BẢN TỔNG KẾT KHOÁ THƯỜNG HUẤN V
DÀNH CHO CÁC NHÀ ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC TẠI VIỆT NAM
(03 – 16/7/2016)
Đà Lạt, Việt Nam
Chủ đề: “Phúc Âm hoá và Tân Phúc Âm hoá trong bối cảnh Viêt Nam
với công việc đào tạo các linh mục tại Việt Nam”
“Các con hãy
đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần,
giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19). Chúa Giêsu đã ủy thác cho
các môn đệ tiếp nối sứ vụ của Người trong thế giới, và Giáo Hội đã “đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo” (Mc
16,15). Hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội hiện diện trong thế giới để đem ánh
sáng Tin Mừng đến cho con người thuộc các nền văn hoá khác nhau.
Trong lịch sử
truyền giáo, đã có những vị thừa sai biết hội nhập đức tin tinh tuyền với các
giá trị văn hoá bản địa, vì trong các nền văn hoá này tiềm ẩn những giá trị
chân thiện mỹ vốn là hoa trái của Ngôi Lời. Tuy nhiên, thế giới mà Giáo Hội được
sai đến đôi khi lại theo đuổi những giá trị ngược với những giá trị của Tin Mừng.
Hơn thế nữa, người đi loan báo Tin Mừng cũng băn khoăn tự hỏi đâu là mối tương
quan giữa Phúc Âm hoá và mọi cố gắng để “thăng tiến con người”. Biết đâu sứ
vụ Phúc Âm hóa, nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội, rất có thể dẫn đến
việc biện hộ cho những thái độ đáng phê phán, thậm chí đi ngược với
tinh thần Đức Kitô? Đứng trước những khó khăn và thách đố như thế, các môn đệ
của Đức Giêsu sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay?
Tiếp nối những
thành quả của Khoá Thường Huấn IV (2014), Ủy Ban Giáo Sĩ và Chủng Sinh trực thuộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tổ chức Khoá Thường Huấn V với đề tài “Phúc Âm hoá và Tân Phúc Âm hoá
trong bối cảnh Việt Nam với công việc đào tạo các linh mục tại Việt Nam” từ ngày 03 đến 16 tháng 7 năm 2016, tại
Trung tâm tĩnh tâm K’Long, Don Bosco, Giáo phận Đà Lạt, Việt Nam. Khoá Thường
Huấn lần này nhận được sự hỗ trợ của Hội Thừa Sai Paris, Bộ Loan Báo Tin Mừng
cho các Dân Tộc và một số ân nhân, với sự cộng tác đắc lực của các giáo sư đến
từ Học viện Công giáo Paris, Học viện Truyền giáo Dòng Ngôi Lời (DWIMS)
Philippines, Đại chủng viện Suwon Hàn quốc, Đại diện Hội Thừa Sai Paris ở
Singapore, Đức Giám mục Anphong Nguyễn Hữu Long. Có 92 nhà đào tạo ứng sinh
linh mục từ 10 Đại chủng viện, 17 Dòng tu và Tu hội, và đại diện của 26 Giáo phận
tại Việt Nam đã tham dự Khoá Thường Huấn năm nay.
Tổng quát về
Khoá Thường Huấn
Xoay quanh bốn
chiều kích: nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ, Khoá Thường Huấn không
chỉ là quãng thời gian học tập nghiên cứu tốt nhất mà còn là một cơ hội quý báu
để anh em linh mục từ các Đại chủng viện, các Giáo phận và Dòng tu trong cả nước
gặp gỡ, trao đổi với nhau trong niềm vui Phúc Âm thấm đượm tình Chúa tình người.
Đây cũng là thời
gian để các tham dự viên đào sâu kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm về đào tạo và
đời sống đức tin. Qua những bài suy niệm được chuẩn bị kỹ lưỡng, cụ thể và sâu
sắc của Cha Piô Ngô Phúc Hậu, nhà truyền giáo lão thành, những trang Tin Mừng
đã trở nên hết sức sống động.
Ngoài ra, ý thức
đây cũng là dịp để trải nghiệm sự phong phú đa dạng của Giáo Hội, đồng thời cảm
nghiệm tình yêu quan phòng của Thiên Chúa đối với những nhu cầu của Giáo Hội,
các tham dự viên đã cùng với Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương, Giáo phận Đà Lạt, Đức
Cha Tân cử Giuse Đỗ Mạnh Hùng đến dâng thánh lễ tạ ơn tại Dòng kín Cát Minh Đà
Lạt, thăm Đại chủng viện Minh Hoà và Trung Tâm Mục Vụ của Giáo phận.
Phần lớn thời
gian còn lại của Khoá Thường Huấn được dành cho việc học hỏi và đào sâu về đề
tài Phúc Âm hoá và Tân Phúc Âm hoá trong bối cảnh Việt Nam với công việc đào tạo
các linh mục tại Việt Nam. Các thuyết trình viên đã giúp các tham dự viên nhận
định về hiện trạng Phúc Âm hoá tại Việt Nam, quy chiếu về ánh sáng của Tin Mừng
và lịch sử Giáo Hội, để có thể đề ra những định hướng thích hợp cho việc đào tạo
linh mục trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Bên cạnh đó, các giờ thảo luận
tổ và đúc kết chung cũng giúp soi sáng thêm cho các đề tài nhờ những kinh nghiệm
rất cụ thể và sống động mà các tham dự viên đã chia sẻ.
Nội dung tổng
quát các bài thuyết trình
Mở đầu tuần thứ
nhất của Khoá Thường Huấn, cha Vinh sơn Trần Minh Thực đã điểm lại bối cảnh thế
tục hoá tại Việt Nam mà cha Thierry-Marie Courau đã trình bày trong bài “Đào tạo
các linh mục tương lai để tái rao giảng Tin Mừng trong bối cảnh thế tục hoá tại
Việt Nam” (bài 1). Từ đó, cha Gilles Berceville dẫn dắt cử toạ đi vào hành
trình truyền giáo rất thú vị xuyên qua lịch sử chuyển biến ngữ nghĩa và nhận thức
về hai hạn từ căn bản liên quan đến đề tài Phúc Âm hoá: MISSION và
EVANGELISATION (bài 2).
Lịch sử xuất hiện
và sử dụng của hạn từ Phúc Âm hoá (Évangélisation) cho chúng ta thấy rõ cái cốt
yếu trong đời sống Giáo Hội: thông truyền cho thế giới sự sống Ba Ngôi, qua việc
loan báo Đức Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa. Giáo Hội không phải là chủ
nhân của việc Phúc Âm hoá, nhưng là dụng cụ, là dấu chỉ, là hoa trái. Nhiệm vụ
của Giáo Hội là luôn tìm kiếm ánh sáng để không hành động theo ý riêng, nhưng
theo ý Đấng đã sai mình, để làm cho các giá trị Tin Mừng sáng lên, từ đó làm
cho thế giới cũng bừng lên ánh rạng ngời của chân lý. Giáo Hội phải luôn nhạy
bén trước tác động âm thầm của Chúa Thánh Thần, vì không có Người thì những kỹ
thuật Phúc Âm hoá hoàn hảo nhất, những phương pháp biện luận có sức thuyết phục
nhất cũng không ảnh hưởng được gì trên trí tuệ con người (x. Evangelii Nuntiandi,
75).
Chân lý ấy càng
được củng cố hơn khi cha Claude Tassin, khởi đi từ một số bức thư của thánh
Phaolô, cố gắng giúp cử toạ hiểu đúng Tin Mừng là gì và những mối liên hệ sâu sắc
mà Tin Mừng đan kết giữa người nói và người nghe được diễn tả qua tương quan ẩn
dụ “cha mẹ - con cái”: “...nhờ
Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr
4,15) (bài 3). Hiểu như thế, Tin Mừng không chỉ là Lời sống động phát xuất từ
Thiên Chúa được hiểu một cách cụ thể nhưng còn được biểu hiện nơi đời sống cộng
đoàn tín hữu; mỗi tín hữu là một trang Tin Mừng sống động. Vì thế, chúng ta cần
suy nghĩ và hành xử cẩn trọng hơn trong việc kiểm soát lời, điều chỉnh đời sống
và cách ứng xử của mình trong tương quan với Lời/lời và người khác, đồng thời
làm sao để chính Chúa Giêsu Kitô thành hình và lớn lên trong các tương quan của
đời sống thường ngày.
Nếu Tin Mừng là
chính Chúa Giêsu Kitô và mỗi tín hữu đều là một trang Tin Mừng sống động thì
thánh Máctinô thành Tours (bài 4) đích thực là một trong những trang Tin Mừng
điển hình ấy. Qua gương mặt của ngài, người ta có thể nhận ra gương mặt khả ái
của chính Chúa Giêsu đồng thời hiểu được rằng người ta chỉ có thể trở thành
tông đồ khi dám làm bạn với người nghèo và việc loan báo Đức Kitô không thể
tách rời các hoạt động bác ái.
Phương pháp này
đã được Nữ tu Catherine Fino (bài 6) tiếp cận và khai triển, đặc biệt qua cách
hoạt động của các cơ sở cứu tế của thế kỷ thứ 17. Phúc Âm hoá qua các việc bác
ái là phương pháp vừa hiệu quả, vừa có thể giúp các tín hữu thống nhất kinh
nghiệm đức tin, đồng thời khôi phục nền văn hoá cộng đồng. Đây chính là một “hướng
mục vụ” cần phải chú trọng trong việc huấn luyện các ứng sinh linh mục giữa bối
cảnh thời hậu hiện đại có nhiều chủ trương đạo đức khác nhau này.
Cha Michel
Mallèvre (bài 5), đã giúp cử toạ tìm hiểu sâu hơn về một trong các chủ trương
này là các anh em Tin Lành, đặc biệt là Tin Lành Phúc Âm (Protestantisme
Évangelique) đang phát triển trên quê hương Việt Nam. Tìm hiểu họ để tự hỏi xem
đâu là những điều kiện giúp chúng ta có thể hiểu biết, đối thoại và cùng “làm
chứng”, hầu mở mang Nước Chúa trong một thế giới “đa nguyên” và “toàn cầu hoá”
hôm nay.
Từ những nhận định
và xác tín mà các diễn giả đã nêu lên trong tuần thứ nhất, bước sang tuần thứ
hai, các tham dự viên đã được lắng nghe những kinh nghiệm cụ thể về việc rao giảng
Tin Mừng trong bối cảnh đa văn hoá và đa tôn giáo của các nước Á Châu.
Trước tiên, cha
Edgar Javier giúp cử toạ phân định rõ thêm để “đi ra” trên cánh đồng truyền
giáo (bài 7). Vì trong bối cảnh mới mẻ ngày nay, sứ mạng này không chỉ đơn giản
là “đến với muôn dân” (Ad Gentes) theo nghĩa “cứu các linh hồn” hay “trồng Giáo
Hội” mà còn đòi chúng ta phải ở giữa muôn dân (Inter Gentes) với một tâm thế và
phương thức uyển chuyển hơn, nhất là tại Á Châu, mảnh đất đa văn hoá và đa tôn
giáo này.
Để có một cái
nhìn cụ thể hơn về câu hỏi sâu rộng này, cha Paul Han Mintaeg đưa cử toạ về với
một kinh nghiệm thực tế và gần gũi trong nỗ lực Phúc Âm hoá và Tân Phúc Âm hoá
tại quê hương Hàn quốc của mình (bài 8). Đối diện với một thế giới đa dạng,
Giáo Hội Công giáo Hàn quốc khá nhạy bén, uyển chuyển và năng động. Họ có những
chứng nhân biết đối thoại, có khả năng “trở nên mọi sự cho mọi người” (x. 1Cr
9,22), và nhất là dám lăn xả và dấn thân vào đời sống xã hội. Cần đào tạo và
giúp các linh mục tương lai của chúng ta vừa có được đời sống đức tin bén rễ
sâu trong cầu nguyện, vừa có đức ái sống động dấn thân của một người lãnh đạo
tinh thần, dũng cảm và thánh thiện.
Với những xác
tín sâu xa về ơn gọi truyền giáo cộng với những trải nghiệm sống động và phong
phú sau nhiều năm xả thân loan báo Tin Mừng, cha Grégoire Nguyễn Văn Giảng đã
lôi cuốn cử toạ vào một hành trình truyền giảng Tin Mừng đầy phiêu lưu và thú vị
(bài 9). Những kinh nghiệm quý giá này cho thấy rõ hành trình ơn gọi truyền
giáo cần khởi đi từ những xác tín đến từ những trải nghiệm sống động của nhà thừa
sai với Chúa Giêsu. Chỉ có kiến thức và kỹ năng truyền giáo mà thôi thì chưa đủ,
nhà thừa sai còn cần có tương quan sống động và thâm sâu với Chúa Giêsu, có những
kinh nghiệm gặp gỡ và gắn bó với Người bằng cả trái tim yêu mến và say mê nữa.
Đây cũng chính
là điều mà Đức Cha Anphong, một người từng trải trong lãnh vực đào tạo và truyền
giáo, củng cố thêm (bài 10). Theo ngài, mọi bàn thảo và thao thức về truyền
giáo sẽ chỉ là lý thuyết nếu thiếu những con người nhiệt tâm thực hiện. Vì thế,
ngài mạnh dạn khẳng định: việc đào tạo trong các Đại chủng viện tại Việt Nam
hôm nay xem ra chưa chú trọng đủ tới sứ vụ truyền giáo. Tâm thức chung của các
chủng sinh vẫn là vào chủng viện để ra làm “cha xứ”. Đời sống và sứ vụ sau đó
thường chỉ ưu tiên cho việc cử hành phụng vụ và xây dựng cơ sở vật chất, ít lưu
tâm tới việc đào tạo con người, lơ là trong việc rao giảng và hầu như chưa quan
tâm đủ tới việc truyền giáo. Vì thế, chúng ta phải định hướng và hun đúc các chủng
sinh ngay từ đầu về ý thức truyền giáo, về thao thức tông đồ và lòng quả cảm dấn
thân cho sứ vụ.
KẾT LUẬN
Từ hai ngàn năm
nay, Giáo Hội vẫn luôn cố gắng thực thi sứ mạng Phúc Âm hoá với bao lớp người
đã hăng hái tiếp bước lên đường. Dù gặp bao gian truân nguy hiểm, bị lao tù,
đòn vọt, phải vất vả nhọc nhằn, bị đói khát... (x. 2Cr 11,23), máu đã đổ, đầu
đã rơi, nhưng không gì có thể tách họ ra khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm
8,35).
Tuy nhiên, lịch
sử Giáo Hội cũng không ít lần chứng kiến những đổ vỡ đau thương, những nhiệt
tình vô lối khiến tin vui trở thành tin buồn và khuôn mặt nhân ái của Thầy Chí
Thánh bị méo mó, biến dạng, như ĐGH Biển Đức XVI đã khẳng định: “Sứ mạng rao giảng
Phúc Âm nếu không được định hướng bởi lòng mến, không phát sinh từ một hành động
sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì chỉ còn là một hành vi xã hội không hơn
không kém” (Sứ điệp Truyền giáo 2006). Hơn thế nữa, niềm vui Phúc Âm là điều
chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Sẽ chẳng bao giờ có được niềm vui ấy, nếu
chúng ta không biết xả thân và trao ban (x. Evangelii Gaudium).
Từ những xác
tín trên, chúng tôi, những nhà đào tạo linh mục, ý thức sẽ luôn gắn bó với Thập
giá của Đức Giêsu như Đức Maria và các thánh Tử Đạo Việt Nam. Nhờ thế, chúng
tôi mới có đủ sức mạnh thiêng liêng để có thể chu toàn nhiệm vụ khó khăn là đào
tạo cho Giáo Hội Việt Nam những linh mục thánh thiện, luôn sẵn sàng ra đi loan
báo Phúc Âm, bằng một nhiệt tình mới, với một phương thức mới và một cách diễn
đạt mới trong bối cảnh toàn cầu hoá và đa nguyên hôm nay.
Ban Thư Ký Khóa Thường Huấn 2016