Đầu Năm 2009, Tổng
Kết Tình Hình 2008
Xin Cho Những Âu Lo
Và Nước Mắt Của Chúng Ta Trở Thành
Niềm Hy Vọng
Phụng-Sự Và Xin Nguyện Phó-Thác
@by Trần Thị Minh Tâm
Reseach by Trần Quốc
Lâm
Trong
những ngày vừa qua và sắp tới, tất cả chúng ta không ai mà không khỏi ưu-tư vì
những tin tức về nền kinh-tế Hoa Kỳ nếu không nói là của cả Thế-giới. Mỗi ngày
chúng tôi nhận được rất nhiều cú điện thoại, thư, điện-thư (email), và faxes
gởi đến từ quý vị để hỏi về chuyện mất-mác thua lỗ các cổ-phiếu, quỹ tín-dụng,
quỹ hưu bổng, và làm sao thương lượng với các ngân hàng và các chủ nợ để giảm
thiểu các món tiền quý-vị phải trả hàng tháng.
Ảnh hưởng về kinh-tế đem đến ảnh-hưởng về
nhiều nan-đề khác. Tỷ số các vụ án gia tăng đến một cách không thể nào ngờ: (1)
các vụ án khai phá sản; (2) các vụ án liên quan đến nhà cửa và các tiệm bị ngân
hàng tịch thu (foreclosures); (3) các vụ án liên quan đến sự bất-tín và bội-ước
của các ngân-hàng (đột-nhiên ngưng “credit line”); (4) các vụ án liên quan đến
các nhà thầu xây cất (các ngân-hàng ngưng không tiếp-tục tài trợ); (5) các vụ
án liên quan đến giới chủ nhân và công-nhân vì các vụ sa-thải nhân-viên; (6)
các vụ án liên quan đến các vấn-đề về cổ phiếu, quỹ hưu bổng, quỹ tiết kiệm, và
mutual funds; (8) các vụ án kiện tụng giới chủ nhân; và (9) ngay cả các vụ án
về ly-dị và các vụ-án về hình sự (criminal) cũng gia tăng rất nhiều.
Các
bạn thân-mến, thảm kịch kinh-tế là một thảm-kịch chung cho cả thế-giới và các
nước Hoa Kỳ, không phải riêng gì đối với chúng ta. Đừng sợ hải vì chúng ta gặp nguy nan trong
vấn đề tài chánh. Cơ sở thương mại của
các Bạn không trả nổi nợ ngân hàng? Các Bạn bị sa thải? Các Bạn mất tất cả các
cổ phiếu? Trong những lúc có nan-đề, ngoài việc tìm một luật-sư mà các Bạn
có-thể tin cậy, chúng ta hãy: 1) cầu-nguyện mỗi ngày; 2) tập thể-dục và ăn uống
điều-độ; 3) mỗi người trong gia đình cùng hiệp-sức để cầu-nguyện trước. Nếu được, chúng ta nên xin đại gia-đình (nếu
có), bạn bè, thân hữu cùng cầu nguyện cho chúng ta; và đừng trách móc và đổ lỗi
cho người phối-ngẫu và con cái, và đừng bao giờ tuyệt vọng.
Chúa đã đem chúng ta đến xứ sỡ này, Chúa
sẽ không bỏ chúng ta đâu. Năm nay là một
năm mang đến nhiều khó-khăn và lo-âu, nhưng cũng mang nhiều hy-vọng.
Thiên Chúa lúc nào cũng đem đến cho chúng ta tin-yêu và hy-vọng. Lần đầu tiên chúng ta có một vị nguyên thủ
tài ba người da màu- Ông B. Obama. Chúng
ta cầu-nguyện cho Ông và mong-ước rằng vị nguyên-thủ của chúng ta sẽ tìm được
một giải-pháp sáng-suốt cho quê-hương yêu-dấu thứ hai của chúng ta.
Ngòai ra, cuối năm
2008, cả quốc gia Hoa Kỳ xôn-xao về quyển sách “The Shack” viết bởi Ông William
P. Young. William P. Young, The Shack (Windblown Media Ca. 2007). Quyển sách được xuất-bản từ năm 2007, đến năm
2008 mới thật-sự được nhiều người nhắc đến. The Shack nói về tình yêu
trác-tuyệt của Thiên Chúa đối với con người; tình yêu mà Thiên Chúa mong-ước
mọi người áp-dụng để yêu thương nhau và yêu-thương đồng-loại (giữa người với
người). Quyển sách cũng mang đến giải-đáp một câu-hỏi cổ-hữu của con người:
“Tại sao thảm kịch xảy đến cho những người hiền-lương?”. Quyển sách còn
bàn-luận về sự tha-thứ; làm sao để đối phó với nan-đề; và làm sao để thật sự
sống theo thánh ý Chúa và thế nào là theo Thiên Chúa (follow Jesus) hoặc là
có-Chúa-trong-chúng-ta.
Quyển sách còn đề-cập đến thảm kịch của
con người khi chọn sự tự-do (freedom) khi tách rời khỏi Thiên Chúa. Quyển The
Shack nhắc nhở chúng ta rằng Thiên-Chúa là Đấng Nhân-Hậu hay Xót Thương; và
Thiên Chúa là tình yêu và là sự tương-quan (love and relationship). Vì yêu
chúng ta với tất cả tình-yêu duy nhất của Người, Thiên Chúa cho chúng ta có sự
tự-do chọn lựa. Chính vì thế mà Người không ngăn cản khi chúng ta chọn lựa “sự
xấu” (Có một người bạn bày-tỏ với tôi rằng: Nếu Thiên Chúa biểu-lộ cho chúng ta
biết rằng – Người là thật (God is real, thì sự chúng ta tin theo Người không
phải là do tình yêu tự-nguyện và không phải là do sự tự-do chọn-lựa của chúng
ta (voluntary and freedom) mà là do sự sợ-hãi (fear). Sợ-hãi Chúa vì nếu Chúa
có thật. Chúa sẽ thưởng hay phạt chúng ta căn cứ vào việc chúng ta tin hay
không tin nơi Người. Thiên Chúa không muốn như vậy. Người muốn được yêu thương
bởi sự tự-nguyện và được tin-cậy do sự chọn-lựa của chúng-ta: Chúa muốn “những
ai không thấy mà tin”)
Quyển
The Shack là câu chuyện của một người cha, Ông McKenzie Allen Philipps, có đúa
con gái năm tuổi bị bắt-cóc và bị giết
bởi một “serial killer” tại một căn chòi nhỏ (the shack). Thi thể của em đã
không được tìm thấy. Trong những năm tháng dài tiếp theo đó, người Cha của em
mang chứng-bệnh trầm-cảm và Ông sinh-lòng oán-hận Thiên Chúa. Một hôm, Ông nhận
được một mẫu giấy ký tên Thiên Chúa (tên thân-mật mà người vợ thân-yêu của Ông
đã gọi Đức Chúa Cha là “Papa”) Người hẹn gặp Ông ở nơi chòi-tranh (the shack),
nơi cô con gái yêu của Ông bị giết. Ở đây, trong những ngày cuối tuần, Ông đã
gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi, và được đối thoại với cả Ba Ngôi: Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần.
Quyển
sách The Shack diễn tả những mẫu đối thoại của McKenzie với Thiên Chúa. Ví-dụ
Ông mĩa- mai Đức Chúa Cha là Người đã bỏ quên Ngôi Hai khi Chúa Jesus ngẩng mặt
lên Trời than-thở: “Eli, Eli, lema sabachthani?” (“My God, my God, why have you
forsaken me?”) Matthew 27:46 (NLT). McKenzie
cho rằng Thiên Chúa đã bỏ quên chính con một của mình trên Thập Tự Gía giống
như Thiên Chúa đã bỏ quên cô con gái nhỏ (Missy) của Ông ta. Thiên Chúa buồn bã
cắt nghĩa cho MacKenzie rằng: Thiên Chúa không bao giờ lìa-bỏ bất cứ ai, thì
làm sao Người có-thể lìa bỏ Ngôi Hai, con Một của Người? Người đã ở bên cạnh
Ngôi Hai trong những giờ phút đau-thương trên Thập Tự Gía đó! Cũng như cả Ngôi
Ba Thiên Chúa đã ở bên cô con gái của McKenzie trong lúc thập-tử-nhất-sanh.
Cũng như ngay trong giờ-phút chúng ta đau-khổ nhất (lúc chúng ta tưởng là tuyệt
vọng trong lúc làm ăn thua lỗ), chúng ta ngờ-rằng Chúa vắng mặt, nhưng thật ra
Thiên Chúa đang ở với chúng ta. Khi chúng ta chỉ đặt trọng tâm vào sự đau-đớn
mất-mác của chính mình, chúng ta quên hẳn sự hiện diện của Người ở bên cạnh ta.
(“When all you can see is your pain, perhaps then you lose sight of me [God].”)
Thiên Chúa cũng nhắc-nhở cho McKenzie nhớ rằng: “Đừng quên là câu chuyện không
ngừng ở trên Thập Tự Gía và cảm tưởng bị bỏ quên của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngôi
Hai Thiên Chúa đã sống lại một cách vinh-hiển và đã trở về Trời, và đã được đón
nhận trong vòng tay thân-yêu của Đức Chúa Cha. Ôi! Thật là một giây phút tuyệt
vời!” Và điều này đã chứng minh cho sự khải-hoàng và sự oai-linh trác-tuyệt của
Thiên Chúa Ba Ngôi. “Don’t forget, the
story didn’t end in his sense of forsakenness. He [Jesus] found his way through
it and put himself completely into my hands. Oh, what a moment that was!”)
Quyển
sách còn nói về tình yêu. Thiên Chúa là tình-yêu. (“I am love . . . . The God
who is –the I am who I am – cannot be apart from love!”) Do đó, sống mà không có tình yêu thương Thiên
Chúa trong tim ta, hay là sống mà không yêu thương những người chung quanh ta
(living unloved), thì chúng ta giống như một con chim bị lìa cành. Cùng một ý
tưởng đó, sống mà không tin cậy tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa (trust) là
sống không tình yêu. Cùng một ý tưởng đó, sống với sự không tha-thứ, với lòng
ghen-ghét, sự hận-thù, và lo-âu cũng như sợ-hãi là một cách sống không tình-yêu
thương và tin cậy vào Thiên Chúa; đó là một lối sống ‘unloved.” (“The person
who lives by their fears will not find freedom in my love. . . . To the degree
that those fears have a place in your life, you neither believe I am good nor
know deep in your heart that I love you. You sing about it; you talk about it,
but you don’t know it.”) Sống không tình
yêu, chúng ta không thể bay bổng, không thể thăng hoa, và không thánh hóa được.
Ngòai ra, khi chúng ta tha-thứ cho người nào làm chúng ta đau khổ, chúng ta giải
tỏa cho mình trước. (“Forginess is first for you, the forgiver. . . . [F]orginess is an incredible power- a
power you share with [God], a power Jesus gave to all whom he indwells so that
reconciliation can grow.”) Kế đó, sự
tha-thứ của chúng ta đã như một sự trao lại người ấy cho Thiên Chúa để Người
sửa đổi họ. Và tất cả tình yêu thương và tha-thứ, chúng ta sẽ có được, nếu
chúng ta nhờ vào sự cậy giúp của Đức Chúa Thánh Thần.
Khi McKenzie hỏi Thiên Chúa: Làm thế nào để
“sống-đạo.” Thiên Chúa trả lời: Hãy mời
Thiên Chúa vào tâm-hồn của chúng ta, để chúng ta có được sự tương-quan mật
thiết hằng ngày với Thiên Chúa. Ngài không muốn là số-một trong đời chúng ta.
Ngài muốn “tất-cả-chúng-ta” (cả linh hồn và tâm trí của chúng ta). (“My purpose
from the beginning was to live in you and you in me.”) Thiên Chúa muốn ở trung-tâm điểm của cuộc đời
của chúng ta. Nếu Thiên Chúa ở trong ta và ta ở trong Người, chúng ta sẽ phải
từ -bỏ sự độc-lập. Chúng ta sẽ nhìn như Thiên Chúa, nghe như Thiên Chúa,
đụng-chạm như Thiên Chúa, và suy nghĩ như Thiên Chúa. Người không bao giờ
bắt-buộc chúng ta phải nhận sự-hiệp-nhất với Người. Đó phải là do sự tự-nguyện
của chúng ta. Người muốn chia sẽ với chúng ta niềm vui của sự thành công, nổi
lo-âu về tài-chánh, sự đau buồn vì sự lăng nhục, sự đau đớn về thể xác, sự đau
khổ trong tâm hồn khi chúng ta mất một người thân yêu, khi chúng ta gặp một nan
đề về công ăn việc làm, hoặc khi chúng ta bị oan-khiên. (“Being my follower is
not trying to be like ‘Jesus,’ it means for your independence to be
killed. I came to give you life, real
life, my life. We will come and live our life inside of you, so that you begin
to see with our eyes, and hear with our ears, and touch with our hands, and
think like we do. But we will never force that union on you. If you want to do
your thing, have at it. Time is on our side.”)
Những lúc đau-đớn tận-cùng, hãy chia-xẻ và nói chuyện cùng Thiên Chúa,
và hãy phó thác cho Thiên Chúa (“. . . . as much as you are able, rest in what
trust you have in me [God], no matter how small . . . .”).
Quyển
sách The Shack còn nói về tương quan giữa vợ-chồng: “trong sự liên-hệ của
vợ-chồng, không nên cho rằng ai là người đúng, ai là người sai; nhưng tình vợ
chồng phải đứng trên căn bản tình yêu và là sự tương-quan (love and
relationship).
Quyển sách còn đề cập đến sự phê bình.
Mỗi khi gặp đau-khổ và đối-đầu với một thảm-kịch, chúng ta phê bình và óan
trách Thiên Chúa. Mỗi ngày, chúng ta phê bình những người chung quanh theo
tiêu-chuẩn của chúng ta. Chúng ta cho là chúng ta đạo đức hơn. Bằng sự phê-bình
và mạ-lị, chúng ta ném đá vào những người bị chúng ta phê-bình. Phê bình một
người khác là chúng ta cho rằng chúng ta tốt-đẹp, cao-cả, và trong-sạch hơn họ.
(“Judging requires that you think yourself superior over the one you judge.”)
Nhưng bằng tiêu chuẩn nào? Tiêu chuẩn của Thiên Chúa hay của con người? Mỗi
quốc gia có một tiêu chuẩn riêng. Cái mà chúng ta cho là tội-lỗi, ở một quốc
gia khác là sự hy-sinh? Làm sao chúng ta dám xét đoán người mà chúng ta cho là
có tội, khi chính họ đã được tha-thứ và đã có một liên-hệ mật thiết với Thiên
Chúa hơn cả chính chúng ta với Thiên Chúa? Sự tốt và xấu định nghĩa bởi con
người (bởi chúng ta), nhiều khi khác với định nghĩa tốt và xấu của Thiên Chúa.
Điều duy nhất muốn theo đúng quan niệm “tốt” của Thiên Chúa: đừng suy đóan
người khác theo lối của chúng ta mà hãy sống phó thác vào Thiên Chúa. Hãy từ
-bỏ sự tự-do của con người và lệ-thuộc vào Thiên Chúa. Ngày nào chúng ta ngưng
phán-đoán Thiên Chúa và Anh-Chị-Em đồng loại, đó là ngày chúng ta được có Chúa
ở trong chúng ta.
Tại sao thảm kịch xảy ra đến cho những
người hiền-lương? Một điều rất quan trọng trong The Shack: Thiên Chúa không tạo
ra những thảm kịch. Tại sao Chúa không cản ngăn? Chúa có những lý do mà chúng
ta không thể hiểu nổi trong lúc này. (“I could have chosen to actively
interfere in her [your daughter]’s circumstance. . . [It] was not an option for
purposes you cannot possibly understand now.”)
Nhưng Chúa đã biến những thảm-kịch thành Hồng-Ân. Từ những thảm kịch đau
đớn, Người Cha vĩ đại Trên Trời của chúng ta đã biến thành những chương trình
để làm cho chúng ta được tốt đẹp hơn. Hãy từ -bỏ sự tự-do của chúng ta. Đừng
phán-đoán Thiên Chúa và hãy tìm hiểu Người là ai. Chúng ta sẽ ôm-choàng được
tình yêu của Người giữa sự đau-thương của chúng ta, thay vì xua-đuổi Người ra
khỏi tâm-hồn của chúng ta theo cách suy nghiệm của chúng ta. (“God has never
needed evil to accomplish his good purposes.
It is you humans who have embraced evil and [God] has responded with goodness.
. . . Return from your independence, give up being his judge and know [God] for
who He is. Then you will be able to
embrace his love in the midst of your pain, instead of pushing him away with
your self-centered perception of how you think the universe should be.”) The Shack nhắc đi nhắc lại –điều mà chúng ta
nên làm trong những lúc thất bại và đau khổ là: ‘Phó Thác và Tin Cậy”. Xin cho
đức tin của chúng ta vững mạnh trong những giờ phút đau thương và lo buồn. Hãy
nhớ rằng cuộc đời của chúng ta chỉ là nơi tạm trú cho một sự sống thật sẽ đến
trong tương lai. . (“This life is only an anteroom of a greater reality to
come. No one reaches their potential in your world. It’s only preparation for what [God] had in mind
all along.”) Hãy nhớ rằng có Chúa bên cạnh chúng ta, chúng ta không sợ hãi điều
gì (“Jesus [is] []here, so [I] ha[ve] nothing to worry about.”) Đoạn kết của
quyển sách thật là diểm-tuyệt. Ông McKenzie biết được con gái Ông đang ở trong
vòng tay Thiên Chúa. Ông khỏi chứng bệnh trầm cảm và tìm được tình yêu và sự
bình-an đích thực trong Thiên Chúa và trong gia đình.
Bạn quý mến, quyển sách The Shack, cũng
như phim The Passion of Christ, là những tuyệt tác phẩm đã an-ủi nhiều người
trong thời gian này. Làm sao để đối phó với nan-đề? Trước thảm trạng kinh-tế
xảy ra trên toàn cầu và cho chính chúng ta; hay là trước những sự chết-chóc;
phong ba và bảo-tố, chúng ta có hai cách chọn lựa: hoặc tức giận và thất chí,
hoặc cầu nguyện và đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Niềm tin là Thiên Chúa
có chương trình cho chúng ta và chúng ta tiếp tục ca-ngợi và cảm tạ Thiên Chúa,
cầu nguyện, tin cậy và phó thác, và hổ-trợ tinh thần cho nhau…. (“. . . . As much as you are able, rest in
what trust you have in me [God], no matter how small . . . .”). Thật là dịệu-kỳ, thưa quý bạn, nếu chúng ta
tiếp tục Vinh Danh, Ngợi Khen, Tạ Ơn Thiên Chúa, và Phó Thác trong những giờ
phút âu-lo nhất, và tiếp tục chúc-phước cho chúng ta và chúc phước cho nhau,
chúng ta sẽ được một sự bình an tuyệt vời từ bên trong tâm hồn của chúng ta.
Các bạn hãy thử nghiệm đi. Mỗi ngày hãy ngợi khen Thiên Chúa, hãy nói lớn lên
và nói với nhau, chúng ta sẽ qua khỏi sự khó-khăn này và chúng ta sẽ
thạnh-vượng. (“Just say out loud. There is power in what my children declare.”)
Qúy bạn sẽ thấy sự nhiệm mầu của Ngợi Khen. Cảm-tạ, Phó Thác và nhất là Tin-Cậy
vào Thiên Chúa. (“Therefore I say unto you, What things soever ye desire, when
ye pray, believe that ye receive them, and ye shall have them.”) Mark 11:24 (King James version).[i]
Xin
cho tâm-trí của chúng ta lúc nào cũng nhớ mãi lời Linh mục Tạ văn Bình, lúc
Ngài thay mặt các gia-đình nạn nhân “Sherman Bus Crash” để nói lên những lời từ
đáy tim của Ngài cùng Thiên Chúa: “Xin cho nước mắt của chúng con trở thành
niềm hy vọng phụng sự.”
Xin
Đức Chúa Thánh Thần cho chúng ta đức tin, một trái tim đầy tình yêu, và sự bình
an trong Chúa Giê-Su. Xin Đức Chúa Thánh Thần cho chúng ta ơn kiên-nhẫn
(patience) biết chờ đợi thời-giờ của Thiên Chúa; biết tử-tế (kindness), và có
một tấm lòng nhân hậu (goodness). Cho chúng ta biết trung thành cùng Thiên Chúa
và những người chung quanh (faithfulness); có được đức-tính dịu-dàng
(meekness); và biết kiềm-chế (self control).
Xin cho chúng ta có ơn khôn ngoan và một tâm hồn can đảm để phụng sự
Thiên Chúa. Hiện nay công lý đang thiếu thốn khắp mọi nơi, ở ViệtNam và ngay cả
ở đất nước Hoa Kỳ và trên thành-phố thân yêu của chúng ta -- Miền đất hứa mà
Thiên Chúa đã chọn. Công lý phải được
phục hồi trên Quốc Gia yêu dấu này, thưa quí bạn.
Xin cho chúng ta có hồng-ân để hiểu biết về
quyền-năng vô biên của sự cầu nguyện. Vì sự cầu nguyện có thể thay đổi tất cả.
Sự cầu-nguyện mở tất cả các cánh cổng. (“The greatest and the best talent that
God gives to any man or woman in this world is the talent of prayer,’ writes
Principal Alexander Whyte.”)[ii]
Xin
cho chúng ta có hồng-ân để hiểu biết về quyền-năng vô biên của tình yêu. Cho
chúng ta có ơn Đức Chúa Thánh Thần để biết yêu thương. Những học giã về Kinh
Thánh gọi 1 Corinthians Doan 13 từ câu 1-13 là đoạn diễn-tả về tình yêu
trác-tuyệt nhất trong Kinh Thánh:“. . . . [I]f I have all faith so as to remove
mountains, but do not have love I am nothing. And if I give all my possession
to feed the poor, and if I deliver my body to be burned, but do not have love,
it profits me nothing.” 1 Corinthians 13:1-13 (NLT) (“Giá như tôi có được tất
cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng là
gì. Giá như tôi đem hết gia-tài cơ-nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân-xác tôi để
chịu thiêu đốt, mà không có đức mến cũng chẳng ích gì cho tôi”). Nhà Thần Học
Billy Graham gọi đoạn nói về tình yêu trong 1 Corinthians Đoạn 13 là một đóa
hoa diễm-lệ nhất trong ngôi vườn hồng-ân của Thiên Chúa. (“When we reflect on
the meaning of love [in 1 Corinthians 13], we see that it is the heart what the
summer is to the farmer’s year. It brings to harvest all the loveliest flowers
of the soul. Indeed, it is the loveliest
flower in the garden of God’s grace.” Billy Graham, The Holy Spirit, p. 247
(Billy Graham 1988).
Xin
cho các bạn-hữu, những người anh-chị -em trong Chúa của chúng ta, và chính
chúng ta có can đảm để thực hành lời Mẹ Teresa đã dạy: “Vì Thiên Chúa còn yêu
thương loài người quá tha thiết, cho nên Người tiếp tục hiến thân mình cho
nhân-loại qua Anh- Chị- Em [và chính chúng ta]. Nguyện cho các Anh-Chị-Em [và
chính chúng ta] được là ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa tỏa đến cho mọi người,
để cuộc đời chúng ta trở thành công cụ tốt đẹp cho Thiên Chúa xử dụng.”[iii]
Xin nguyện mọi
vinh-quang và danh-dự đều thuộc về Thiên Chúa là Cha muôn thuở muôn đời!
[i]
God remembers His
Covenant (“Just Read Me.”) “My covenant will not break, nor alter the thing
that is gone out of my lips.” Psalm 89:34. One important law: You will
have what you speak. “A man’s belly shall be satisfied with the fruit of
his mouth; and with the increase of his lips shall he be filled. Death and life
are in the power of the tongue: and they that love it shall eat the fruit
thereof.” Proverbs 18:20, 21. “Life and death are in the power of the
tongue. You will have what you say! “I assure you that you can say to
this mountain, ‘May God lift you up and throw you into the sea,’ and your
command will be obeyed. All that’s
required is that you really believe and do not doubt in your heart. Listen to
me! You can pray for anything, and if you believe, you will have it. But when
you are praying, first forgive anyone you are holding a grudge against, so that
your Father in heaven will forgive your sins, too.” Mark 11:23.
(See also Matt.12:34; James 3:2-12.) (See also Andrew Wommack, A
Better Way to Pray (Andrew Wommack Ministries 2007)).
[ii] Brian Kolodiejchuk, M.C., Mother Teresa Come Be My Light, The Private Writings of “Saint of Calculta” at p.325[Emphasis added].
[iii] E.M. Bounds, E.M. Bounds On Prayers at p. 178 (Hendrickson Publisher, Inc. 2006). (“Everything then, as now, was possible to the men and women who knew how to pray. Prayer, indeed, opened a limitless storehouse, and God’s hand withheld nothing. Prayer introduced those who practiced it into the world of privilege, and brought the strength and wealth of Heaven down to the aid of finite man. What rich and powerful power was theirs who had learned the secret of victorious approach to God! With Moses it saved the nation; with Ezra it saved the church. . . .”)