Đức Hồng Y Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn Trả Lời Phỏng Vấn Nhân Dịp
Kỷ Niệm Ngân Khánh Giám Mục Của Ngài
Đức Hồng Y Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám
mục Tổng Giáo phận Hà Nội, sinh tại Đà Lạt năm 1938. Ngài thụ phong Linh mục
tại Đà Lạt ngày 21-12-1967. Cũng tại đây ngài thụ phong Giám mục ngày
03-12-1991 cho giáo phận Đà Lạt. Ngày 22-4-2010 Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm
Tổng Giám Mục Phó Tổng Giáo Phận Hà Nội và từ ngày 13-05-2010 ngài là Tổng Giám
Mục Tổng Giáo Phận này. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã phong Hồng Y cho ngài năm
2015.
Ban
Truyền thông Tổng Giáo phận Hà Nội đã có cuộc phỏng vấn Đức Hồng Y tại Tòa Tổng
Giám mục Hà Nội hôm 30 tháng 11, nhân dịp kỷ niệm ngân khánh giám mục của ngài
ngày 3 tháng 12 năm 2016. Dưới đây là nội dung của cuộc phỏng vấn:
-
Kính thưa Đức Hồng Y, chúng con rất vui mừng được cùng chia sẻ với Đức Hồng Y
trong dịp mừng ngân khánh ngày hồng phúc lãnh nhận chức giám mục. Chúng con xin
được chúc mừng Đức Hồng Y.
Thưa
Đức Hồng Y, chắc hẳn trong dịp này, những kỷ niệm 25 năm về trước đang ùa về
với Đức Hồng Y. Chúng con xin Đức Hồng Y chia sẻ cho chúng con một chút những
kỷ niệm đẹp ấy được không ạ !
- Đức
Hồng Y:
Nói
về kỷ niệm của 25 năm giám mục thì có rất nhiều kỷ niệm. Có những kỷ niệm không
thể nào quên được. Một trong những kỷ niệm đó là một kỷ niệm vào chính dịp
phong chức giám mục cho tôi, ngày 3 tháng 12 năm 1991 tại nhà thờ Chính tòa Đà
Lạt.
Vì
nhà thờ Chính tòa Đà Lạt chưa bao giờ có một lễ lọng trọng như vậy, vì ban tổ
chức tiên liệu các Đức Giám mục sẽ về, cũng như các linh mục, tu sỹ trong toàn
giáo phận và số đông giáo dân sẽ hiện diện, nên việc tìm một địa điểm để tổ chức
ngày lễ thật là khó. Sau khi có sự trao đổi với chính quyền, thì đi đến sự đồng
ý là tổ chức ở sân vận động. Thi hành kế hoạch đó, anh em giáo dân đã rất nhiệt
tình dựng khán đài, làm bãi đỗ xe, và nhiều thứ khác. Mọi sự coi như đã sẵn
sàng. Nhưng khi chỉ còn 2 ngày nữa thì được biết giấy phép cho việc tổ chức đó
đã bị rút lại mà không biết rõ lý do. Chỉ biết là mình phải thi hành. Đối với
nhiều người, điều đó khiến họ rất hụt hẫng, lo lắng. Nhưng riêng đối với cá
nhân tôi thì đó lại là một tin vui.
Nó là
một tin vui vì việc tổ chức ở sân vận động là chuyện cực chẳng đã. Bây giờ phải
về lại nhà thờ Chính tòa, đối với ban tổ chức là rất khó khăn. Nhưng đối với
tôi đó là một hồng ân.
Dù
sao đi nữa thì tôi cũng là đứa con của giáo xứ Chính tòa Đà Lạt. Tôi được sinh
ra, được rửa tội, được thêm sức, được chịu chức linh mục, và giờ đây tôi chịu
chức giám mục ở chính nơi mà tôi đã đón nhận tất cả những hồng ân đó. Cũng
chính nới đó, hai Đức cha phụ phong đều là thầy của tôi: Đức cha Nicola Huỳnh
Văn Nghi và Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, trước là cha phó của nhà thờ Chính
Tòa Đà Lạt. Hai cha phụ tá cho tôi cũng là hai người con của giáo xứ Chính Tòa
mà nay là Đức Tổng Phao-lô, Tổng Giáo phận Sài Gòn và Đức Cha Giuse, Giáo phận
Nha Trang.
Tôi
cứ nghĩ rằng, nếu mọi sự đã diễn ra như người ta đã chuẩn bị, thì chắc là tôi
sẽ cảm thấy buồn khi người ta hỏi tôi là chịu chức ở đâu, và tôi phải trả lời
là: chịu chức ở sân vận động. Còn ngược lại, tôi đã được đưa về chính nơi mà
biết bao nhiêu kỷ niệm luôn vây quanh lấy mình. Bây giờ nhắc lại những biến cố
long trọng nhất của cuộc đời tôi thì nó đều nằm ở nơi đó.
Cho
nên tôi nhìn sự di rời như vậy là một hồng ân, một sự quan phòng. Điều đó tôi
không bao giờ quên. Cám ơn Chúa và cám ơn tất cả mọi người.
Kỷ
niệm đó cũng là một điều thúc đẩy tôi luôn luôn phải tin vào sự quan phòng của
Chúa, dù biến cố đó có sảy ra thế nào đi nữa.
- Con
thưa Đức Hồng Y, chúng con được biết là chỉ một năm nữa Đức Hồng Y đã tròn 50
năm linh mục. Với gần 50 năm trong sứ vụ linh mục và 25 năm trong sứ vụ giám
mục, chắc hẳn ngần ấy thời gian Đức Hồng Y đã có rất nhiều những thăng trầm.
Vậy xin Đức Hồng Y có thể chia sẻ cho chúng con những bí quyết để mình luôn giữ
vững lòng trung thành với ơn gọi của mình không ạ!
- Đức
Hồng Y:
Nói
về bí quyết thì rõ ràng tôi không có bí quyết nào cả. Vì những điều tôi làm thì
mọi người đều có thể làm được. Những ai tha thiết với ơn gọi của mình, những ai
muốn thăng tiến trong đời sống thiêng liêng của mình thì cũng buộc phải làm
những điều đó. Cho nên đây không phải là một bí quyết, mà nó chỉ là đời sống
bình thường. Tuy nhiên mình phải tin. Chính vì mình tin vào những điều bình
thường ấy thì mình mới có thể thực hiện được. Vậy đó là điều gì? Chúng ta được
nhắc đi nhắc lại hàng trăm hàng ngàn lần là: Ai yêu mến Ta thì tuân giữ lời của
Ta. Khi nào chúng ta lắng nghe Lời Chúa và chúng ta thi hành Lời Chúa thì những
điều chúng ta làm luôn luôn là điều tốt đẹp.
Tôi
thường nghĩ đơn sơ: Mỗi lần nói về Lời Chúa thì tức khắc tôi hiểu ngay Lời đó
không phải là lời nói ra từ cửa miệng nhưng là Ngôi Lời nhập thể. Nghĩa là
chúng ta thấy những lời Kinh thánh mà chúng ta đọc là chính Chúa Giê-su hiện
diện. Ngài nói với chúng ta như Ngài đã nói với các Tông đồ. Và nếu Ngài nói
với tôi thì Ngài muốn rằng những điều mà Ngài nói đó là dành riêng cho tôi,
trong hoàn cảnh của tôi, trong tâm trạng của tôi, trong khó khăn của tôi, trong
cái bối rối của tôi, trong sự chọn lựa của tôi. Thì giờ đây Ngài nói những lời
đó và tôi đã nghe. Cho nên tôi cầu nguyện để làm sao mình thực hiện được những
điều đó.
Tôi
lấy một ví dụ: Trong cuộc đời mình có nhiều chọn lựa mà nhiều khi không biết là
chọn lựa như thế nào. Mình không biết phải nên nghe ai. Có một lần, tôi nhớ vào
năm 1959, vào khoảng tháng Hai, Đức Hồng Y Agagianian, Đặc sứ của Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII qua Việt Nam để cử hành năm Thánh Mẫu. Ngài có lên Đà Lạt và
đến thăm Giáo Hoàng Chủng Viện. Trong phòng khánh thiết để đón Đức Hồng Y có
một hàng chữ rất lớn bằng tiếng Latinh: Obedientia et Pax – Vâng lời và bình
an. Và mấy mươi năm qua, khi nào mà tôi gặp phải những cái mà tôi phải chọn lựa
thì tôi luôn luôn nhớ câu đó: Vâng lời thì được bình an.
Khi
tôi chịu chức giám mục thì cũng cần phải có một định hướng hay một ước mơ, hay
một quyết tâm, một châm ngôn cho đời mình. Thì tôi đã chọn: “Ngài phải lớn
lên”. Và mình phải hiểu tức khắc: tôi phải nhỏ lại. Tôi thấy rằng, trong cuộc
đời có biết bao nhiêu cơ hội để cho chúng ta thực hiện điều đó. Khi chúng ta
thực hiện điều đó, thì chúng ta phải tin rằng đó là Lời Chúa; đó chính là Ngôi
Lời nhập thể đã nói với tôi; và đó là điều mà tôi phải tin tưởng vì nó là chân
lý, là con đường, là sự sống. Khi tôi làm theo điều đó, chẳng những đúng mà tôi
còn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhờ chúng ta quen với Lời Chúa, cho nên
mỗi lần có biến cố gì thì tức khắc Lời thích hợp xuất hiện trong đầu mình. Khi
ấy ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con thi hành Lời Chúa. Tôi nghĩ rằng,
cũng như bao người, nếu chúng ta nói yêu mến Chúa thì chúng ta lắng nghe Lời
Chúa và đem ra thi hành. Khi ấy mọi sự sẽ tốt đẹp.
- Chúng
con cám ơn Đức Hồng Y đã chia sẻ cho chúng con những trải nghiệm rất quý báu
này. Nhưng thưa Đức Hồng Y, chúng con e là anh chị em giáo dân lại ghen tị với
chúng con nếu Đức Hồng Y chỉ chia sẻ kinh nghiệm cho những người đi tu. Xin Đức
Hồng Y chia sẻ chút tâm tình với anh chị em giáo dân về thời gian hồng phúc này
của Đức Hồng Y được không ạ !
- Đức
Hồng Y:
Thực
sự tôi không làm được việc gì nổi bật cho giáo dân và tôi cũng rất tiếc về điều
đó.
Ngay
cả khi tôi mới được làm giám mục năm 1991, thì qua năm 1992 lần đầu tiên tôi
tham dự Hội nghị thường niên của các giám mục. Năm đó là năm bầu Ban thường vụ.
Thời đó Ban thường vụ mới chỉ có 3 Ủy ban: Ủy ban Phụng vụ, Ủy ban Giáo dân, và
Ủy ban thứ ba tôi không nhớ rõ lắm. Bây giờ đã lên tới 17 Ủy ban. Thì khi đó
tôi được chọn là chủ tịch Ủy ban Giáo dân mà tôi có làm được gì đâu. Cho nên
tôi vẫn tiếc.
Tuy
nhiên tôi cũng cám ơn Chúa đã bù trừ cho tôi. Nhờ làm giám mục mà tôi có cơ hội
đặc biệt để nghĩ đến anh chị em giáo dân, để có thể phục vụ họ.
Trước
hết, nếu tôi không làm giám mục thì tôi cũng yêu mến người Thượng. Khi tôi làm
linh mục thì tôi cũng thường đưa các thày vào trong các làng Thượng để làm công
tác xã hội. Nhưng nó cũng chỉ dừng lại ở đó thôi. Khi làm giám mục, tôi vẫn nhớ
bài cám ơn của tôi sau lễ phong chức, tôi xin mọi người cầu nguyện cho tôi 3
điều: cho tôi được phục vụ giới trẻ, cho tôi được phục vụ người kinh tế mới, và
cho tôi được phục vụ anh chị em dân tộc. Ước mong đó nó được kéo dài cho tới
ngày nay. 25 năm đối với tôi, anh chị em dân tộc thực sự là anh chị em của tôi.
Tôi không bao giờ có thể quên và tôi cảm nghiệm được rằng: tôi là người cha của
họ. Và họ cũng cảm thấy tôi là người cha của họ. Đó là một kinh nghiệm vô cùng
quý báu mà nếu không làm giám mục thì tôi không có điều đó.
Điều
thứ hai là vào cuối cuộc đời của tôi. Với một sự quan phòng mầu nhiệm, Chúa đã
gửi tôi ra phục vụ Giáo hội miền Bắc. Nếu tôi không làm giám mục thì giáo hội
miền Bắc đối với tôi là một giáo hội gần như tôi không biết gì hết. Mà nếu mình
không biết thì làm sao mình yêu mến; mà mình không yêu mến thì làm sao mình
phục vụ được.
Tôi
không dám nói là ngày nay tôi đã biết giáo hội miền Bắc, hay là tôi đã thật
lòng yêu mến và phục vụ. Nhưng rõ ràng, trong những năm qua tôi đã học hỏi rất
nhiều; tôi cũng đã tiếp xúc khá nhiều; tôi cũng đã phục vụ khá nhiều; và tôi
cảm thấy mình có sự kính phục, có lòng yêu mến, có sự tin tưởng vào giáo hội
miền Bắc. Giáo hội miền Bắc và giáo hội miền Nam cũng chỉ là một giáo hội của
Đức Ki-tô ở hai miền bổ túc cho nhau, giúp đỡ cho nhau. Do đó, tôi thấy Giáo
hội Việt Nam thật là đẹp. Tôi cám ơn Chúa đã cho tôi có những trải nghiệm đó.
- Dạ
vâng, chúng con rất hãnh diện và vui mừng về dịp hồng phúc này của Đức Hồng Y.
Chúng con xin được hiệp ý với Đức Hồng Y trong những ngày này để tạ ơn Thiên
Chúa. Chắc chắn hồng ân mà Đức Hồng Y đã đón nhận cũng có phần của chúng con
trong đó. Bởi vì Chúa đã gửi đến cho chúng con rất rất nhiều quà qua bàn tay
của Đức Hồng Y.
Một
lần nữa chúng con xin được chúc mừng Đức Hồng Y. Chúng con trân thành cảm ơn
Đức Hồng Y đã chia sẻ với chúng con.
- Đức
Hồng Y: Nhớ tiếp tục cầu nguyện cho tôi.
BBT
(tonggiaophanhanoi.org 02-12-2016)