SUY NIỆM VỀ THÁNH GIUSE

Nguyên tác : JEAN GALOT S.J.

Tóm lược : Lm. Giuse TRẦN ĐỨC LIÊM

 

 

 

Suy niệm :

THÁNH GIUSE

 

Thực hiện Nhân Dịp

LỄ THÁNH GIUSE LAO ĐỘNG 1-5-2015

Bổn Mạng

GIỚI GIA TRƯỞNG GX THANH XÁ



MỤC LỤC

Bài 1 : BẢN LÃNH CỦA THÁNH GIUSE.. 5

Bài 2 : GẶP GỠ ĐỨC MARIA.. 6

Bài 3 :CUỘC ĐÍNH HÔN.. 7

Bài 4 : NHÂN CHỨNG CỦA MẦU NHIỆM.. 8

Bài 5 : TRUYỀN TIN CHO GIUSE.. 9

Bài 6 : CUỘC KẾT HÔN.. 10

Bài 7 : NGƯỜI BẠN ĐỜI CỦA ĐỨC TRINH NỮ... 11

Bài 8 : ĐẤNG CỨU TINH CHÀO ĐỜI 12

Bài 9 : THÁNH GIUSE LÀ CHA ĐỨC GIÊSU.. 13

Bài 10 : THÁNH GIUSE GẶP GỠ VỊ TIÊN TRI 14

Bài 11 : LẦN DÂNG LỄ ĐẦU TIÊN.. 15

Bài 12 : KẺ TIN TRONG TĂM TỐI 16

Bài 13 : ĐAU KHỔ VÌ MẤT CHÚA GIÊSU.. 17

Bài 14 : THÁNH GIUSE LÀ NHÀ GIÁO DỤC.. 18

Bài 15 : THÁNH GIUSE LÀ MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊSU.. 19

Bài 16 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG.. 20

Bài 17 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI CHIÊM NIỆM.. 21

Bài 18 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI CÔNG CHÍNH.. 22

Bài 19 : THÁNH GIUSE LÀ GIA TRƯỞNG.. 23

Bài 20 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI TÔI TỚ... 24

Bài 21 : THÁNH GIUSE LÀ CON NGƯỜI THẦM LẶNG.. 25

Bài 22 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI NGHÈO KHÓ.. 26

Bài 23 : THÁNH GIUSE CÓ CÕI LÒNG THANH SẠCH.. 27

Bài 24 :  THÁNH GIUSE CÓ MỘT TÂM HỒN ĐƠN SƠ... 28

Bài 25 : THÁNH GIUSE CÓ TINH THẦN KHÔN NGOAN.. 29

Bài 26: THÁNH GIUSE CÓ TÌNH YÊU TRUNG TÍN.. 30

Bài 27 : THÁNH GIUSE LÀ CON NGƯỜI HY VỌNG.. 31

Bài 28: THÁNH GIUSE LÀ VỊ TÔNG ĐỒ ẨN TÍCH.. 32

Bài 29 : CÁI CHẾT CỦA THÁNH GIUSE.. 33

Bài 30 : THÁNH GIUSE LÀ ĐẤNG CHUYỂN CẦU.. 34

Bài 31 : THÁNH GIUSE LÀ QUAN THẦY HỘI THÁNH.. 35



Bài 1 : BẢN LÃNH CỦA THÁNH GIUSE

Trước kia, người ta thường trình bày về Thánh Giuse bằng hình ảnh một ông lão đầu tóc bạc phơ đầy vẻ tốt lành và thánh thiện. Nhưng sự già nua ấy lại khó có thể phù hợp với vai trò mà Ngài đảm nhận. Vì thế, Ngày nay Thánh Giuse được trình bày bằng hình ảnh trẻ trung, mạnh mẽ và cương nghị. Cách trình bày này xem ra đúng tính cách của Ngài hơn.

Quả thực, tuy là Sách Tin Mừng không cho biết về số tuổi của Thánh Giuse, nhưng theo lẽ thường ta cũng có thể dễ dàng suy luận và chấp nhậnrằng : khi kết bạn với Đức Maria thì Thánh Giuse cũng ở vào lứa tuổi mà các bạn trẻ khác đính hôn. Cho nên ta phải phác họa Ngài bằng những đường nét của một thanh niên trẻ trung, đầy nghị lực và hăng hái.

Sự trẻ trung nói ở đây, trước tiên Thánh Giuse đã có ở trong tâm hồn của Ngài. Ngài đã có bản lãnh của một người trai trẻ. Đặc điểm của giới trẻ là muốn đem sức lực và khả năng của mình ra để biến đổi thế giới này nên tốt đẹp hơn. Tuy biết rằng nghề thợ mộc khiêm tốn của mình không tạo được ảnh hưởng gì lớn lao đến sự phát triển của nhân loại, nhưng với nhiệt huyết tuổi trẻ, Thánh Giuse cũng hết lòng ao ước được góp phần thay đổi bộ mặt thế giới. Trong dân Do Thái, cao vọng đó còn được thúc đẩy bởi niềm hy vọng nồng nhiệt về thời đại của một Đấng Cứu Thế sẽ đến thiết lập một triều đại mới.

Thái độ nồng nhiệt này không phải chỉ do từ sức lực trai tráng, nhưng trước hết nó đã bắt nguồn từchính sự trẻ trung của Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là đấng mãi mãi trẻ trung đã thông ban cho con Người sự tươi trẻ đích thực, chẳng khi nào tàn tạ.

Nếu ta không bao giờ hình dung ra Đức Maria như một bà già, lúc nào ta cũng thấy Mẹ trẻ trung, thì ta cũng phải tưởng nghĩ y như thế về Thánh Giuse. Vì Ngài không bao giờ mất sự trẻ trung, một sự trẻ trung phát xuất từ chính sự trẻ trung của Thiên Chúa. Ngài đã đến với Đức Mẹ Maria bằng một tình cảm tươi trẻ, và nếu Ngài được Chúa chọn làm bạn với Đức Maria thì chắc hẳn là vì Ngài có tâm hồn nhạy cảm, có thể thấu hiểu và hòa hợp với tâm hồn tế nhị của Đức Maria.

Tâm hồn tươi trẻ của Thánh Giuse cũng là tâm hồn đặc biệt mạnh mẽ. Ngài cần đến sức mạnh và bản lãnh này để chu toàn vai trò gia trưởng của mình là : đảm đương việc nuôi sống gia đình, nâng đỡ Đức Maria,bảo đảm uy thế người cha và người giáo dục trẻ Giêsu. Đặc biệt là bản lĩnh trong cách xử sự đầy khôn ngoan và lòng tự tín trầm tĩnh mà Tin Mừng gợi lên.

TRẺ TRUNG VÀ MẠNH MẼ, Thánh Giuse phải là như thế trước mắt chúng ta, trong một bản lãnh đầy ơn tự nhiên, và hơn nữa, đầy ân sủng của Thiên Chúa.


Bài 2 : GẶP GỠ ĐỨC MARIA

Cuộc gặp gỡ Đức Maria đã định đoạt vận mệnh của Thánh Giuse.

Nhìn bề ngoài, đây là một cuộc gặp gỡ giống như bao nhiêu cuộc gặp gỡ khác, khi một thanh niên tìm được một thiếu nữ xinh đẹp, hợp với mình.

Nhưng thật ra, đây chính là một cuộc gặp gỡ như chưa từng có bao giờ. Thánh Giuse bị đánh động bởi một vẻ đẹp khôn sánh, vẻ đẹp của một tâm hồn trong trắng và hoàn thiện tuyệt đối. Vẻ đẹp này xuất phát từ tâm hồn đầy ơn Chúa mà Thiên Thần Gabriel đã chào kính là đầy ơn phúc.     

Giữa bao nhiên người, chỉ có Thánh Giuse nhận ra vẻ đẹp lạ lùng của Đức Maria nhờ vào cái nhìn sâu xa. Chính ở chiều sâu tâm hồn, mà Thánh Giuse đã thực sự gặp được Đức Maria. Cái nhìn sâu xa này là một ân huệ siêu nhiên. Chúa Thánh Thần đã nâng cao cái nhìn của Thánh Giuse và làm cho tâm hồn Thánh Giuse hòa hợp với tâm hồn Đức Maria. Sau này, những ai gặp Đức Maria và kinh ngạc trước vẻ đẹp của Mẹ, cũng đều do Chúa Thánh Thần soi sáng và thanh luyện cái nhìn.

Khi sống bên Đức Maria và Chúa Giêsu, Thánh Giuse dần dần hiểu hơn rằng, việc Ngài bị thu hút bởi Đức Maria, thực ra là Ngài bị thu hút bởi chính Chúa Giêsu. Là vì Đức Maria mang nơi mình hình ảnh Chúa Giêsu . Chính Chúa Giêsu đã lôi kéo Thánh Giuse cách bí nhiệm qua gương mặt trong sáng của Mẹ Maria. Nơi Đức Maria, Thánh Giuse đã gặp được Chúa Giêsu. Vì thế, việc gặp gỡ Đức Maria làm cho Thánh Giuse cảm thấy mình nên tốt lành hơn nhờ sự chiếu tỏa thánh thiện từ Đức Maria. Điều này chứng tỏ cách rõ ràng rằng : Thiên Chúa ở giữa cuộc gặp gỡ. Quả thế, Đức Maria vốn chỉ sống cho Thiên Chúa mà thôi , và Mẹ muốn giữ mình đồng trinh để được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể trở nên thân thiết với Mẹ khi sống mật thiết với Thiên Chúa. Bởi thế, khi gặp Đức Maria, Thánh Giuse cũng thấy nơi mình có khát vọng bước lên cùng Thiên Chúa và đi vào con đường sống khiết trinh như Đức Maria.

Sau cuộc gặp gỡ Đức Maria, Thánh Giuse nhìn lại sự vật ở đời, và Ngài thấy rằng tấtcả đều nhỏ bé trước tâm hồn lớn lao của Đức Maria.

Chắc chắn sự khám phá này đã chiếu sáng cả cuộc sống của Thánh Giuse. Đức Maria đã thông chuyển cho Ngài tình yêu lớn lao và trong trắng của Mẹ.


 Bài 3 :CUỘC ĐÍNH HÔN

Đối với Đức Maria, Thánh Giuse là người Chúa đã chọn, để giúp Mẹ sống lý tưởng trinh khiết trong đời sống gia đình. Cuộc đính hôn là kết quả của việc hai người cùng thông chia một lý tưởng, và cùng quý mến nhau một cách sâu xa.

Khi chọn Đức Maria làm hôn thê và trao đổi lời giao kết, Thánh Giuse đã chấp nhận việc lựa chọn và sắp xếp của Thiên Chúa. Ngay lúc đó, Ngài chưa thể biết rõ tất cả tình thương mà Chúa gói ghém trong việc kén chọn này. Ngài chỉ suy đoán và biết rằng: mình phải tạ ơn Chúa vì đặc ân này.

Cuộc đính hôn đem lại cho Đức Maria và Thánh Giuse niềm phấn khởi, luôn quy hướng trọn vẹn về Thiên Chúa. Nếu Mẹ Maria là người đầu tiên quý chuộng những đức tính của Thánh Giuse, và là người đi trước Hội Thánh trong việc tôn kính Thánh Giuse, thì Thánh Giuse cũng là người đầu tiên cảm tạ Thiên Chúa, vì Chúa đã ban cho thế gian một quà tặng lớn lao, đó là vẻ đẹp tinh thần của Đức Maria. Thánh Giuse cảm thấy tâm tình tôn kính đối với Đức Mẹ, đó là khởi đầu cho việc tôn kính mà sau này Hội Thánh dành cho Mẹ.

Sự lựa chọn và cuộc đính hôn của Thánh Giuse là ánh sáng hướng dẫn các cuộc đính hôn Kitô giáo. Bởi lẽ việc chọn một người bạn đời là việc vừa tế nhị vừa quan trọng. Do đó, họ cần noi gương Thánh Giuse để chọn lựa theo ý Chúa. Để cho sự lựa chọn của con người có thể trùng hợp với ý Chúa, Thánh Giuse dậy ta biết phải lưu tâm trước tiên đến các đức tính tinh thần hơn là vẻ đẹp thể lý bề ngoài, kiếm tìm vẻ đẹp tinh thần và sự duyên dáng kín ẩn nhưng chắc chắn, xuất phát từ việc có ơn Thánh Chúa. Ngài còn khuyến khích tìm gặp sự hoàn thiện đưa ta đến gần Thiên Chúa. Nhờ đó, đôi bạn có thể cư xử tế nhị, và phát triển một tình yêu trong sạch, giúp cho tình yêu không ngừng đi lên trong những tâm tình cao đẹp, nhìn nhận tình yêu như lời mời gọi nên thánh.

Trong cuộc đính hôn, Thánh Giuse còn là gương mẫu cho những ai thề hứa sống khiết tịnh: người sống Trinh khiết sẽ được sống thân mật hơn với Đức Maria. Thánh Giuse giúp họ thấu hiểu đặc ân của sự thân mật ấy, có Đức Maria gợi lên tất cả vẻ thi vị của tình yêu, với mục đích duy nhất là để nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Nhờ chính kinh nghiệm của mình, Thánh Giuse giúp họ hưởng nếm vẻ đẹp tinh thần của Đức Trinh Nữ Maria, và thôi thúc họ thêm lòng ước ao muốn sống trong sạch tuyệt đối, để thông hiệp với lý tưởng của Đức Maria.


Bài 4 : NHÂN CHỨNG CỦA MẦU NHIỆM

Ngay từ khi gặp gỡ Đức Maria, Thánh Giuse đã cảm thấy rằng : mầu nhiệm đồng trinh vượt quá tầm hiểu biết của mình. Nhất là vào giữa thời kỳ đính hôn, Ngài buộc phải thấy một sự kiện lạ lùng, đó là Đức Maria đang mang thai. Thánh Giuse không tìm ra nguyên cớ, còn Đức Maria thì vẫn giữ thinh lặng. Trong sự thinh lặng của Đức Maria, Thánh Giuse bắt đầu nhận thấy có một mầu nhiệm mới.

Thánh Giuse biết Đức Maria là người nhân đức, không thể thay đổi hay lừa dối. Ngài đoán rằng Đức Maria có một lý do cao cả buộc Mẹ phải im lặng. Mẹ đã được Thiên Thần nói cho biết việc Chúa làm nơi Mẹ, còn Thánh Giuse thì chưa hay biết gì. Tình cảnh này thật khó chịu cho Ngài, vì Ngài phải đứng trước một mầu nhiệm liên quan đến chính mình, mà lại không được giải thích gì cả… Giữa lúc Đức Maria đã dấn mình hoàn toàn vào mầu nhiệm nhập thể rồi, thì Thánh Giuse vẫn còn ở trong tăm tối, nơi ngưỡng cửa của mầu nhiệm. Vì Chúa muốn vai trò của Thánh Giuse là làm một nhân chứng. Trong vai trò này, Ngài là người duy nhất, không ai thay thế được. Chỉ một mình Ngài suy đoán về mầu nhiệm liên quan đến Con Trẻ, mà hôn thê của Ngài đang cưu mang. Vì những người khác đã đương nhiên coi Ngài là cha của con trẻ đó. Chỉ một mình Ngài biết rõ sự trinh khiết của Maria, và tin chắc trong thâm tâm là Maria không hề muốn tỏ sự trinh khiết này một tý nào cả. Thái độ tin chắc này tỏ rõ trong quyết định Ngài dự tính thực hiện.

Tin mừng Thánh Mát thêu viết : “Vì là người công chính và không muốn tố giác bà, nên Giuse quyết tâm âm thầm ly dị”. Thánh Giuse muốn bảo toàn thanh danh cho Đức Maria. Đằng khác, nếu Đức Maria đã giữ bí mật theo ý Chúa, thì Ngài cũng phải tôn trọng sự thinh lặng này, bằng cách sống xa người mẹ và con trẻ. Quyết định này chứng tỏ thái độ tôn trọng mầu nhiệm.

Là nhân chứng của mầu nhiệm, Thánh Giuse phải chịu đau khổ. Chính Thiên Chúa đã kéo dài cuộc thử thách, là vì trong chương trình của Chúa, việc làm chứng phải kèm theo hy sinh, như sau này các chứng nhân của Chúa Kitô đều phải trải qua đau khổ. Cũng vậy, để làm chứng nhân cho mầu nhiệm Đức Maria thụ thai trinh khiết Đức Kitô, Thánh Giuse cũng phải trải qua thử thách tương tự.

Chính sự dằn vặt nội tâm này mang lại giá trị cho việc làm chứng của Thánh Giuse. Bởi lẽ Ngài đã chịu đau khổ vì mầu nhiệm ấy. Nhưng nhờ đó mà niềm vui của Ngài càng lớn lao khi nhận được lời giải thích của Thiên Thần. Niềm vui ấy là phần thưởng cho sự hy sinh, và mãi mãi nó soi sáng mầu nhiệm mà Thánh Giuse là nhân chứng đặc tuyển.


Bài 5 : TRUYỀN TIN CHO GIUSE

Việc truyền tin cho Giuse là lần truyền tin thứ ba trong Tân Ước. Nó chứng tỏ tầm quan trọng của vai trò được trao cho Thánh Giuse.

Lời đầu tiên của Thiên Thần là : “Đừng sợ”, cũng giống như lời đã nói với Đức Maria. Lời ấy đã đem lại bình an, xua tan mọi lo âu. Trong tâm hồn Thánh Giuse, sự rối loạn nhiều hơn so với Đức Maria, bởi không hay biết gì về hài nhi trong khoảng thời gian khá lâu. Chẳng những Thiên Thần đã dẹp yên sự rối loạn này, mà còn xin Thánh Giuse hãy mạnh dạn nhận vai trò làm cha Đấng Cứu Thế, vai trò của chính Thiên Chúa. Tiếng “Đừng sợ” mang tất cả giá trị trong chiều hướng này, đó là đòi hỏi Thánh giuse hãy bạo dạn nhận lấy tư cách làm cha, là đặc quyền lẽ ra chỉ dành cho Thiên Chúa.

Sự bạo dạn này càng rõ nét hơn khi Thiên Thần nói đến sứ mạng cứu thế của Con Trẻ, và Thánh Giuse là người đặt tên cho con trẻ ấy. Đặt tên là việc thuộc về người cha. Khi đặt tên cho con trẻ, Thánh Giuse cảm thấy có bổn phận hiến con trẻ cho sứ mạng cứu thế. Do việc ấy, Thánh giuse không còn là nhân chứng bàng quang của mầu nhiệm cứu độ. Ngài đã được mời gọi cộng tác vào mầu nhiệm này với danh nghĩa là cha Đấng Cứu Thế. Cuộc sống của Ngài mang một chiều kích mới, thực sự lớn lao.

Việc cộng tác của Thánh Giuse đã làm cho lời Kinh Thánh nên ứng nghiệm, Đó là Đấng Cứu Thế xuất thân từ dòng dõi Đavít. Có thể nói là Thánh Giuse đã đưa Chúa Giêsu vào dòng tộc Đavit.

Lời Thiên Thần truyền tin đem lại hoan hỷ, phấn chấn trong lòng Thánh Giuse. Vì chẳng những Thánh Giuse được giải thoát khỏi những lo âu và đau khổ trước kia, mà còn thấy được sự đổi thay và phần rỗi của thế giới. Đó là niềm vui của thời cứu độ. Đó chính là niềm vui của toàn thế giới đang dấu ẩn nơi Ngài.

Thánh Giuse còn vui mừng vì mối liên hệ với Đức Maria được củng cố. Trước kia Ngài tưởng con trẻ sẽ chia tách Ngài với Đức Maria. Sau cuộc truyền tin, Ngài nhận ra chính con trẻ lại thắt chặt một dây liên kết vững chắc hơn. Sau khi có vẻ như chia tách, thì giờ đây Chúa Giêsu lại tái tạo sự thân tình giữa các Ngài. Sau cuộc truyền tin, Thánh Giuse quý trọng và thán phục Đức Maria hơn trước. Đối với Thánh Giuse, giờ đây Đức Maria đầy vẻ thánh thiện, bởi lẽ Mẹ là người nữ duy nhất được làm mẹ nhờ bởi Chúa Thánh Thần.


Bài 6 : CUỘC KẾT HÔN

Tin mừng Thánh Matthêu kể lại rằng: Thánh Giuse đã rước Đức Maria về nhà như Thiên Thần đã truyền cho Ngài. Tuy không có chi tiết nào kể về cuộc hôn lễ này, nhưng ta có thể thấy đây là một đám cưới rất giản dị, bởi vì gia đình đôi bên đều không giầu có gì.

Đám cưới của Thánh Giuse có lẽ cũng giống như đám cưới ở Cana. Giống về hình thức tổ chức, hơn nữa còn giống ở sự kiện Chúa Giêsu đã cứu vãn cho cuộc hôn nhân khỏi bị đổ vỡ. Đám cưới Cana thiếu rượu tượng trưng cho cuộc hôn nhân sớm cạn kiệt tình yêu. Đức Giêsu đã cứu vãn bằng cách ban cho một thứ rượu hảo hạng, rượu đó tượng trưng cho chính tình yêu của Chúa, sẽ bảo đảm cho các cuộc hôn nhân được bền vững lâu dài. Chính sự hiện diện của Chúa Giêsu cũng đã cứu vãn cho cuộc hôn nhân của Thánh Giuse có nguy cơ bị hủy bỏ.

Như thế, cuộc hôn nhân của Thánh Giuse cũng như đám cưới Cana đều cho thấy một điều căn bản : tình yêu và sự hiện diện của Đức Kitô nâng đỡ, làm sống động tình yêu của đôi vợ chồng, đưa tình yêu ấy vào sự bền đỗ cho đến chết. Tìm hiểu về cuộc hôn nhân của Thánh Giuse, ta thấy nguồn suối siêu nhiên nuôi dưỡng các cuộc hôn nhân, đó chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa nhập thể. Việc nhập thể tạo nên sức chống đỡ cho mọi cuộc hôn nhân. Rõ ràng cuộc hôn nhân của Thánh Giuse là do đòi hỏi của việc nhập thể, và được thực hiện trong sự hiện diện của Đức Kitô. Cuộc hôn nhân này còn xuất phát từ một đau khổ có tính cách cứu độ, do sự hiện diện của Chúa Cứu Thế, mà tình yêu của Giuse và Maria phải được củng cố trong nỗi đau đớn chung. Các cuộc hôn nhân Kitô giáo cũng tiếp tục kéo dài và diễn tả việc nhập thể cứu độ.

Giá trị hiện tại của cuộc hôn nhân của Thánh Giuse còn tỏ rõ bằng việc đề cao đứa con. Quả thực, cuộc hôn nhân này được biện minh bởi sự có mặt của trẻ Giêsu. Con trẻ cần có một người cha và một mái ấm gia đình. Hôn nhân sẽ đi sai mục đích nếu đôi vợ chồng ích kỷ, tìm hưởng thụ cho mình, không hướng đến con cái. Cần phải nhớ rằng, tiên vàn hôn nhân đã được thiết lập vì đứa con.

Trong sự thân tình với người bạn đời, Thiên Chúa hướng mối tình của Thánh Giuse đến một mục tiêu thiết yếu hơn, đó là đứa con. Chính vì đứa con mà Thánh Giuse đi vào hôn nhân. Ngài hiện diện ở đó để giúp những kẻ kết hôn cũng có cùng một thái độ tâm hồn như Ngài, và biết nhìn nhận đứa con như một mục đích và sự hoàn thành của cuộc kết hợp của họ.


Bài 7 : NGƯỜI BẠN ĐỜI CỦA ĐỨC TRINH NỮ

Qua việc rước Đức Maria về nhà mình, Thánh Giuse đã đưa Đức Maria vào sự thân mật của đời Ngài. Nhưng bảo rằng chính Ngài đi vào sự thân mật với Đức Maria thì còn đúng hơn. Theo nghĩa này, thì về mặt tinh thần chính là Maria đã rước Giuse về nhà mình.

Sự thân mật giữa Thánh Giuse và Đức Maria dựa trên nền tảng là ân sủng Thiên Chúa. Sự duyên dáng của Đức Maria toát ra từ tâm hồn đầy ơn phúc. Ơn Thánh Chúa thấm vào mọi lời nói, cử chỉ, làm rạng rỡ nét mặt, làm xuất hiện sự tốt lành dịu dàng. Mỗi ngày Thánh Giuse càng bị lôi quấn sâu xa hơn là cuộc gặp gỡ ban đầu, và cũng là chính Thiên Chúa ngang qua Đức Maria đang lôi quấn Ngài hơn. Sự hấp dẫn thiêng liêng do cuộc chung sống bên Đức Maria là một nâng đỡ lớn lao cho Thánh Giuse.

Đối lại, Thánh Giuse cũng nâng đỡ Đức Maria rất nhiều. Những đức tính của Thánh Giuse như can đảm, trung tín, trầm tĩnh, chắc chắn, trung thực, tận tâm, kiên nhẫn…đã trợ giúp nhiều cho Đức Maria. Những đức tính tốt đó đã góp phần củng cố đời sống chung. Cả hai người đều không phải thất vọng về người bạn đời của mình. Thánh Giuse đã chu toàn mọi bổn phận đã cam kết. Ngài thực sự là người bạn đời gương mẫu.

Thánh Giuse còn là người bạn đời gương mẫu vì Ngài hoàn toàn hiệp thông với Đức Maria trong lý tưởng sống trinh khiết, và trong sứ mạng cộng tác vào công cuộc cứu độ mà Chúa trao phó. Tình thương đối với gia đình trở thành tình thương đối với cả nhân loại, bởi lẽ gia đình này hiện hữu là để đem lại cho nhân loại một vị cứu tinh. Sự thân mật trong gia đình không khép kín nơi hai người, nhưng luôn quy hướng về vị cứu tinh, và qua đó thông hiệp với tất cả cộng đồng nhân loại. Sự thân mật giữa hai người không ngừng mở rộng.

Thánh Giuse đã rước Đức Maria về nhà mình. Theo lời trối của Chúa Giêsu, Thánh Gioan cũng đã lãnh lấy Đức Mẹ về nhà mình. Đến lượt các Kitô hữu cũng đón Mẹ vào tình mến của mình, sống sát cánh bên Mẹ với tình con thảo. Sự thân tình nơi Thánh gia Nagiaret là khởi điểm và là mẫu mực cho sự thân tình giữa các tín hữu với Đức Trinh Nữ.

Thánh Giuse giúp chúng ta biết đón nhận Đức Maria về nhà mình, sống thân mật với Mẹ qua các việc tôn kính, chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy ân sủng nơi Mẹ. Nhất là cùng hiệp thông với lý tưởng của Mẹ, đó là cộng tác với Mẹ trong công cuộc đem Chúa Giêsu đến cho nhân loại. Nhờ đó chúng ta sống gắn bó với Chúa Giêsu và ơn cứu độ của Chúa hơn.


Bài 8 : ĐẤNG CỨU TINH CHÀO ĐỜI

Lệnh kiểm tra dân số buộc Thánh Giuse phải lên đường trở về Belem. Thánh Giuse đã chịu nhiều lo lắng, vất vả trong biến cố này. Vì lẽ Đức Mẹ sắp đến lúc sinh nở, đường xa trắc trở. Rồi thêm vào đó, Tin Mừng đã thuật lại rằng: Không có chỗ cho ông bà trong quán trọ. Thật là tủi cực cho Thánh Giuse.

Qua những bước chân tất tưởi thất bại của mình, Thánh Giuseđã phác họa trước thựctrạng của công cuộc cứu thế. Sự xấu hổ vì không tìm được một chỗ trọ của Giuse khai mào cho sự nhục nhã quyết liệt hơn, mà Đấng Cứu Thế phải chịu khi “đến nơi nhà của Người, mà người nhà không tiếp nhận Người”. Đức Kitô bị xua đuổi bởi những kẻ chính ra phải hân hoan đón nhận Người. Theo chương trình Thiên Chúa, thì sự thất bại và bạc đãi này phải có trong những hoàn cảnh của cuộc giáng sinh. Thánh Giuse phải cộng tác vào việc làm cho cuộc giáng sinh trở thành hình ảnh tiên báo cho cuộc hy tế cứu độ. Thánh Giuse không được đón nhận cũng chính là Đức Giêsu bị từ chối. Sự lớn lao của Thánh Giuse ở Belem là đã nhân danh Đức Kitô đi vào con đường khổ nhục có tính cứu độ.

Đàng khác, đau khổ này chính là cái giá do phận vụ và tư cách làm cha đòi buộc. Nhưng niềm vui khi thấy con trẻ ra đời sẽ xóa tan mọi khổ sầu. Đây còn là niềm vui được thấy Đấng Thiên sai, vị Cứu Tinh nhân loại. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu với cái nhìn vui sướng, Thánh Giuse đại diện cho cả nhân loại đang trông chờ ơn cứu độ.

Việc các mục đồng xuất hiện củng cố thêm niềm vui này. Các mục đồng đã nhận ra Đấng Cứu Tinh mới sinh nằm trong máng ăn của súc vật. Đó là dấu chỉ Thiên Thần đã báo cho họ.

Kế hoạch của Thiên chúa thật lạ lùng, thật khôn ngoan trong các nỗi khổ cực của Thánh Giuse. Tất cả đều quy hướng về Đức Kitô nghèo khó nằm trong máng cỏ thấp hèn. Niềm vui ngày Giáng Sinh trước hết là niềm vui dành cho người nghèo. Chính vì thế, niềm vui của Thánh Giuse mới tràn đầy. Cần phải giũ bỏ mọi thứ khác để chiếm được Đức Kitô. Đó là điều Thánh Giuse đã thực hiện. Sự trơ trụi nghèo nàn lại trở thành sự giầu sang tuyệt đỉnh về ơn cứu độ.


Bài 9 : THÁNH GIUSE LÀ CHA ĐỨC GIÊSU

Tuy không sinh ra Đức Giêsu về phần xác, nhưng Thánh Giuse vẫn có một tư cách làm cha thực sự. Đức Giêsu cũng đã coi Thánh Giuse là cha mình và đã cư xử như một người con đối với Ngài. Tin Mừng cũng kể lại sự vâng phục của Đức Giêsu đối với Thánh Giuse ở Nagiaret.

Những người ở thành Nagiaret không nghi ngờ gì về tư cách làm cha đó. Họ vẫn gọi Đức Giêsu là con Ông Giuse. Khi tìm được Đức Kitô trong Đền Thờ, sau khi lạc mất, Đức Maria đã nói với trẻ Giêsu rằng : “Cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con”.Đây là bằng chứng cho thấy rằng : trong cuộc sống thân mật tại gia đình Nagiaret, Thánh Giuse bao giờ cũng luôn được nhìn nhận là người cha thực sự của trẻ Giêsu.

Thánh Giuse thực sự ở trong cương vị người cha, Ngài là bạn đời của Đức Maria, là gia trưởng của một gia đình, gia đình này đã được thiết lập do một cuộc hôn nhân đích thực, và Đức Giêsu được sinh ra trong cuộc hôn nhân này. Vì thế, Thánh Giuse hành xử quyền của một người cha, và nhận từ đứa con một tình yêu hiếu nghĩa, tùng phục và phó thác.

Trước khi xuống thế làm người, Đức Giêsu vẫn là con từ đời đời của Chúa Cha, Đấng là Cha từ đời đời, là cha hoàn hảo. Do việc nhập thể, Chúa Cha đã muốn Chúa Con có một người cha nhân loại, và sống theo sự dìu dắt của người cha đó. Vì thế, tư cách làm cha của Thánh Giuse là điều huyền diệu trong mầu nhiệm nhập thể. Người thợ mộc thành Nagiaret chỉ có thể trở thành cha của Đức Giêsu khi chính mình trở nênhình ảnh của Cha trên trời. Trước mắt con trẻ, Ngài phải biểu thị cho Vị Cha Thiên Quốc. Do đó, Ngài cũng được chuẩn bị cho sứ mạng làm cha cao cả ấy, do bởi tác động từ Chúa Thánh Thần. Tâm hồn Ngài được nắn đúc giống với Cha Trên Trời, tràn đầy sự nhân hậu họa theo lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa Cha.

Chức vị của Chúa Giêsu nâng cao địa vị làm cha của Thánh Giuse. Việc làm cha này còn vô cùng lớn lao, vì nơi người cha nhân loại này phản ảnh việc Thiên Chúa làm cha.

Khuôn mặt Thánh Giuse là hình ảnh đẹp nhất của khuôn mặt Cha Trên Trời, và Đức Giêsu không ngừng nhìn ngắm với tình mến con thảo, một tình mến quy về Thánh Giuse và đồng thời hướng về Cha Vĩnh Cửu trên trời. Đó là cả một mầu nhiệm trọng đại. Một người cha khiêm nhu và ẩn dật, lại đã tỏ bày và kéo dài tư cách làm Cha cao cả nhất của Thiên Chúa Cha.


Bài 10 : THÁNH GIUSE GẶP GỠ VỊ TIÊN TRI

Khi cùng với Đức Maria lên Đền Thờ để tiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, Thánh Giuse đã gặp tiên tri Simêon.

Ông già Simêon tượng trưng cho lòng nhiệt thành đợi chờ Đấng Cứu Thế trong Cựu ước. Tin Mừng Thánh Luca viết về ông : “Đó là một người công chính và mộ đạo, ngóng đợi niềm an ủi của Israel”, ngóng đợi hạnh phúc Đấng Cứu Thế mang đến. “Ông đã được Thánh Thần báo là không phải chết, trước khi thấy Đấng Kitô”. Thánh Thần soi sángcho ông Simêon, cũng như Thánh Thần đã tác động trên Đức Maria và Thánh Giuse. Thánh Thần quy tụ mọi người vào trong công trình cứu độ.

Ông Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay và chúc tụng Thiên Chúa. Khi chứng kiến niềm hạnh phúc trào dâng của ông Simêon, Thánh Giuse cũng ý thức về niềm vui của mình. Vì ông Simêon chỉ bồng ẵm Đức Giêsu một lần, còn Ngài biết mình sẽ được hưởng hạnh phúc ấy nhiều hơn. Đối với Ngài thì không chỉ là một lần gặp gỡ mà thôi, nhưng là sự thân mật thường xuyên mọi ngày.

Thánh Giuse lấy làm sung sướng khi ông già Simêon nói tiên tri về Đức Giêsu, sẽ là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel, là ơn cứu độ cho muôn người. Nhưng lời tiên tri không dừng ở đó, ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà và còn nói với Mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà…”. Tuy không trực tiếp nói đến Thánh Giuse, nhưng chắc chắn những lời này đánh động Ngài mạnh mẽ. Ngài đứng lặng người, vì nỗi đau khổ của Đức Maria và Hài nhi gánh chịu, cũng xé nát tâm hồn Ngài.

Kể từ đó, Thánh Giuse nhìn Đức Maria và Hài Nhi bằng một cái nhìn mới. Cùng với họ, Ngài chia sẻ nỗi khổ đau sắp đến. Lời tiên báo của ông Simêon đặt cuộc sống của Thánh Giuse vào chiều kích sâu xa nhất, đó là chiều kích của hy tế cứu độ, của con đường Thập Giá.


Bài 11 : LẦN DÂNG LỄ ĐẦU TIÊN

Thánh Giuse và Đức Maria dâng con đầu lòng theo đúng luật dậy.Nhưng việc dâng tiến này khác với việc dâng con của các cha mẹ khác. Vì khi dâng trẻ Giêsu, các Ngài biết rằng mình dâng con vì một hy sinh mầu nhiệm, vì số phận đớn đau mà ông Simêon vừa báo cho họ. Chính Thánh Thần đã soi sáng việc dâng hiến, và biến đổi nó cách rõ ràng hơn thành của lễ hy sinh. Các Ngài hiểu rằng, việc chuộc lại Con Trẻ được thực hiện bằng giá của cuộc khổ nạn sẽ đến.

Bởi đó, việc dâng hiến này là lần dâng hiến đầu tiên của hy tế Calvariô, hơn 30 năm trước lúc hy tế này được thực hiện. Thánh Giuse cùng với Đức Maria, có đặc ân thực thi hành vi này. Dĩ nhiên là lúc ấy các Ngài chưa biết rõ bản chất của hy tế đó, cũng như chưa biết đó là cái chết Thập giá. Nhưng lời tiên báo về mũi gươm cũng đủ cho thấy nỗi khổ đau sâu xa mà Đức Maria sẽ phải chịu, và trong hy tế đó Đức Giêsu sẽ trải qua cực hình khủng khiếp. Vì vậy chủ tâm của Thánh Giuse khi dâng con trẻ là hướng về viễn tượng ghê rợn đó.

Việc dâng lễ này cho thấy sự lớn lao của Thánh Giuse. Ngài là gương mẫu đầu tiên của nhân loại kết hiệp với hy tế của Đức Kitô. Ngài sẵn lòng chấp nhận con đường đau khổ do Thiên Chúavạch ra, để công cuộc cứu độ được hoàn thành. Việc hiến dâng của Ngài không u buồn, nhưng đầy tin tưởng hướng về ơn cứu độ sẽ tỏ hiện. Lần dâng lễ đầu tiên này là một hành vi quảng đại, được thực hiện trong niềm vui siêu nhiên, niềm vui tự biết mình vượt thắng mọi đau khổ.

Lời tiên tri của ông Simêon cho thấy Thánh Giuse không trực tiếp tham dự vào hy tế ở Núi Sọ. Vai trò của Ngài giới hạn trong việc chuẩn bị cho Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu thế. Khi việc của mình hoàn tất, Ngài ra đi, để Đức Maria tiếp tục hành trình tới chân Thập Giá.

Vì thế, lúc dâng Hài Nhi, Thánh Giuse đã không dâng đau khổ của riêng Ngài. Đức Maria vừa dâng con vừa dâng bản thân mình cho mũi gươm đau đớn. Còn Thánh Giuse thì dâng convà dâng cả sự đau đớn của Đức Maria nữa. Ngài quên mình, tự làm mình lu mờ đi trong hiến tế. Đó là cách thức riêng tư của Ngài lúc dâng lễ.


Bài 12 : KẺ TIN TRONG TĂM TỐI

Sau khi hoàn tất việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ, Thánh Giuse đưa gia đình về cư ngụ tại Nagiaret. Lẽ ra Đấng Cứu Thế, là con vua Đavit, phải sống ở kinh đô Giêrusalem, chứ không phải ở một nơi tầm thường như Nagiaret. Nhưng Thánh Giuse đã bước vào bóng tối cùng với Đấng mà Ngài biết là Ánh Sáng đến soi chiếu muôn dân.

Tại Nagiaret, Đức Giêsu lớn lên bình thường như bao người khác, không có nét gì đặc biệt cả. Sự khôn ngoan trổi vượt, sự thánh thiện hoàn toàn, cũng như ý muốn cứu thế chẳng hề tỏ lộ ra cho ai thân quen. Không lôi kéo sự chú ý của hàng xóm. Người đồng hương cũng như người nhà khi nghe Đức Giêsu giảng, họ cũng chẳng tin vào Người. Trong nếp sống thân cận bên cạnh trẻ Giêsu, lòng tin của Thánh Giuse cũng bị thử thách, Ngài đã phải cố gắng để tiếp tục tin. Trong căn nhà Nagiaret, niềm tin này trải qua nhiều tăm tối, liều lĩnh vượt qua những thực tại quen thuộc, vượt qua điều mà Ngài trông thấy trong cảnh sống thân mật mọi ngày.

Từ lúc được Thiên Thần báo cho biết về số phận Con Trẻ, Ngài đã hết lòng tin tưởng. Trải qua mọi hoàn cảnh, niềm tin đó không ngừng được củng cố và phát triển. Trong cảnh tăm tối ở Nagiaret, niềm tin say nồng đó đã lớn dần, cùng với Đức Giêsu đang lớn lên dần.

Cuộc sống ẩn dật càng kéo dài, thử thách càng lớn. Thánh Giuse đặt niềm tin vào lời Thiên Thần đã nói về Đức Kitô là Đấng Cứu Thế. Nhưng rồi theo năm tháng trôi qua, Ngài đã ngày càng ngạc nhiên hơn khi chẳng thấy có gì chuẩn bị cho sứ mạng cứu thế đó cả. Đức Giêsu vẫn tiếp tục sống trong bóng tối, tiếp tục làm nghề thợ mộc, xem ra chẳng liên quan gì đến vai trò cứu thế cả. Đức Giêsu không có vẻ gì vẻ vang, hiển hách của một Đấng Thiên Sai như người Do Thái mong đợi cả.

Như thế, trong bóng tối che dấu Đấng Thiên Sai, Thánh Giuse đã tin ngày một mãnh liệt hơn vào ánh sáng sẽ soi chiếu trên thế gian. Chính vì thế, niềm tin của Ngài cũng là một khám phá ngày một sâu xa hơn về bản tính của Đức Giêsu và về sứ mạng cứu thế của Ngài. Đức Giêsu là một Đấng Cứu Thế khiêm tốn, khác với quan niệm của người Do Thái. Ngài cũng khám phá ra Đức Giêsu là con Thiên Chúa, và càng kinh ngạc hơn khi nhận thấy sự lớn lao của Thiên Chúa trong một kiếp người thật tầm thường.

Trong tâm hồn của Thánh Giuse đã bắt đầu hình thành niềm tin của Hội Thánh, Ngài dẫn đưa chúng ta trên con đường Đức Tin, một đức tin mạnh mẽ, táo bạo, tuyệt đối trung thành và tập trung vào con người Đức Kitô.


Bài 13 : ĐAU KHỔ VÌ MẤT CHÚA GIÊSU

Theo Tin Mừng Thánh Luca : Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội lên Đền Gierusalem, mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được 12 tuổi, cả gia đình cùng lên Đền theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Gierusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen…

Ta có thể thấy được hai ông bà đã lo lắng đến mức nào. Thánh Giuse tự cảm thấy mình có trách nhiệm lớn hơn, vì Ngài là chủ gia đình, phải chịu trách nhiệm về Con Trẻ trước mặt Thiên Chúa.

Sự kiện này cũng cho thấy trạng thái tâm hồn đặc biệt lúc bấy giờ của Thánh Giuse. Đó là cảm tưởng đã mất sự hiện diện của Chúa, của những tâm hồn quen sống gần gũi với Người. Biến cố lạc mất Chúa Giêsu nói lên tình trạng vắng bóng ấy sẽ gây đau khổ cho những tâm hồn gắn bó với Người nhất. Như trong trường hợp của Thánh Giuse, sự vắng mặt ấy xẩy ra cách bất ngờ, gây kinh ngạc và lo âu. Ngài áy náy và đau khổ vì nghĩ là mình có trách nhiệm về việc ấy. Trong khi thực ra là chính Thiên Chúa đã muốn biến cố ấy xẩy ra, để hướng linh hồn hiểu hơn về ơn cứu độ, cho linh hồn hiểu về những hy sinh trong cuộc sống thân thiết với Thiên Chúa.

Những kẻ đau khổ nhiều nhất vì sự vắng mặt này, là những kẻ giống như Thánh Giuse, luôn sống vì lòng mến với Đức Kitô. Họ đã được hưởng niềm vui của cuộc sống thân tình đó , nhưng không hiểu vì sao Đức Kitô như biến mất, và họ đau đớn vì sự xa cách này. Cũng như Thánh Giuse bất ngờ lạc mất Chúa Giêsu, Ngài đau khổ vì mất đi điềuquý giá nhất đời mình.

Đức Giêsu soi sáng cho biến cố này khi trả lời cho Đức Maria rằng : Cha mẹ không biết là con phải ở nhà Cha con sao ?. Các Ngài phải mất Đức Giêsu ba ngày để Đức Giêsu có thể ở trong nhà Cha. Thánh Giuse phải chấp nhận lu mờ đi trước một Người Cha Lớn Lao trên trời. Như thế, Thánh Giuse đã phải sống theo giới luật từ bỏ mà Đức Kitô đã thiết lập cho những kẻ sống gắn bó với Người.

Thánh Giuse sẵn sàng chấp nhận sự quên mình này. Ngài còn vui sướng khi thấy Đức Giêsu lớn lên còn Ngài thì nhỏ đi, vì Ngài yêu thương Đức Giêsu trên hết.


Bài 14 : THÁNH GIUSE LÀ NHÀ GIÁO DỤC

Dưới mái nhà Nagiaret, Đức Giêsu sống vâng phục Thánh Giuse và Đức Maria. Thái độ tùng phục đó cho phép thực thi vai trò người cha, và sứ mạng người dậy dỗ và giáo dục con trẻ.

Người dậy dỗ là danh hiệu đem lại vinh dự lớn lao nhất, và cũng nói lên sứ mạng cao cả của Thánh Giuse. Đối với mọi người cha trong gia đình, thật là một vinh dự được làm người dậy dỗ, được trao phó trách nhiệm chuẩn bị cho những đứa con bước vào đời. Qua việc dậy dỗ, họ gây một ảnh hưởng trên con cái mình, góp phần đào tạo một lý trí, một trái tim, một tính khí. Trong trường hợp của Thánh Giuse, con trẻ mà Ngài dậy dỗ là chính con Thiên Chúa. Thật lạ lùng khi ta nghĩ tới việc Con Thiên Chúa lại chịu sự dậy dỗ của loài người. Vì mầu nhiệm nhập thể bao hàm sự thật lạ lùng này là : Ngôi Lời Thiên Chúa đã muốn nhận lấy bản tính nhân loại, và cuộc sống con người trong một điều kiện bình thường. Để nhập thể thật sự, Ngôi Lời đã trở nên con trẻ, cũng lớn lên dần dần, và lãnh nhận sự giáo huấn của Cha mẹ như bao trẻ em khác. Thực sự, Thánh Giuse đã góp phần làm triển nở nhân cách của Đức Giêsu.

Dĩ nhiên là Thánh Giuse không thể thông biết hết mọi kiến thức trên đời. Có lẽ hiểu biết của Ngài cũng giới hạn trong phạm vi kiến thức của người thợ mộc. Nhưng chính nhờ bởi đức tính tâm hồn mà Thánh Giuse ở vị thế người dậy dỗ, và đã chu toàn trách nhiệm của mình. Ta có thể nói, có một cái gì của tâm hồn Ngài đã chuyển sang, và sát nhập vào tâm hồn Đức Giêsu.

Điều Đức Giêsu đã thấy được nơi Thánh Giuse, chính là cách thế của con người cư xử với Thiên Chúa, diễn tả lòng thờ kính, yêu mến, phó thác. Tất cả cuộc sống của Thánh Giusequy hướng về việc phục vụ Thiên Chúa, ý hướng này giúp cho Đức Giêsu biết cách diễn tả lòng vâng phục và yêu mến đối với Chúa Cha, bằng những cách diễn tả của loài người, cách diễn tả của người Do Thái. Thánh Giuse góp phần vào việc đào luyện cho bản tính nhân loại nơi Đức Giêsu vươn lên hướng về Cha Trên Trời.

Là người giáo dục trọn hảo, Thánh Giuse đặt trước mắt chúng ta vẻ đẹp lạ lùng của mọi công tác giáo dục. Tấm gương của Ngài cho thấy rằng : chẳng có vai trò nào lớn lao hơn là dẫn đưa một tâm hồn trẻ thơ hướng lên Thiên Chúa.


Bài 15 : THÁNH GIUSE LÀ MÔN ĐỆ CỦA ĐỨC GIÊSU

Tin Mừng Thánh Luca kể lại rằng : Thánh Giuse và Đức Maria tìm thấy Đức Giêsu trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các tiến sỹ, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Lời nói và thái độ ấy chứng tỏ tư cách của một vị Thầy nơi Đức Giêsu. Nghĩa là tư cách làm thầy đã hé lộ nơi Đức Giêsu ngay từ tuổi thơ trẻ. Bởi đó, tuy là người dậy dỗ nhưng Thánh Giuse cũng là môn đệ đầu tiên của Đưc Giêsu.

Trong bất cứ sự giáo huấn nào cũng luôn có sự trao đổi qua lại. Mặc dù phải học hỏi nơi cha mẹ, nhưng đứa trẻ lại dậy cho Cha mẹ biết một điều gì đó, qua những thắc mắc cũng như cách sống của nó. Trong trường hợp Đức Giêsu còn có cả một cái nhìn siêu nhiên về mọi sự, đã tỏ lộ ra trong các lời nói, hoặc thái độ bình thường của Người. Đạo lý mà Người sẽ giảng dậy trong đời công khai, nay đã thoáng hiện ra trong thời thơ ấu.

Một cách âm thầm, Thánh Giuse đã học hỏi với Đức Giêsu, từ khi là một cậu bé cho đến tuổi trưởng thành. Trước tiên, chính sự hiện diện và cách sống của Đức Giêsu đã là một giáo huấn. Khi ra hoạt động công khai, Đức Giêsu đã bảo những kẻ muốn trở nên môn đệ của Người là : “Hãy đến mà xem”. Người mời gọi họ hãy cảm nghiệm cuộc sống thân mật bên Người, để họ ở với Người. Họ cần sống chung với Người để được thấm nhiễm đạo lý nơi chính con người và cách sống của Người. Thánh Giuse cũng đã học biết sứ điệp của Đức Giêsu qua việc sống gần gũi mọi lúc bên Đức Giêsu.

Tuy Thánh Giuse được đào tạo theo não trạng của thời Cựu Ước, Nhưng Ngài không bảo thủ hẹp hòi như những người biệt phái. Trái lại, Ngài có một tâm hồn mở rộng như mảnh đất tốt, đón nhận những hạt giống của Tân Ước gieo vào, và sinh hoa kết quả gấp trăm lần. Thánh Giuse nhận ra Đức Giêsu chính là VỊ THẦY đến để hoàn tất mọi lề luật và lời hứa trong Cựu Ước.

Chính trong cảnh sống gần gũi bên nhau hàng ngày, những sự phong phú về đạo lý và tình thương trong trái tim của Vị Thầy, đã nhẹ nhàng chuyển sang trái tim của người môn đệ đầu tiên. Thánh Giuse luôn cởi mở hoàn toàn cho ảnh hưởng đó, nên Ngài cũng càng ngày càng biến đổi nhiều hơn, và tâm hồn Ngài được tràn đầy sự hoàn thiện đích thực nhất.


Bài 16 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG

Tin Mừng cho ta biết Thánh Giuse là người làm nghề thợ mộc. Ngài là một người thợ bình thường như bao người lao động chân tay khác.

Khi Đức Giêsu chọn cho mình người cha trần thế là một người thợ mộc, Người muốn cho thấy giá trị của công việc con người thực hiện, dù là những việc đơn giản, bình thường nhất trong đời sống hàng ngày. Nơi Thánh Giuse, mọi việc lao động đều được đề cao, và Ngài cũng nâng cao phẩm giá những ai làm việc vất vả. Hội Thánh đã khẳng định điều đó khi mừng lễ Thánh Giuse Lao Động vào ngày quốc tế lao động, mùng 1 tháng 5.

Công việc của Thánh Giuse được ca ngợi, vì Ngài đã đem hết khả năng để làm những việc bình thường, và những việc tầm thường. Dù những việc ấy không mấy ai biết đến, nhưng nó đã đóng góp phần căn bản cho sự tồn tại, cho sinh hoạt và sự phát triển của nhân loại. Đó chính là đóng góp của đám đông những người lao động trên khắp thế giới. Thánh Giuse là đại diện cho những người vô danh đó.

Trước mặt Thiên chúa, công việc của Thánh Giuse có một giá trị đặc biệt do bởi thái độ tâm hồn khi làm việc. Bởi vì đối với Thiên Chúa, điều đáng kể không phải là kết quả công việc, mà là cách người ta làm việc. Công việc có giá trị là do ý hướng và tâm tình thúc đẩy người ta thực hiện.

Mục tiêu trước tiên mà Thánh Giuse nhắm tới là làm việc để nuôi sống gia đình. Ngài làm việc với tất cả tình thương mến dành cho Đức Giêsu và Mẹ Maria. Ngài là gương mẫu cho những ai đang lao động, đang lấy việc làm của mình như một món quà tình thương, dành cho gia đình của họ.

Ngài cũng làm việc đáp ứng nhu cầu của những người cần đến đôi tay thợ mộc của Ngài. Người lao động là người hữu ích cho xã hội.

Nhưng trên hết, Ngài muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa. Công việc chính là của lễ dâng kính Thiên Chúa. Lao động không còn là một hình phạt do tội lỗi gây ra. Đối với Thánh Giuse, mồ hôi cực nhọc chính là phương thế cứu độ, là hiến lễ, là thập giá góp phần cứu rỗi bản thân và nhân loại.

Thánh Giuse cho ta thấy vẻ lớn lao chứa đựng trong hết mọi nỗi khổ đau do lao động của con người. Những khổ đau góp phần vào ơn cứu độ, góp phần kiến tạo một nhân loại tốt đẹp hơn.


Bài 17 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI CHIÊM NIỆM

Tuy bận bịu với công việc gia đình, nhưng Thánh Giuse cũng là người chuyên lo cầu nguyện. Ngài là một người chiêm niệm thật sự. Ngài là người chiêm niệm do chiều sâu tâm hồn, trong chính công việc, trong gia đình, bên cạnh người thân. Chiêm niệm mà không cần tu viện thanh vắng để cầu nguyện liên lỉ. Ởmọi nơi, Ngài đều có thể tìm kiếm Thiên Chúa và chiêm ngắm Người.

Khi làm việc, Thánh Giuse hướng lòng trí về Chúa, dâng lên điều đang làm để diễn tả lòng yêu mến. Đơn giản hơn, Ngài ý thức rằng mình đang làm việc trước mặt Chúa, đang hiện diện trước Người. Phó thác bình thản cho sự hiện diện đó, âm thầm đi vào tương giao thâm tình với Chúa.

Ở đây, chúng ta nên hiểu chiêm niệm theo nghĩa rộng nhất : đó là kết hợp với Thiên Chúa bằng tất cả con người mình, bằng trí khôn, ý muốn, trái tim, khả năng suy tưởng và yêu mến. Sự chiêm niệm của Thánh Giuse không có tính cách trí tuệ, cho bằng có tính cách tình cảm, một sự gắn bó với Thiên Chúa trong tất cả cuộc sống. Thái độ chiêm niệm này không làm Ngài sao lãng công việc thường ngày, trái lại còn giúp cho Ngài chu toàn mọi sự với một ý tưởng đạo đức, siêu nhiên hơn. Nhờ đó công việc của Ngài càng thêm giá trị.

Thửa ban đầu khi chưa sa ngã, ông bà Nguyên Tổ cũng đã được hưởng cuộc sống thân mật với Chúa. Sự chiêm niệm của Thánh Giuse mới mẻ hơn và cụ thể hơn. Vì sự hiện diện của Thiên Chúa tỏ hiện ra cho Thánh Giuse trực tiếp và hữu hình nơi Đức Kitô. Sự chiêm niệm của Thánh Giuse triển nở khi khám phá ra Thiên Chúa nơi gương mặt nhân loại của con trẻ Giêsu, đạt tới chóp đỉnh của cái nhìn chiêm niệm, và của việc kết hợp thần bí, khi hòa nhập tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với Đức Giêsu. Ngài cảm nghiệm được chân lý mà chính Đức Giêsu nói sau này là : “ ai thấy Ta là thấy Cha, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta”. Thánh Giuse đã tìm gặp được Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.

Thánh Giuse mời gọi chúng ta, đừng bao giờ xa rời khỏi Đức Giêsu, luôn đi tìm khuôn mặt của Chúa Cha nơi khuôn mặt nhân loại của Đức Giêsu.


Bài 18 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI CÔNG CHÍNH

Tin Mừng Thánh Matthêu gọi Thánh Giuse là Người Công Chính, nhân dịp nhắc đến việc Ngài đã thấy Đức Maria có thai mà không muốn tố cáo, và định tâm bỏ đi cách kín đáo.

Theo Cựu Ước, người công chính là người làm hài lòng Thiên Chúa bằng việc theo Thánh ý Người, tức là qua việc giữ lề luật. Trong trường hợp của Thánh Giuse, lề luật cho phép Ngài tố cáo vị hôn thê của mình. Nhưng Ngài không tố cáo và cũng không rước Đức Maria về nhà mình, vì Ngài tôn trọng quyền lợi và thanh danh kẻ khác. Như thế, sự công chính của Thánh Giuse không chỉ là giữ luật mà còn vượt xa hơn nữa. Ở điểm này, sự công chính của Thánh Giuse vượt xa quan niệm về công chính của người biệt phái, họ giữ luật chỉ vì luật, giữ luật theo hình thức bên ngoài, nhiều khi dẫn tới lối sống giả hình mà Đức Giêsu nặng lời tố cáo. Đức Giêsu kêu gọi thực hành sự công chính không theo số lượng những điều luật đã giữ, nhưng là cố gắng sống phù hợp với tinh thần của luật, tức là thi hành lòng mến với Thiên Chúa và đồng loại. Đó chính là sự công chính mà Thánh Giuse đã thực hành, là con đường nên trọn lành mà Ngài đã theo.

Sự công chính của Thánh Giuse còn thể hiện qua sự trung thực của Ngài. Đó là sự thật thà tuyệt đối : không lừa dối ai, cả Thiên Chúa, cả người khác, và cả chính mình nữa. Mình như thế nào thì tỏ ra như vậy, không làm khác đi để được người khác nể trọng, tìm danh tiếng không đúng với thực chất của mình. Ngài ý thức về giá trị đích thực của mình là theo sự đánh giá của Thiên Chúa mà thôi.

Thánh Giuse công chính vì đã thể hiện sự ngay thẳng từ trong tâm hồn, phù hợp với sự ngay thẳng trong cách sống bên ngoài. Trong cõi thâm sâu nhất của con người, Ngài đã chứng tỏ sự đạo đức và thánh thiện như Ngài đã tỏ ra bên ngoài . nơi Ngài không có lệch lạc hay quanh co gì cả. Tâm hồn Ngài hoàn toàn trong sáng và thành thật.

Thánh Giuse công chính xuất hiện trước mặt chúng ta, như một lời mời gọi sống theo sự thành thật hoàn toàn, mà Đức Kitô mong muốn được thấy nơi các môn đệ. Nhờ sự thành thật này, Thánh Giuse đã là nhân chứng về chiến thắng của ánh sáng trên tối tăm. Ngài dẫn chúng ta đi trên con đường ánh sáng, khử trừ mọi giả dối, đặt mình dưới cái nhìn của Thiên Chúa, hòa hợp với cái nhìn tuyệt vời, thẳng thắn của Đức Kitô.


Bài 19 : THÁNH GIUSE LÀ GIA TRƯỞNG

Thiên Thần đã truyền cho Thánh Giuse rước Đức Maria về nhà mình. Do lệnh truyền này,Thiên Chúa đã cho Thánh Giuse có quyền hành trong gia đình Ngài.

Thánh Giuse có quyền gia trưởng thật sự. Cho dù Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc, cao cả hơn mọi tạo vật. Nhất là giữa Đức Giêsu và Thánh Giuse có một khoảng cách lớn lao giữa Thiên Chúa và loài người. Nhưng Đức Giêsu đã thực hiện trọn vẹn mầu nhiệm nhập thể, nên cũng thực sự tùng phục Thánh Giuse. Ngài nắm giữ một quyền hành đích thực, và cả hai con người lớn lao hơn Ngài cũng đáp lại bằng sự tùng phục thực sự.

Quyền gia trưởng này, Thánh Giuse luôn luôn ý thức mình đã nhận được từ Thiên Chúa, chứ không phải do công lao hay tài năng gì của mình.Ngài luôn nhìn quyền hành mình đang có là ơn huệ. Vì thế, khi xử sự với tư cách là gia trưởng, Ngài tỏ ra khiêm tốn, tế nhị và nhân hậu, không dùng quyền để áp đặt cách thô bạo. Thánh Giuse hằng tôn trọng nhân vị của Đức Maria và Đức Giêsu. Các quyết định đều xuất phát từ sự nhất trí của cả gia đình, giữ cho gia đình luôn hòa hợp và đoàn kết trong yêu thương.

Thánh Giuse hằng mong muốn quyền gia trưởngđược thể hiện như biểu hiện của tình thương liên kết cả gia đình lại. Ngài chỉ lối cho các gia trưởng biết cố gắng xử dụng uy quyền một cách tế nhị, hòa hợp ý muốn của các thành phần trong gia đình.

Con người dễ có khuynh hướng lợi dụng quyền bính, cư xử hách dịch, độc tài, bạo ngược, muốn thống trị người khác. Vì vậy, người gia trưởng cần tỉnh táo để luôn luôn cư xử với tình thương yêu, luôn nhớ mình là đại diện của Thiên Chúa. Thánh Giuse đã luôn nhớ mình là đại diện của Thiên Chúa yêu thương, Đấng đã cư xử với Dân Chúa như mục tử nhân hậu, chứ không phải là ông vua độc tài. Thánh Giuse đã noi theo gương mẫu ấy, Ngài coi quyền hành như đặc ân để thể hiện lòng nhân hậu với mọi người. Quyền gia trưởng chính là quyền được thi thố tình thương trong gia đình.

Do bởi tình thương, Thánh Giuse là gương mẫu cho các gia trưởng. Đồng thời, Ngài cũng giúp tất cả những ai đã lãnh nhận bởi Thiên Chúa một quyền bính, hiểu được ý nghĩa căn bản của ân huệ đó, và mời gọi họ thực thi trách nhiệm với một lòng nhân hậu kiên vững và khiêm nhu.


Bài 20 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI TÔI TỚ

Đức Maria đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Tin Mừng không cho thấy Thánh Giuse tuyên bố mình là tôi tớ của Thiên Chúa như Đức Maria. Nhưng chắc chắn trong tâm trí Ngài cũng có ý tưởng đó. Bởi vì, đón nhận Đức Maria và Đức Giêsu chính là chấp nhận phục vụ các Đấng, trong ý tưởng phục vụ Thiên Chúa, muốn làm tôi tớ của Chúa. Do đó, chính là với cương vị người tôi tớ mà Thánh Giuse xây dựng và điều khiển gia đình của mình.

Tiếng tôi tớ ở đây không gợi lên tinh thần sợ hãi. Vì Kinh Thánh đã dùng tiếng tôi tớ để chỉ về Đấng Cứu Thế được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn. Người tôi tớ cũng đáp lại bằng sự phục vụ trong tình yêu. Thánh Giuse cũng được tình thương Thiên Chúa kén chọn cách đặc biệt để trở nên tôi tớ, nên trong khi phục vụ, Ngài cũng yêu mến Thiên Chúa đến cùng. Được Thiên Chúa kén chọn, nhưng Thánh Giuse luôn tự hạ mình xuống, trở nên bé nhỏ.

Trở nên bé nhỏ chính là bí quyết căn bản của thái độ tôi tớ. Yêu thương thì không có ý thống trị người mình yêu, nhưng là vui sướng được trở nên bé nhỏ cho người yêu lớn lên. Mong muốn hạnh phúc cho người yêu hơn hạnh phúc của chính mình. Quên mình đi để thực hiện ước muốn của người yêu.

Trước mặt Thiên Chúa cao cả, thái độ bé nhỏ đó lại càng đúng đắn hơn nữa. Bởi vì Thiên Chúa hoàn hảo, chẳng cần chúng ta làm gì thêm cho Người cả. Thánh Giuse hiểu được rằng : được làm tôi tớ Thiên Chúa là một đặc ân, một niềm vui, làm cho con người gần gũi Thiên Chúa hơn. Vì vậy, việc phục vụ Thiên Chúa không làm con người ra thấp kém, trái lại nó còn nâng cao phẩm giá loài người lên.

Là tôi tớ Thiên Chúa, Thánh Giuse hoàn toàn dấn thân phục vụ, không có một lý tưởng nào khác là làm đẹp lòng chủ mình. Bởi đó, Ngài không hề ca thán khi cuộc sống gặp gian nan, thử thách. Trái lại, hằng thành thật và vui vẻ đón nhận mọi sự mà Thiên Chúa cho xẩy đến. Lúc nào Ngài cũng đặt mình sẵn sàng trước Thánh ý Thiên Chúa. Sự quảng đại này cũng mở rộng lòng Ngài ra với mọi người. Những người sống chung quanh cũng được hưởng nhờ sự phục vụ mau mắn của Ngài. Thánh Giuse không tách rời mến Chúa ra khỏi yêu người.

Thánh Giuse đã biết hưởng nếm sự dịu dàng của việc phục vụ, và cho người khác được hưởng nếm sự dịu dàng của một tình yêu phục vụ.


Bài 21 : THÁNH GIUSE LÀ CON NGƯỜI THẦM LẶNG

Các sách Tin Mừng không ghi lại một câu nói nào của Thánh Giuse, và cũng viết rất ít về Ngài. Sự kiện này cho thấy nét nổi bật của Thánh Giuse, đó là: Thánh Giuse là con người thầm lặng

Thánh Giuse đã thầm lặng đau khổ khi thấy Đức Maria mang thai, đã thầm lặng tin tưởng nghe lời Thiên Thần giải thích về việc Con Thiên Chúa nhập thể. Cũng trong thầm lặng, Ngài đã chứng kiến biến cố giáng sinh tại Belem. Rồi khi dâng con trong Đền Thờ cũng chẳng thấy Ngài nói gì, khi tìm lại được con cũng vậy. Sự thinh lặng của Ngài không phải là sự thinh lặng trống rỗng, mà là sự thinh lặng tràn đầy ý nghĩa và phong phú. Trong sự thinh lặng ấy chất chứa những lo âu, đau khổ, và cũng có cả niềm vui sướng hân hoan.

Thánh Giuse nhắc nhở rằng người ta chỉ có thể đón nhận Đức Kitô và huyền nhiệm của Người trong thinh lặng. Chính trong thinh lặng, mà Ngài giữ trong lòng và suy niệm những mầu nhiệm, mà Ngài là nhân chứng.

Nhiều người sợ sự thinh lặng, bởi vì sợ thấy mình đối diện với chính mình. Còn Thánh Giuse thì ưa thích thinh lặng, vì Ngài muốn đặt mình ở trước mặt Thiên Chúa. Chính trong thinh lặng, người ta dễ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Thánh Giuse không tìm thinh lặng trong tu viện, nhưng Ngài đi vào cõi thâm sâu của chính lòng mình. Ngài cũng mời gọi các Kitô hữu giữ lấy trong lòng mình một chỗ thinh lặng. Khi cuộc sống càng xao động và bề bộn, người ta càng cần chỗ thinh lặng đó, nơi con người có thể gặp lại chính mình, trong thân phận đích thực của mình trước mặt Chúa.

Chính sự thinh lặng làm cho cuộc sống được thanh thản, làm cho đời sống nội tâm nên phong phú. Nhờ biết âm thầm suy niệm, những tâm tình như : thờ phượng, yêu mến, cũng như niềm vui, nỗi khổ trở nên sâu xa hơn, phong phú hơn, ý nghĩa hơn. Sự thinh lặng giúp tăng cường sự sống cho tinh thần.

Đây là điều mà mọi người cần nhận ra nơi con người của Thánh Giuse : sự thinh lặng là dấu chỉ của một sức sống cao đẹp hơn. Thinh lặng để có thể suy nghĩ tinh tế hơn, cảm xúc và chiêm ngắm với tinh thần thanh thoát, để nghe và đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhất là để yêu mến hơn. Bởi vì, sự thinh lặng có sức diễn tả tình yêu trao ban chính mình, đó là điều mà lời nói vô phương diễn tả. Thánh Giuse có thể dậy cho con người biết thinh lặng để yêu mến nhiều hơn.


Bài 22 : THÁNH GIUSE LÀ NGƯỜI NGHÈO KHÓ

Tin Mừng thuật lại việc Thánh Giuse đã dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non. Đó là của lễ mà người nghèo dâng lên Thiên Chúa. Còn người giầu có thì dâng một con chiên. Chi tiết này cho ta thấy tình cảnh nghèo khó của Thánh Giuse.

Chính sự nghèo khó ấy lại chuẩn bị thích hợp với Đấng Cứu Thế sinh ra ở hang bò chiên. Nhưng ngoài sự nghèo về vật chất, Thánh Giuse còn có một tâm hồn nghèo khó.

Sự giầu có thường làm cho người ta tự mãn, kiêu ngạo về những của cải, quyền thế, danh giá đang có. Còn người nghèo thì chẳng có gì để lên mặt, họ chỉ biết cậy dựa vào Chúa, chờ đợi sự cứu giúp của Chúa. Người nghèo ý thức về sự hèn yếu của mình và đặt tin tưởng vào Chúa quyền năng mà thôi. Sự nghèo khó ấy đi đôi với lòng tin, với sự khiêm hạ và dịu hiền. Nó nhắc nhở cho ta biết mọi sự là bởi Chúa, con người không có gì là do tự mình, và mình thật sự phải lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa.

Mọi người đều được Thiên Chúa trao cho nhiệm vụ làm việc để tạo ra của cải, xây dựng thế giới nên tốt đẹp hơn. Nhưng con người là chủ, chứ không để cho của cải làm chủ mình. Khôngtheo đuổi tiền bạc và hưởng thụ các tiện nghi, đi đến chỗ lãng quên Thiên Chúa, lãng quên Nước Trời. Vì thế, ta có thể hiểu tại sao Chúa Giêsu lại hứa ban Nước trời cho người có tinh thần nghèo khó. Chính Thánh Giuse đã sống Mối Phúc này trước khi Đức Kitô công bố. Có thể còn có nhiều người nghèo hơn Thánh Giuse, nhưng về tinh thần nghèo thì Ngài đã sống cách triệt để hơn mọi người. Nhờ vậy, Ngài đã chiếm được cơ nghiệp quý báu nhất. Đó là Thiên Chúa đã trao cho Thánh Giuse hồng ân vô giá là Đức Giêsu. Nhận được Thiên Chúa làm cơ nghiệp, đó là phần thưởng cho sự nghèo khó của Thánh Giuse.

Chúa Giêsu đã nói : “Kho tàng các ngươi ở đâu, thì lòng các ngươi cũng ở đó”. Thánh Giuse đã thấu hiểu rằng chỉ có một kho tàng duy nhất có thể thỏa mãn được lòng người, đó là Thiên Chúa. Thánh Giuse đã sống nghèo khó để đạt tới kho tàng đó. Trong Mối Phúc Thật về sự nghèo khó, Ngài không chỉ đạt được Nước Trời, mà trước hết, Ngài được chính Vua Nước Trời.

Niềm vui của Thánh Giuse là thoát khỏi mọi dính bén trần thế, để được hạnh phúc nâng niu một con trẻ là chính Thiên chúa.


Bài 23 : THÁNH GIUSE CÓ CÕI LÒNG THANH SẠCH

Sự thanh khiết của Thánh Giuse là cả một mầu nhiệm bởi ân sủng. Một ơn đã được ban để giúp Thánh Giuse sống trinh khiết vẹn toàn, phù hợp với vai trò là bạn của Đức Trinh Nữ Maria.

Người ta có thể so sánh cuộc gặp gỡ của Thánh Giuse và Đức Maria với cuộc gặp gỡ của Adam với Evà, khi con người chưa sa ngã, tội lỗi chưa làm cho dục vọng chi phối con người. Các Ngài không bị các thèm muốn xác thịt khuấy động, hoàn toàn làm chủ cái nhìn trong sáng, thánh thiện.

Qua lời Thiên Thần giải thích, Thánh Giuse hiểu rằng mình được Thiên Chúa kêu gọi cộng tác vào công trình cứu độ, bằng cách chuẩn bị cho Ngôi Lời Nhập Thể có một gia đình như một người bình thường. Vai trò của Ngài chính là làm một người chồng, và một người cha trinh khiết.

Nhờ tâm hồn thanh sạch, Thánh Giuse khám phá ra vẻ đẹp tinh thần, phát xuất từ tâm hồn thánh thiện, tràn đầy ơn Chúa của Đức Maria. Tình yêu của Ngài vì thế cũng được ơn Chúa nâng cao, giữ được sự thanh khiết và thánh thiện. Tình yêu ấy vượt trên những đòi hỏi của bản năng tự nhiên. Vì thế, niềm vui và hạnh phúc của Ngài siêu thoát hơn, thiêng liêng hơn.

Đời sống thanh khiết và tình yêu siêu thoát của Thánh Giuse là một gương mẫu cho những ai sống đời tận hiến, hoàn toàn trinh khiết. Những người sống trong bậc vợ chồng cũng nhận được lời mời gọi hướng đến một tình yêu thanh thoát, không dừng ở sự kết hợp thân xác mà thôi, nhưng hướng đến sự kết hợp tinh thần, làm chủ nhiều hơn đối với các đòi hỏi của bản năng tự nhiên. Tình yêu này không dừng ở vẻ đẹp thân xác, nhưng còn khám phá ra vẻ đẹp của tâm hồn, duyên dáng của các nhân đức. Tình yêu này sẽ bền vững dù năm tháng có làm cho nhan sắc con người tàn phai.

Cuối cùng, một Mối Phúc Thật do Chúa Giêsu công bố giúp ta thấy rõ ý nghĩa sự trinh khiết của Thánh Giuse là: “ Phúc cho những kẻ có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa ”

Thánh Giuse đã nhìn thấy Thiên Chúa. Ngài đã sống gần gũi và chiêm ngắm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa đã ở cùng kẻ luôn giữ lòng thanh sạch, trong trắng.


Bài 24 :  THÁNH GIUSE CÓ MỘT TÂM HỒN ĐƠN SƠ

Cuộc sống của Thánh Giuse xem ra khá đơn sơ, giản dị. Công việc của Ngài là những việc thông thường, không có gì lạ lùng. Nếp sống gia đình êm đềm, không có rắc rối khó khăn. Sinh hoạt đạo đức cũng đơn giản. Nhưng trên hết, cái đơn giản nơi Thánh Giuse đó là tâm hồn của Ngài.

Thánh Giuse đến cùng Thiên Chúa cũng như tha nhân, với tâm hồn ngay thẳng và trong sáng, hoàn toàn vô vị lợi. Nhờ sống ngay thẳng, không quanh co, không tự ái, nên Ngài tránh được mọi phiền phức. Cụ thể là trong việc Ngài muốn âm thầm rời xa Đức Maria, khi chưa biết ý định của Thiên Chúa. Ngài làm thế vì không muốn gây thêm phức tạp và đau khổ cho Đức Maria. Ngài muốn sự việc ấy được giải quyết cách đơn giản, cho dù Ngài phải chịu hy sinh và thiệt thòi. Sự việc này cho thấy cách xử sự giản dị của Thánh Giuse, sự giản dị của một tâm hồn khiêm hạ luôn quên mình, nhờ đó tránh được những rắc rối trong cuộc sống.

Nơi Thánh Giuse, đơn sơ giản dị là một dấu chỉ của lòng mến. Sự đơn sơ xuất phát từ cái nhìn bao quát được tất cả kiếp sống, sáng suốt nhận ra các vấn đề, giải quyết cách nhẹ nhàng. Đó là sự đơn sơ phát xuất từ ân sủng siêu nhiên, từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Chính tình yêu này đã đưa Thánh Giuse vào đường lối thật đơn giản. Thánh Giuse chỉ lối cho những người thích kiếm tìm sự đơn sơ : đó là lối đi của tình yêu xả kỷ đến cùng. Một tâm hồn càng yêu mến và gắn bó với Chúa, thì trạng thái nội tâm càng trở thành giản dị. Càng quên mình để hướng nhìn về Chúa, người ta càng sống đơn sơ giản dị hơn.

Nhờ có tâm hồn đơn sơ, Thánh Giuse mang nơi mình một phản ảnh của Thiên Chúa. Vì đơn sơ là một sự trọn lành của Thiên Chúa. Thiên Chúa giầu có vô cùng nhưng cũng giản dị vô cùng. Khi thông ban sự giầu có, Thiên Chúa cũng thông ban sự giản dị.

Đức Giêsu mang mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhưng điều đó không ngăn cản Người sống đơn sơ : đơn sơ trong tâm tình, trong cách cư xử gặp gỡ, trong lời rao giảng, và cả khi làm phép lạ. Sự đơn sơ đã làm cho Đức Giêsu gần gũi với Thánh Giuse. Với tâm hồn đơn sơ, Thánh Giuse đã giúp Đức Giêsu diễn tả sự đơn sơ của Thiên Chúa thành sự đơn sơ của con người.


Bài 25 : THÁNH GIUSE CÓ TINH THẦN KHÔN NGOAN

Được tuyển chọn làm người coi sóc Thánh Gia, Thánh Giuse cũng được Thiên Chúa ban cho sự khôn ngoan, để có khả năng nhận định mọi việc theo giá trị thật của nó. Biết phán đoán để chọn điều thích hợp nhất, xử sự khôn khéo trong những hoàn cảnh tế nhị.

Trước hết, Thánh Giuse cần sự khôn ngoan để điều khiển gia đình. Hơn nữa, Ngài còn có trách nhiệm dậy dỗ con trẻ. Chúa Thánh Thần đã làm việc trong tâm hồn Thánh Giuse, ghi khắc vào đó một sự khôn ngoan mà trẻ Giêsu có thể hưởng nhờ. Dĩ nhiên là Ngôi Lời Thiên Chúa chẳng cần ai hướng dẫn, sự khôn ngoan của Ngôi Lời là vô biên. Nhưng từ khi nhập thể làm người, mang lấy bản tính con người, thì về tri thức nhân trần, Đức Kitô cũng cần đến sự chỉ dậy của Thánh Giuse. Nếu không như vậy thì Đức Giêsu không phải là một con người trọn vẹn.

Được đầy sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse có cái nhìn vừa siêu nhiên vừa thực tế. Hướng về trời cao nhưng không quên thực tại trần thế. Bởi đó khi tiếp xúc với Thánh Giuse, Đức Giêsu học hỏi các kinh nghiệm nhân loại, các hiểu biết về thiên nhiên, về con người, về nghề nghiệp và cuộc sống. Nhờ đó, kiến thức của Đức Giêsu ngày một gia tăng, sau này được đem ra xử dụng trong các bài giảng của Người.

Sự khôn ngoan đã không giúp cho Thánh Giuse có nhiều của cải, danh dự hay địa vị. Nhưng sự khôn ngoan hướng Ngài chú tâm tìm kiếm những giá trị thuộc về Nước Thiên Chúa. Thánh Giuse cho ta thấy sự đảo lộn về sự khôn ngoan. Trước mắt Thiên Chúa, sự khôn ngoan thuần túy nhân loại chỉ là sự điên rồ, bởi lẽ nó gắn liền với những điều phù du không bền vững. Sự khôn ngoan Thiên Chúa đưa đến những kho tàng đích thực, không bao giờ hư mất. Chính sự khôn ngoan đó đã giúp Thánh Giuse chọn Đức Maria làm bạn, chấp nhận làm cha Đức Giêsu, cộng tác vào việc cứu độ nhân loại.

Khiêm tốn và kín ẩn, sự khôn ngoan của Thánh Giuse lớn lao ở chỗ đã thích ứng với mầu nhiệm vĩ đại mà Ngài là nhân chứng. Sự khôn ngoan đó hoàn toàn phát xuất từ Thiên Chúa. Sự khôn ngoan đó đã biết đi vào tính cách vừa kinh khủng, vừa lạ lùng trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.


Bài 26: THÁNH GIUSE CÓ TÌNH YÊU TRUNG TÍN

Tình yêu của Thánh Giuse chân thực, mạnh mẽ và trung tín đến cùng. Thánh Giuse đã trung tín với Thiên Chúa, là Đấng mà trong mọi hoàn cảnh Ngài hằng trọn vẹn chấp nhận tôn ý. Ngài đã trung tín với Đức Maria, tôn trọng bí nhiệm riêng tư của bạn mình, và giữ trọn mọi cam kết. Ngài cũng đã trung tín với Đức Giêsu, cư xử với tình cha ân cần, không tính toán, lúc nào cũng nghĩ đến lợi ích của con trẻ.

Tình yêu trung tín đối với Đức Maria và Đức Giêsu, chính là kết quả của tình yêu trung tín đối với Thiên Chúa. Tình yêu này là căn bản cho đời sống và chi phối mọi hành động. Sở dĩ cuộc hôn nhân của Ngài nổi bật về sự trung tín, chính là vì cả Đức Mẹ và Thánh Giuse đều tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa.

Lịch sử dân Do Thái cho thấy sự trung tín của Thiên Chúa trước sự phản bội của dân được tuyển chọn. Các tiên tri đã so sánh dân Do Thái với người vợ ngoại tình, không trung tín với Thiên Chúa. Ngược lại với sự bất trung này, Thánh Giuse đã đáp lại tình yêu Thiên Chúa bằng một lòng mến quảng đại chân thành. Sự trung tín này đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử nhân loại, nó cho thấy trước lòng trung tín tuyệt đối của Hội Thánh, lòng trung tín không gì có thể lay chuyển.

Thiên Chúa mong mỏi dân Chúa có một tình yêu trung tín, và Người đã gặp điều đó nơi Thánh Giuse. Thánh Giuse cùng với Đức Maria đã chuộc lại những bất trung của dân Do Thái, cũng như bất trung của ông bà nguyên tổ khi sa ngã. Con người có thể bị sa ngã chỉ trong giây phút, nhưng muốn trung tín thì phải cố gắng suốt cuộc đời. Thánh Giuse đã dâng hiến Thiên Chúa cả một đời tín trung, đền bồi giây phút phản bội của Adam và Evà.

Con người yếu đuối và hay thay đổi, Thánh Giuse đã có thể trung tín là nhờ đã biết cậy dựa vào Thiên Chúa, là Đấng bền vững. Khi tin tưởng vào sự nâng đỡ của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã để cho sức mạnh của Thiên Chúa giúp Ngài sống trung tín. Nhờ vậy mà Ngài chu toàn tất cả bổn phận, việc lớn cũng nhu việc nhỏ, bằng một tình mến lớn lao, để đáp lại ý Chúa.

Tình yêu đáp lại một tình yêu, đó chính là sự trung tín của Thánh Giuse. Trung tín không phải là nô lệ. Nơi Thánh Giuse, trung tín là một sức sống mãnh liệt, một tình yêu chiếu tỏa không ngừng, làm đổi mới mọi hoàn cảnh, thúc đẩy sống quảng đại và anh hùng.


Bài 27 : THÁNH GIUSE LÀ CON NGƯỜI HY VỌNG

Đặc điểm của tâm hồn đạo đức Do Thái chính là niềm hy vọng về thời của Đấng Thiên Sai. Lòng sốt sắng của Tôn giáo luôn hướng về tương lai, một tương lai tuyệt vời khi Đấng Thiên Sai mang ơn cứu độ đến cho dân Chúa, khai mạc triều đại phồn vinh mới. Thánh Giuse cũng thấm nhuần sâu xa niềm hy vọng này, và Ngài còn nóng lòng hơn mọi người khác trong việc chờ thời Thiên Sai này.

Tuy nhiên, niềm mong đợi của Thánh Giuse không chỉ dừng lại ở sự giải phóng có tính cách chính trị như những người đương thời. Ngài hằng nhớ đến những lời tiên tri loan báo một giao ước mới, trong đó dân sẽ thực sự thuộc về Thiên Chúa của mình, với một tinh thần mới và một tấm lòng mới. Dân lý tưởng của tương lai sẽ tràn đầy sự thánh thiện của Thiên Chúa, Thánh Guse chủ yếu đợi chờ cuộc canh tân tinh thần đó.

Lời loan báo của Thiên Thần đã thêm niềm hy vọng cho Thánh Giuse về cuộc canh tân các tâm hồn. Khi sống kề cận bên Đức Giêsu, niềm hy vọng này ngày càng lớn lên. Nơi con trẻ có sự thánh thiện đến nỗi Thánh Giuse có thể nhận thấy ở đó một sức mạnh sẽ tạo nên tinh thần mới và tấm lòng mới cho nhân loại. Khi sống với Đức Giêsu, niềm hy vọng của Ngài chỉ còn có tính cách siêu nhiên, không có tính cách chính trị và trần thế nữa.

Cuộc sống của Thánh Giuse gắn liền với sự tăng trưởng của Đấng Cứu Thế, niềm hy vọng của Ngài cũng không ngừng lớn lên. Đó là hy vọng được thấy một thế giới tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng của Ngài là một lời van nài Đức Giêsu hãy giải phóng và thăng tiến các tâm hồn.

Tuy chẳng góp phần trực tiếp vào việc thiết lập Nước Chúa Kitô ở đời này, Thánh Giuse vẫn dậy chúng ta lấy chí hướng âm thầm của lòng mình mà mở mang Nước Chúa. Niềm hy vọng này không giới hạn vào ơn cứu độ của cá nhân riêng mình, nhưng trước hết nó là sự đợi trông cuộc cứu độ toàn thể nhân loại. Trong cuộc sống âm thầm ở Nagiaret, Thánh Giuse đã sống với ước muốn vô hạn đó. Ngài cũng kêu gọi mọi người mở rộng khát vọng của mình, mong ước cho Nước Thiên Chúa mở rộng trên cả thế giới.

Ngài cũng thôi thúc chúng ta giữ vững niềm hy vọng siêu nhiên, trong khi xây dựng trần thế vẫn không quên nhìn lên trời cao, sống gắn bó với Đức Kitô là cùng đích mọi niềm hy vọng. Càng gắn bó với Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta càng được bảo đảm. Có Đức Kitô, chúng ta sẽ không sợ hãi và thất vọng, cho dù thế gian còn đầy tội lỗi và sự dữ. Có Đức Kitô, chúng ta sẽ sống lạc quan giữa mọi thử thách, tin tưởng sẽ đạt tới chiến thắng nhờ vào Đức Kitô.


Bài 28: THÁNH GIUSE LÀ VỊ TÔNG ĐỒ ẨN TÍCH

Tuy không đi rao giảng như các tông đồ sau ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, nhưng trong niềm hy vọng của Thánh Giuse, chúng ta khám phá ra tâm hồn tông đồ của Ngài.

Khi nhận vai trò là người dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế, chắc chắn Thánh Giuse cũng mong mỏi cho tất cả mọi người sớm đón nhận Đấng Cứu Thế và ơn cứu độ của Người. Có thể nói rằng, ưu tư hàng đầu của Ngài là dành cho những linh hồn sống xa Thiên Chúa. Nỗi bận tâm tìm kiếm người tội lỗi của Đức Giêsu        cũng tràn ngập tâm hồn Thánh Giuse. Ngài cũng động lòng thương xót trước những người bơ vơ về tinh thần và đời sống thiêng liêng, Nhưng Ngài đã có thể làm gì để cứu vãn tình trạng đó.

Trong giới hạn của mình, Thánh Giuse đã chạy đến với Thiên Chúa để van xin. Cùng với Đức Maria, Thánh Giuse đã khai mào cho hình thức tông đồ bằng kinh nguyện. Ngài làm gương cho chúng ta về việc mở mang Nước Chúa bằng cầu nguyện. Hoạt động tông đồ trong Hội Thánh cần đến sức mạnh thiêng liêng trong kinh nguyện của mọi Kitô hữu, đặc biệt là nơi các tu sĩ chiêm niệm dành mọi thời gian để cầu nguyện, sống với Thiên Chúa. Đó cũng là hướng đi mà Thánh Giuse đã thực hiện trong khung cảnh nghề nghiệp người thợ.

Thánh Giuse còn duy trì sức sống kinh nguyện tông đồ bằng cách dâng hiến mọi việc, mọi biến cố xẩy ra trong đời. Ngài khiêm tốn dâng mọi sự cho Thiên Chúa với tất cả tâm tình yêu mến, để cầu xin ơn thiêng liêng cho người khác. Những niềm vui cũng như đau khổ đều trở thành lễ dâng xin ơn cứu độ.

Thánh Giuse biết rằng, lễ dâng hàng ngày đó có thể góp phần đắc lực vào việc cứu giúp các linh hồn. Tinh thần tông đồ đã giúp Ngài chấp nhận mọi hy sinh, vượt qua những khó khăn nặng nề trong cuộc sống, mặc cho chúng một giá trị cứu độ.

Hội Thánh cũng mời gọi tất cả chúng ta làm tông đồ theo gương Thánh Giuse. Đó là cầu nguyện, dâng mọi hy sinh, dâng cả đời sống thầm lặng của mình làm lễ dâng xin ơn cứu độ cho cả nhân loại.


Bài 29 : CÁI CHẾT CỦA THÁNH GIUSE

Tin Mừng không kể lại cho chúng ta về cái chết của Thánh Giuse. Do đó chúng ta chẳng biết gì về ngày giờ và hoàn cảnh của cái chết đó.

Tuy nhiên, chúng ta có thể suy đoán rằng Thánh Giuse đã chết trước khi Đức Giêsu khởi sự đi rao giảng Tin Mừng. Không có chỗ nào trong đời hoạt động của Đức Giêsu nhắc đến Thánh Giuse. Ngài ra đi khi vai trò của mình đã hoàn tất.

Chúng ta cũng có thể suy đoán ra rằng : Thánh Giuse có được giờ chết rất bình an và hạnh phúc, bởi vì có Đức Maria và nhất là có Chúa Giêsu vào giờ phút cuối đời. Cảnh sống thân tình đã từng liên kết họ thật chặt chẽ bên nhau dưới mái nhà Nagiaret, sẽ tiếp tục trên trời bằng một cách khác. Thánh Giuse đã đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình, thì Đức Giêsu cũng đưa Ngài vào nhà Cha trên trời, vào hạnh phúc đời đời. Trong nhiều năm trời, Thánh Giuse đã được tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu, và trong giây phút hấp hối, Ngài có thể ra đi bình an vì thấy có Chúa Giêsu ở bên mình.

Mọi Kitô hữu cũng mong ước có được giờ ra đi bình an như Thánh Giuse, khi đã hoàn tất bổn phận và có Đức Mẹ cùng với Chúa Giêsu hiện diện bên mình.


Bài 30 : THÁNH GIUSE LÀ ĐẤNG CHUYỂN CẦU

Ở trên trời, Thánh Giuse hành động với tư cách là vị chuyển cầu. Nhờ vào tư thế gần gũi với Đức Mẹ và Chúa Giêsu mà việc chuyển cầu của Thánh Giuse có một giá trị rất lớn lao.

Vốn là bạn của Đức Maria, nay ở trên trời Thánh Giuse vẫn mang tư cách đó. Bởi đó, những ai kêu cầu Thánh Giuse thì cũng đánh động Đức Maria. Những lời kêu xin với Thánh Giuse cũng được Đức Maria chuyển cầu.

Những lời xin đó cũng làm vui lòng Đấng Cứu Thế, Đấng đã từng gọi Thánh Giuse là cha. Sự thắm thiết giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu đưa đến kết quả là mọi lời chuyển cầu của Thánh Giuse đều rất hiệu nghiệm. Chúa Cứu Thế mau mắn đón nhận những gì người ta nhờ đến Thánh Giuse. Như Thánh Giuse đã ân cần phục vụ Chúa Giêsu, giờ đây Chúa Giêsu cũng ân cần đáp lại mọi thỉnh cầu của Thánh Giuse.

Trải qua nhiều thế kỷ, các Kitô hữu mới nhận ra vai trò chuyển cầu đặc biệt của Thánh Giuse, và tôn kính Ngài xứng với vinh dự Ngài phải có. Dĩ nhiên là Đức Mẹ được nhiều đặc ân cao cả, Thánh Giuse không thể nào sánh bằng được. Nhưng sự trọn lành Thiên Chúa ban cho Ngài vẫn rất cao vời. Vì thế, việc tôn kính Thánh Giuse không cản trở lòng tôn kính đặc biệt đối với Đức Mẹ, và cũng không đi ngược với bổn phận tôn thờ đối với Chúa Giêsu. Ở đây không có vấn đề cạnh tranh hay ganh đua. Trong vinh quang cõi trời, Thánh Giuse không tách rời, nhưng luôn là một với Đức Kitô và Mẹ Maria. Trong lòng các Kitô hữu cũng thế, khi yêu mến và cầu khẩn Thánh Giuse, người ta càng thêm thân thiết và yêu mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ nhiều hơn.

Nhờ sự chuyển cầu của Thánh Giuse, trước hết chúng ta được kết hợp chặt chẽ hơn với Đức Mẹ và Chúa Giêsu, giúp phát triển đời sống thiêng liêng, giúp chúng ta khiêm tốn phục vụ trong âm thầm. Thánh Giuse cũng chuyển cầu cho chúng ta khi chúng ta gặp khó khăn, giúp chúng ta cả những nhu cầu vật chất thực sự cần thiết. Thánh Giuse đã từng là gia trưởng, Ngài hiểu được những khó khăn thiếu thốn trong các gia đình, những nỗi khổ cực vất vả trong công việc làm ăn. Ngài đã từng trải qua những điều đó, nên Ngài cũng sẵn lòng can thiệp trợ giúp những ai kêu cầu Ngài trong lúc gian khó.

Sự chuyển cầu của Thánh Giuse bao trùm một phạm vi rộng rãi. Các Kitô hữu chạy đến kêu xin với Ngài các ân huệ thiêng liêng cho sự sống linh hồn, và cả các ơn huệ cho các nhu cầu vật chất khác nữa. Làm như thế chính là mang lại vinh dự cho Thiên Chúa quan phòng. Vì Chúa đã đặt Thánh Giuse thay mặt Chúa trong gia đình Nagiaret, và nay tiếp tục nhờ Ngài ban phát các ơn lành cho nhân loại.


Bài 31 : THÁNH GIUSE LÀ QUAN THẦY HỘI THÁNH

Ngày 8 tháng 12 năm 1870, Thánh Giuse được long trọng công bố là Quan thầy của Hội Thánh toàn cầu.

Nhiều khía cạnh của vai trò mà Ngài đã đảm nhận khi còn tại thế, đã dẫn đưa đến việc công nhận vai trò Quan Thầy đó. Đó là những tư cách : là bạn của Đức Maria, là cha của Đức Giêsu, là chủ của Thánh Gia.

Đức Maria là mẹ Hội Thánh, còn Thánh Giuse là bạn của Đức Maria, vì vậy Ngài cũng hợp lực với Đức Maria để săn sóc Hội Thánh.

Hội Thánh là thân thể Đức Giêsu, còn Thánh Giuse đã từng nuôi dưỡng Đức Giêsu, vì vậy Thánh Giuse cũng được đặt định làm người bảo vệ Hội Thánh.

Là chủ Thánh Gia, Thánh Giuse cũng có đủ tư cách tham gia vào việc điều hành gia đình vĩ đại là Hội Thánh.

Ngoài ra, vai trò Quan Thầy Hội Thánh còn phù hợp với những tương quan của Thánh Giuse với các Ngôi Vị Thiên Chúa. Ở Nagiaret, Thánh Giuse đã là một đại diện của Cha Trên Trời. Cũng như Đức Giêsu, các Kitô hữu cũng sung sướng tìm thấy nơi Thánh Giuse hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha. Người đã điều khiển Thánh Gia Nagiaret qua trung gian Thánh Giuse, thì nay Người cũng nhờ Thánh Giuse mà điều khiển Hội Thánh, và đặt Thánh Giuse như một đại diện cho Tình Cha ân cần của Người.

Dù Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta có thể thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời Thánh Giuse, soi sáng cho Ngài nhận ra ý Chúa và cộng tác vào chương trình cứu độ, hướng dẫn cho Ngài chu toàn sứ mạng. Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn tác động trên Ngài để đảm nhận vai trò Quan Thầy Hội Thánh.

Thánh Giuse đã có mối liên hệ thắm thiết với Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, đã đi sâu vào trong tình mến của gia đình đầu tiên là Cộng Đồng Ba Ngôi, là mẫu mực của gia đình Nagiaret và gia đình Hội Thánh. Là Quan Thầy của gia đình Hội Thánh, nên Thánh Giuse cũng luôn củng cố sự hiệp nhất, yêu thương trong gia đình này, như xưa Ngài đã điều khiển Thánh Gia trong tinh thần hòa hợp hoàn toàn. Cũng chính trong tinh thần hiệp nhất các Kitô hữu, mà Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã đặt Thánh Giuse làm quan thầy của Công Đồng Vaticanô II.

Bởi đó, thật là chính đáng khi Hội Thánh ngày nay trông đợi một sự hợp nhất mọi Kitô hữu, nhờ sự giúp đỡ đặc biệt của Thánh Giuse.Ngài sẽ giúp người ta có tinh thần hòa giải hơn, mở rộng lòng để thông hiệp trong cùng một lòng tin và một lòng mến, quên đi những sai lầm và hiểu lầm trong quá khứ, để đồng tâm liên kết trong Nhiệm Thể Chúa Kitô.


 


Trang Suy Niệm Các Chủ Đề Chung