VIẾT VỀ MỘT NGƯỜI BẠN…

 

 

Bạn thử hình dung xem, có một người từng đi bộ hơn 135.000 Km !!! Có thể bạn cho rằng tôi phóng đại hay… thích nói đùa. Nhưng bạn thử tính bắt đầu năm 1981, hàng tuần, người ấy phải cuốc bộ 60 km đường rừng, trèo non lội suối từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều để đến một nhà thờ gần nhất nhận Mình Thánh Chúa ; sau khi ngủ một đêm, sáng hôm sau lại từng ấy cây số mang Mình Thánh Chúa trở về làng, ròng rã 22 năm trời như vậy !

 

Không chỉ vậy, trong thời gian này và cho đến bây giờ, anh còn là một Giảng viên giáo lý nhiệt thành, một cộng tác viên đắc lực của các Linh mục. Đạo Thánh Chúa còn hiện diện và phát triển tại vùng đất này, có lẽ có sự góp phần rất lớn của anh ta…

 

Mãi đến năm 2003, khi các cha được phép đến để cử hành Thánh lễ và ban các Bí Tích, anh mới ngưng công việc đi nhận Mình Thánh Chúa.

 

Trước năm 1975, nơi vùng anh ta ở, có một ngôi nhà nguyện bằng gỗ bên kia sông Krông-nô (thuộc Daklak), tín hữu trong vùng vẫn thường đến để tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích. Đến năm 1976, ngôi nhà nguyện ấy bị phá dỡ, người ta mang gỗ, tôn và những vật dụng cần thiết về sử dụng cho nhu cầu cá nhân. Anh và một số bà con chỉ còn kịp giữ lại một vài cuốn Sách Thánh và một bức tượng Đức Mẹ. Rồi cũng chính vì bức tượng ấy, nhiều người bị làm khó dễ, đến nỗi phải mang tượng Đức Mẹ giấu vào trong rừng (Sau tháng 3.75, anh ở lại tại Trung Tâm Truyền Giáo Camly, giúp Sr. Lucien phân phát lương thực cho bà con dân tộc. Đến khi cạn kho gạo, và với hoàn cảnh lúc bấy giờ, anh  đành nghe theo lời khuyên của Sr. Lucien để trở về buôn làng của mình).

 

Đến năm 1978, dân làng cung kính rước tượng Đức Mẹ từ nơi cất giấu trong rừng trở về và đặt trong nhà nguyện được làm từ căn nhà riêng của anh. Nơi đây hàng ngày, hằng tuần vẫn có đọc kinh cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và Rước Lễ. Cũng có bàn thờ, có tượng Chuộc Tội, đặc biệt còn có một Nhà Tạm thật đơn sơ, mà tôi thì chưa thấy một Nhà Tạm nào đơn sơ đến như vậy !!! Bức tượng Đức Mẹ ấy hiện được mang về Sàgòn để làm mẫu tạc một bức tượng khác lớn hơn, sẽ đặt trong ngôi nhà thờ đang bắt đầu xây cất. Anh thuật lại việc rước tượng Đức Mẹ như sau :

 

“Mình nhớ vào tháng 3 năm 1978, nhà mình đã làm nhà nguyện cho bà con tụ họp đọc kinh, nhưng không có tượng Đức Mẹ, dân làng bàn với nhau vào rừng mang tượng Mẹ về. Thế là vào buổi trưa, trời nắng chang chang, một số người và anh vào rừng để rước Mẹ. Khi về đến đầu làng trời bỗng kéo mây đen và đổ mưa thật to, phải lấy áo mưa che tượng Đức Mẹ lại. Vậy mà khi vừa đưa tượng Đức Mẹ vào nhà xong, trời ngừng mưa và lại hửng nắng…” Quả thật, việc Thiên Chúa làm vô cùng kỳ diệu, chỉ với tấm lòng đơn sơ yêu mến, sùng mộ và đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa mới nhận ra được tình yêu thương của Người thật vô bờ bến.

 

Ngoài 8 người con ruột, anh ta còn cưu mang 4 đứa bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, nuôi nấng lớn khôn và hiện đã tạo dựng gia đình riêng. Các con của anh, đứa lớn nhất 22 tuổi, đứa bé nhất đang học lớp 1. Người con thứ năm của anh, đang học lớp 6 thì bị bệnh phải nghỉ học, bệnh không có vẻ gì trầm trọng, nhưng vì điều kiện chữa trị và thiếu tiền nên bệnh kéo dài. Bản thân anh ta đôi mắt cũng kèm nhèm, không đọc chữ được, chỉ dám thố lộ : “Mình ước ao có được con mắt coi cái chữ…”

 

Qua một vài người cao niên tôi còn được biết thêm, vào những năm 50 của thế kỷ trước, bố anh ta (ông Paul Krajan Krong) là người duy nhất theo giúp cha Fèbre khi ngài đến truyền giáo tại vùng đất này…

 

Hiện nay, anh ta hàng ngày túc trực tại nơi đang xây cất nhà thờ để phụ giúp các cha, phân chia công việc cho bà con và đêm đến lại thức trông coi phòng ngừa kẻ gian…

 

Vẫn giọng nói nhẹ nhàng, hiền từ như thuở còn thiếu niên, anh chậm rãi kể lại, nhắc lại cho tôi nghe những kỷ niệm, những câu chuyện sau 33 năm trời mất liên lạc, tôi cứ nghĩ hoài về anh…

 

Còn tôi, chẳng làm được gì nhưng vẫn thường vênh vang tự đắc, coi mình là tài giỏi, làm được chút gì đó thì muốn được nhiều người biết đến và nhiều khi còn đòi hỏi mọi người phải sống với tôi thế này thế khác… Khi tôi hỏi trong ngần ấy năm trời, có tuần nào anh bỏ không đi nhận Mình Thánh Chúa, anh cho biết không bỏ một tuần nào, Chúa gìn giữ và ban sức khỏe cho anh. Còn tôi, khi thất bại thì thường than trách, nhưng khi thành công lại vỗ ngực tự cao chẳng một giây phút nhìn nhận để cám ơn Chúa.

 

Cám ơn Chúa đã cho con cơ hội đã nhìn lại mình trong Mùa Chay Thánh này. Có lẽ đây là một ân huệ lớn lao Chúa ban cho con. Mỗi người hãy

 

Cám ơn BẠN vì những công việc BẠN đã làm, đang làm và chắc chắn sẽ làm.

 

Gần 33 năm mất liên lạc, chỉ thiếu đúng 1 tuần (20.3.1975 - 13.3.2008) ; cũng 33 năm Chúa đến ở giữa thế gian, một sự trùng hợp nhiều ý nghĩa. Chỉ khoảng 1 tuần nữa, BẠN và tôi, tất cả chúng ta sẽ sống cuộc Tử Nạn để cùng được Phục sinh với Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà BẠN đã hết lòng phục vụ Ngài qua việc phục vụ Giáo hội, phục vụ tha nhân. Còn tôi, xin được biết nhìn BẠN, biết nhìn vào Chúa Giêsu Phục sinh, để biết thay đổi cái nhìn hẹp hòi thiển cận, để sống xứng đáng trong ơn gọi của mình, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, biết sống và mang Chúa đến với tha nhân cách khiêm nhường, quảng đại mà không đòi hỏi bất kỳ một điều kiện gì.


Mục Lục Sống Lời Chúa