VÀO SA MẠC ĐỂ TÌM LẠI CHÍNH MÌNH

“Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước…” (Lc 6,42)

Ngay từ phần mở đầu của thông điệp Fides et Ratio (Đức tin và Lý trí), Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc đến câu châm ngôn được khắc trên cửa đền thờ ở Delphi: “Hãy nhận biết chính mình”, và xem đó là chân lý căn bản trong cuộc sống làm người, những hữu thể vượt trên mọi loài vật khác ở chỗ “biết mình”.

Rất lạ lùng, người ta gặp được khẳng định tương tự trong Tin Mừng theo thánh Tôma, khi Chúa Giêsu dạy: “Kẻ biết hết mọi sự khác mà không biết chính mình, coi như chẳng biết gì cả”. Dù sách Tin Mừng này không được Hội Thánh nhìn nhận chăng nữa, thì khẳng định đó tự nó đã thật đáng giá.

Hầu như tất cả các nhà thần bí, các tác giả linh đạo, các triết gia, tâm lý gia, nhà tư vấn, đều nhìn nhận tầm quan trọng nền tảng của việc biết mình. Neville Symington, một nhà tâm lý có tiếng, coi đó là “đá nền của sức khỏe tâm thần”. Thánh Têrêxa Avila nói rằng, “Một ngày sống trong sự khiêm tốn biết mình thì tốt hơn cả ngàn ngày cầu nguyện”. Còn Meister Eckhart khẳng định, “Không ai có thể biết Thiên Chúa mà trước hết không biết bản thân mình”.

Chính vì việc biết mình có tầm quan trọng đặc biệt như thế nên thứ tội mà Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ và thường xuyên nhất là tội giả hình: “Sao anh thấy thấy cái rác trong mắt của người anh em, mà cái xà trong mắt mình thì lại không thấy? Sao anh có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra’, đang khi cái xà trong mắt mình thì không thấy? Đồ giả hình! Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt anh em ngươi” (Lc 6,41-42).

Giả hình là sống không đúng với con người thật của mình, giới thiệu hình ảnh giả tạo về bản thân. Sống giả hình là sống trong dối trá, mâu thuẫn, lừa gạt. Dối trá vì thái độ bên ngoài không phù hợp với tâm tình bên trong. Mâu thuẫn vì nói một đàng, làm một nẻo. Lừa gạt vì làm cho người khác bị sai lạc. Điều đáng nói là những chuyện này không chỉ diễn ra trong đời sống xã hội mà cả trong sinh hoạt tôn giáo. Chúa Giêsu chẳng cảnh giác chúng ta về việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà chỉ nhắm mục đích cho người ta khen hay sao (x. Mt 6,1-18)?

Vậy, làm thế nào để có thể khám phá và nhìn nhận sự thật về bản thân cách chân thành?

1. Cái tôi ích kỷ

Cái rác trong mắt mỗi người chính là cái tôi ích kỷ của mình. Cái tôi ấy ngăn cản tầm nhìn, khiến ta không thấy rõ sự thật về mình và về tha nhân. Vì thế, bước đầu tiên của hành trình biết mình là phải ý thức về cái tôi ích kỷ đó.

Có những phương pháp tâm lý giúp nhận diện bản thân, chẳng hạn phương pháp Cửu Loại (enneagram). Phương pháp này trình bày chín loại hình nhân cách cơ bản, ở mỗi loại hình đều có những điểm mạnh và điểm yếu, làm nên nhân cách đặc thù của mỗi phạm trù. Mỗi người có thể dựa vào những phân tích này để khám phá bản thân, dù vẫn có những giới hạn, do mỗi con người là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế hoặc xếp loại như những đồ vật.

Dù có những phương pháp tâm lý trợ giúp, điều quan trọng vẫn là nội tâm hóa; nếu không, sẽ có nguy cơ vận dụng những phương pháp này để giúp đỡ người khác, đang khi chính mình không hề áp dụng. Nói cách khác, cần phát huy khả năng phản tỉnh vốn là nét đặc thù của con người “biết mình”. Với khả năng này, con người không chỉ nhìn thấy những cái diễn ra bên ngoài nhưng còn nhìn thấy chính nội tâm của mình. Con người vừa là chủ thể nhìn vừa là đối tượng được nhìn, được quan sát. Càng quan sát khách quan và tỉ mỉ bao nhiêu, càng thấy rõ con người thật của mình bấy nhiêu.

Bằng khả năng phản tỉnh, chúng ta khám phá những mặc cảm nằm ở chiều sâu cuộc sống, trở thành những ám ảnh vô hình mà rất thật, âm thầm chi phối và điều hướng cách ứng xử và tiếp cận của chúng ta với tha nhân cũng như những vấn đề phải đối diện trong cuộc sống.

Bằng khả năng phản tỉnh, chúng ta cũng khám phá những động lực thúc đẩy hành động của mình. Có những hoạt động bên ngoài rất tốt, được mọi người đề cao và trân trọng, nhưng động lực sâu xa bên trong không hẳn là tốt lành. Cũng có khi động lực đó xen lẫn cả hai mặt tốt xấu, vì thế càng không dễ nhận diện.

2. Cái tôi xác thịt

Theo Albert Nolan, cái tôi ích kỷ chính là điều thánh Phaolô gọi là “xác thịt” (sarx). Từ “xác thịt” dễ làm liên tưởng đến những tội về điều răn thứ sáu, nhưng không hẳn là thế. Khi nói đến những việc do tính xác thịt, thánh Phaolô liệt kê: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gal 5,19-21). Đối nghịch với những việc do tính xác thịt, thánh Phaolô liệt kê những hoa quả của Thần Khí: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5, 22-23).

Như thế đã rõ, việc làm do tính xác thịt ở đây không chỉ là những tội phạm điều răn thứ sáu nhưng là những việc làm của cái tôi ích kỷ, chỉ tập trung vào bản thân mình, tìm cách thỏa mãn những dục vọng ích kỷ. Còn cái tôi đích thực là cái tôi của tự chủ và yêu thương.

Cũng chính ở đây, cần nhìn lại những ước muốn (desires) bằng một cặp mắt mới. Ở tự nó, ước muốn chẳng có gì là sai trái; hơn nữa, nó còn có giá trị tích cực vì làm cho đời sống thêm phong phú. Sẽ buồn bã biết chừng nào cho một đời sống không có ước muốn và khát vọng. Cái xấu và cái ác chỉ xuất hiện khi những ước muốn này quy về mục đích ích kỷ nhằm thỏa mãn bản thân mà thôi, không quan tâm gì đến tha nhân cả. Chẳng hạn những ước muốn về tình yêu, tình dục, ăn uống, tiện nghi, bình an… tất cả đều không có gì là xấu, nhưng có nguy cơ bị biến chất do cái tôi xác thịt và ích kỷ. Chính vì thế, nội tại nơi mỗi người là cuộc đấu tranh liên lỉ mà thánh Phaolô diễn tả: “Điều tôi muốn thì tôi không làm, điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Do đó, đời sống thiêng liêng đích thực không hệ tại ở chỗ dồn nén và hủy diệt những tình cảm và ước muốn (không chừng bị dồn nén ở đây, nó lại xì ra chỗ khác!), nhưng là làm chủ bản thân để những ước muốn đó không quy về mục đích ích kỷ, đồng thời điều hướng nó đến những mục đích cao cả đích thực.

3. Cái tôi đích thực

Theo ngôn ngữ hình tượng của Chúa Giêsu, cái tôi đích thực chính là cặp mắt sáng: “Con mắt là đèn soi của thân thể. Nếu cặp mắt của anh em lành mạnh, thì toàn thân anh em được sáng. Nếu mắt của anh em không lành mạnh, thì toàn thân bị tăm tối” (Lc 11,34). Sở dĩ cặp mắt chúng ta không lành mạnh và nhìn không rõ là vì có cái rác vướng trong mắt, nghĩa là cái tôi ích kỷ và nặng xác thịt đã ngăn cản tầm nhìn của ta về chính bản thân cũng như về tha nhân, cả về Thiên Chúa. Khi cái rác đó được lấy đi, khi ta thấy được những hình ảnh giả tạo về bản thân và vượt lên nó, thì lúc ấy, cặp mắt sẽ sáng, cái tôi đích thực dần dần xuất hiện rõ nét.

Khám phá và nhìn nhận những hình ảnh giả tạo về bản thân mình là một nỗi đau lớn. Fulton Sheen diễn tả hành trình này giống như việc bóc một củ hành. Như củ hành có nhiều lớp, cái tôi đích thực của mỗi người cũng ẩn sâu dưới nhiều lớp vỏ. Cần phải bóc từng lớp, mới thấy được cái lõi. Và khi bóc từng lớp như thế, hơi cay bốc lên làm ta chảy nước mắt. Khi việc biết mình không chỉ đơn thuần là nhìn nhận trên bình diện lý trí, nhưng được nội tâm hóa để thật sự khám phá và nhìn nhận cái tôi đích thực của mình, công việc ấy làm ta chảy nước mắt, nước mắt của đau đớn và xấu hổ, nước mắt của từ bỏ và thập giá.

Về mặt tâm lý, một nguy cơ khác có thể xuất hiện ở đây là mặc cảm tội lỗi. Khi nhận ra những động lực thầm kín và chẳng đẹp đẽ gì ẩn đằng sau những việc làm có vẻ lớn lao và thánh thiện của mình, việc nhìn nhận ấy có thể làm chúng ta thất vọng về bản thân: Không ngờ tôi tồi tệ đến thế! Người khác sẽ thất vọng về tôi biết bao nhiêu! Phải chăng không bao giờ tôi có thể vươn tới lối sống vị tha và cao đẹp hơn? Không ít người để cho những mặc cảm tội lỗi ám ảnh mình suốt đời, làm tê liệt sự phát triển đích thực trong đời sống tâm lý và tâm linh.

Vì thế, cần phân biệt giữa mặc cảm tội lỗi và cảm thức về tội. Giuđa đã để cho mặc cảm tội lỗi hủy hoại đời mình. Một đàng, ông biết mình đã làm sai, “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Ngài phải chết oan” (Mt 27,4); đàng khác, ông tự chôn mình trong tuyệt vọng, “Giuđa ném số bạc vào Đền thờ và ra đi thắt cổ” (Mt 27,5). Trường hợp thánh Phêrô lại khác. Ông biết mình làm sai nên “ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Mt 26,75). Nhưng ông không giam mình trong tuyệt vọng mà mở lòng ra trong khiêm tốn và cậy trông: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17). Vẻ đẹp của bí tích Giải Tội là ở đây. Việc cử hành bí tích không chỉ ngưng lại ở chỗ xét mình, cũng không chỉ là xưng thú tội lỗi, nhưng đỉnh điểm là lời tha thứ và giao hòa: “Cha tha tội cho con. Về đi và đừng phạm tội nữa”. Đó là lời giải thoát khỏi những mặc cảm tội lỗi và mở ra cánh cửa hi vọng cho một tương lai mới.

Chắc chắn hành trình biết mình không phải là dễ dàng, do đó là “con đường không mấy ai đi” (xin mượn lại tên tác phẩm của Scott Peck, The Road Less Traveled). Hành trình ấy chỉ có thể thực hiện tốt đẹp trong tĩnh lặng và cô tịch, bởi lẽ chỉ trong thinh lặng của tâm hồn, chúng ta mới có thể tập trung để thấy rõ những lớp vỏ bọc của cái tôi ích kỷ, nghe được tiếng lòng thầm kín nhất của chính bản thân, và có can đảm sống thật với chính mình, với Thiên Chúa, với tha nhân.

Thiên Triệu


Mục Lục