thế
nào. Mỗi đau khổ của ta hay thử thách của cuộc sống đều đã được Đức Giêsu nhận
lấy cho mình trong giây phút bị bỏ rơi trên thập giá.
Chúng ta hãy để cho chính chị Chiara chỉ cho chúng ta phải
nhìn thẳng về Người thế nào.
“Chúng ta bị sự sợ hãi giữ chặt sao? Đức Giêsu trên thập
giá, khi bị bỏ rơi, không xem ra là Người bị sự sợ hãi là Chúa Cha đã quên mình
xâm chiếm sao?”
Khi chúng ta bị tình trạng nản lòng cùng thất vọng giữ
chặt, ta còn có thể nhìn lên Đức Giêsu, Đấng mà trong lúc đó “xem ra bị tràn
ngập bởi ấn tượng là trong cuộc khổ nạn, Người không được Chúa Cha an ủi và xem
ra Người không còn can đảm để kết thúc cơn thử thách đau đớn nhất của mình...
Những cảnh huống đưa ta đến chỗ bị rối loạn sao? Trong đau khổ kinh hoàng ấy
Đức Giêsu xem ra không còn hiểu gì về những điều đang xẩy ra, vì Người kêu lên
“Tại sao?” ... Và khi bị ảo tưởng ập đến hay bị nỗi kinh hoàng hay rủi ro bất
ngờ, hoặc một cơn bệnh hay một tình cảnh vô lý làm tổn thương, lúc nào chúng ta
cũng có thể nhớ đến đau khổ của Đức Giêsu bị bỏ rơi, vì Người đã nhận lấy tất
cả những thử thách này và hàng ngàn thử thách khác nữa” (In cammino col
risorto, Città Nuova, Roma 1994, p.148-149).
Người luôn ở bên cạnh ta trong mọi khó khăn, sẵn sàng chia
sẻ mọi đau khổ với ta.
Vậy ta thực hành Lời sống này thế nào? Bằng cách nhìn lên
Đức Giêsu và tập thói quen “gọi tên Người trong những thử thách của cuộc sống.
Chúng ta thưa với Người: Chúa Giêsu bị bỏ rơi là cô đơn, Chúa Giêsu bị bỏ rơi
là nghi ngờ, Chúa Giêsu bị bỏ rơi là sự tổn thương, Chúa Giêsu bị bỏ rơi là thử
thách, Chúa Giêsu bị bỏ rơi là sự tiêu
tan, v.v.
Và khi gọi tên Người, ta sẽ nhìn thấy Người tỏ tường và
nhận ra Người dưới mọi đau khổ và Người sẽ yêu thương hơn đáp lại ta; và khi
chấp nhận Người, thì Người sẽ trở nên niềm an bình, sự an ủi, lòng can đảm, sự
quân bình, nên sức khỏe, nên sự chiến thắng cho ta. Người sẽ là lời giải thích
cho mọi sự và giải pháp cho mọi sự”.
Đối với bà Lu-i-gi-a
cũng vậy. Cách đây nhiều năm bà gặp một tờ giấy có lời giải thích về Lời sống
này. Chính bà kể lại như sau:
“Tôi bất ngờ nhận được một tin kinh hoàng: đứa con lớn của
tôi, lúc đó 29 tuổi, bị tai nạn xe cộ rất nặng. Tôi nghẹn ngào chạy đến bệnh
viện. Con tôi nằm đó, bất động, bất tỉnh. Tôi thất vọng. Trong những ngày lo
lắng chờ đợi tình cờ tôi đi ngang nhà nguyện ở bệnh viện và thấy bản Lời sống
mời gọi tôi nhìn thẳng lên Đức Giêsu bị bỏ rơi. Tôi chú ý đọc: tôi tự nhủ,
đúng, Lời sống nói đến thử thách của mình... Bây giờ không còn hy vọng gì nữa,
nhưng phòng hồi sinh không xem ra là một cuộc tử đạo nữa, mà là sợi giây nối
liền với tình thương Thiên Chúa. Và cầm lấy bàn tay đứa con, tôi có thể cầu
nguyện cho nó đang hấp hối. Con tôi đã chết, nhưng không bao giờ tôi đã cảm
thấy nó sống động như vậy”.
Lm.
Fabio Ciardi và Gabriella Fallacara