Cầu Nguyện Và Hành
Động
Trong đời sống Ki-tô giáo, việc cầu nguyện là việc
không thể thiếu được. Có thể nói, người Ki-tô hữu nào không cầu nguyện, thì
không phải là Ki-tô hữu đích thực. Cầu nguyện là kết hợp với Chúa, nguồn sức
mạnh, nguồn hạnh phúc, nguồn ân sủng.
Nhưng, người cầu nguyện đích thực thì không thể chỉ
cầu nguyện mà không hành động. Vì cầu nguyện là tiếp xúc với Thiên Chúa, nguồn
sức mạnh và năng động, nên không thể nào khi tiếp xúc với Thiên Chúa đích thực
mà con người lại không bị Thiên Chúa biến đổi. Không thể nào một người tiếp xúc
thật sự với Thiên Chúa, nguồn sức mạnh và năng động lại không được Thiên Chúa
truyền sức mạnh cho, mà vẫn cứ ở trong tình trạng ù lì thụ động. Nếu thánh
Giacôbê bảo: Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,17&26),
thì một cách tương tự, cầu nguyện mà không hành động thì không phải là cầu
nguyện thật. Thánh Giacôbê còn nói: Nhờ hành động mà con người được nên
công chính chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi (Gc 2,24). Ngài đưa ra
một thí dụ cụ thể: Giả như có người anh em hay chị em không có áo mặc che
thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ:
"hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no nhé!" mà lại không cho họ
những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? (Gc 2,15-16). Cũng
tương tự như thế đối với cầu nguyện và hành động.
Cầu nguyện mà không có việc làm cụ thể, chúng ta dễ
tưởng rằng mình đã làm xong bổn phận của người Ki-tô hữu, là yêu mến Thiên
Chúa, và cũng dễ bị cám dỗ nghĩ rằng mình đạo đức. Khi đọc kinh cáo mình đọc
đầu thánh lễ, người ta thường nghĩ đến những hành động sai trái của mình, chứ
ít nghĩ đến những điều thiếu sót. Thiếu sót ở đây là những điều đáng lẽ
mình phải làm mà đã không làm. Do đó, để quân bình hóa đời sống Ki-tô hữu,
chúng ta cần cầu nguyện thật nhiều, mà cũng cần hành động thật nhiều. Cầu
nguyện và hành động phải tương xứng với nhau. Cầu nguyện để được Chúa soi sáng
và có sức mà hành động. Và hành động để biến cầu nguyện thành hiện thực, thành
ích lợi đích thực cho bản thân và mọi người. Cầu nguyện chỉ trở thành hiện thực
và có giá trị khi đi đến hành động thật sự.
Sau thánh lễ, linh mục nói một câu ra lệnh
(impératif), nguyên văn Latinh là: Ite, misa est mà nếu dịch sát thì
phải dịch: Hãy ra đi, đó là lễ misa, điều này ai
biết tiếng Latinh cũng phải công nhận. Dịch rằng Lễ xong, chúc anh chị em ra
về bằng an! thì tôi không biết là có đúng với ý của Giáo Hội không. Ra
đi và ra về, diễn tả hai tinh thần khác nhau. Ra đi - tức
không về nhà - là để hành động, ra về - tức về nhà - là để nghỉ
ngơi! Dịch bằng ra về, khiến người Ki-tô hữu dễ
tưởng rằng thánh lễ đã xong, ta đã làm hết bổn phận rồi, giờ thì về nhà mà nghỉ
ngơi. Chữ bằng an sau đó lại càng nhấn cho mạnh nghĩa của nghỉ ngơi!
Nhưng tôi biết chắc chắn rằng câu nói cuối cùng của linh mục trong thánh lễ có
dụng ý bảo mọi người hãy ra đi để hành động, để thực hiện ý nghĩa của thánh lễ
là trở nên một hy tế bằng chính đời sống của mình. Và đó mới chính là thánh lễ
(missa est! = voilà la messe!) Như vậy, thánh lễ ở trong nhà thờ mới chỉ là nửa
thánh lễ, còn phần chính của thánh lễ là đời sống thực tế. Thánh lễ trong nhà
thờ và thánh lễ trong đời sống chỉ là một thánh lễ duy nhất, mà chúng ta nhiều
khi tách ra thành hai mảng biệt lập nhau. Thánh lễ trong nhà thờ ban sức mạnh
cho thánh lễ ngoài đời sống, thánh lễ ngoài đời sống biến thánh lễ trong nhà
thờ thành hiện thực. Nếu nhận được sức mạnh mà không làm gì cả, thì sức mạnh ấy
dùng để làm gì?
Trong thánh lễ nhà thờ, chúng ta cầu nguyện: xin
cho con yêu Chúa, yêu tha nhân, cho con biết khiêm nhường, biết cảm thông với
người nghèo, v.v. Còn trong thánh lễ đời sống, chúng ta cố gắng thực hiện những
lời đó. Nếu chỉ biết xin mà không quyết tâm cố gắng thực hiện, thì không biết
đến bao giờ Chúa mới cho được những điều ấy. Cũng như miệng nói xin cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, mà tay chân lại chẳng thèm làm gì
để kiếm sống cả, thì có cầu xin hoài cũng vô ích.
Vào trong nhiều đan viện, ta thấy câu này được viết
ở nhiều nơi: Ora et labora! (cầu nguyện và làm việc!). Hai việc ấy phải
gắn liền với nhau. Không nên quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà quên nhấn mạnh
đến hành động, nhất là những hành động thực tế đáp ứng đúng gì những người
chung quanh chúng ta đang cần. Dường như các nhân đức Ki-tô giáo luôn luôn phải
đi với nhau theo cặp. Có nhân đức này thì lại phải có một nhân đức đối lập với
nó. Không có nhân đức đối lập đó thì có thể nhân đức kia không còn là nhân đức
đúng nghĩa nữa! Khôn ngoan như con rắn, nhưng lại phải hiền lành như con bồ
câu!
Tôi được tập thói quen từ hồi còn nhỏ là khi cầu
nguyện thì hỏi Chúa: Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?. Cách cầu nguyện ấy
rất hay vì nó gắn liền việc cầu nguyện với hành động. Nếu chung quanh tôi mọi
người đang bị áp bức, nghèo khổ, và cũng đang có những con người phải vất vả
đấu tranh chống lại áp bức và nghèo khổ, mà tôi hỏi Chúa câu ấy, chắc chắn Chúa
sẽ đề nghị ngay tức khắc với tôi một hành động cụ thể. Hành động cụ thể thế nào
thì còn tùy thuộc vào khả năng và chức vụ của tôi trong xã hội. Nếu tôi là một
người dân thường, chỉ giúp được những việc nhỏ, thì Chúa sẽ bảo tôi làm việc
nhỏ. Nếu tôi là một bộ trưởng, chắc chắn Chúa không bảo tôi làm những việc nhỏ
như thế, mà phải làm trong khả năng đúng với một vị bộ trưởng.
Như vậy, trở về với Chúa, với lòng
mình và ra đi để đến với tha nhân cũng là hai việc phải đi đôi.
Tinh thần của thánh lễ đích thực phối hợp và điều hòa hai hành động có
vẻ ngược lại nhau ấy. Có cái này mà không có cái kia thì cũng dễ bị khập
khiễng.
Cần phải hành động. Nhưng hành động dù có tốt đến
đâu cũng phải đặt nó trên nền tảng khiêm nhường. Không đặt trên nền tảng ấy thì
coi chừng những động lực để làm việc tốt của ta chỉ là nhằm được tiếng khen,
được sự ủng hộ, v.v. Với động lực đó, thì việc tốt lành ta làm chỉ có tác dụng
làm tăng thêm lòng kiêu căng của ta, một tác nhân hủy hoại toàn bộ công trình
tốt đẹp của ta trước mặt Thiên Chúa. Lucifer trước khi sa ngã chắc chắn đã làm
được việc nhiều việc tốt lành hơn các thiên thần khác, vì ông là thiên thần cao
trọng, đáng yêu đáng mến và có khả năng nhất trong các thiên thần. Nhưng kiêu
căng đã biến ông thành ma quỉ. Do đó, những người đang làm những công việc tốt
đẹp phải coi chừng kẻo bị sôi hỏng bỏng không vì sự tự hào về những việc
tốt đẹp của mình, mà lên mặt với người khác.
Vì thế, khiêm nhường là hết sức cần thiết, nhưng
khiêm nhường lại phải luôn luôn đi đôi với lòng tôn trọng sự thật. Khiêm nhường
không có nghĩa là tự hạ đến nỗi phải phủ nhận bản chất và khả năng của mình,
hay không dám hành động đúng với bản chất và khả năng của mình. Khiêm nhường
vẫn đòi hỏi mình phải nhận chân được bản chất, giá trị, chức vụ, quyền hành,
khả năng, bổn phận của mình, và hành xử đúng với những điều đó. Một em bé làm
trưởng một lớp học nhưng lại không thi hành quyền trưởng lớp của mình khiến cho
lớp đó như không có trưởng lớp, trở thành lộn xộn mất trật tự, thì hành động đó
không phải là khiêm nhường. Một người con thấy cha mình cứ làm hoài một việc
không đúng, mà không dám lên tiếng một cách tế nhị để người cha nhận ra lỗi của
mình hầu sửa sai, cũng không phải là khiêm nhường. Mà tế nhị quá, sợ mất lòng
quá đến nỗi không nói đúng được điều mình muốn nói cũng không phải là khiêm
nhường, vì có tế nhị tới đâu, thì sự thật vẫn khó có thể không làm mất lòng. Mà
người cha ấy nếu thấy con nói có lý và chân tình mà không sửa sai, thì cũng
không phải là khiêm nhường.
Nếu không nắm vững ý nghĩa của khiêm nhường, chúng
ta dễ có khuynh hướng đồng hóa khiêm nhường với nhu nhược.
Các thánh nhân nói: Nhân đức thì đứng giữa
(virtus in medio stat). Quả thật, khó mà đứng ngay giữa, chỉ có thể đứng ở
khoảng giữa giữa thôi. Nếu đứng được ngay giữa thì đã là thánh rồi. Vả lại, hai
đầu mà luôn luôn thay đổi thì điểm giữa cũng luôn luôn thay đổi. Nên đứng giữa
được thì chỉ có Thiên Chúa! Khiêm nhường cũng chính là chấp nhận giới hạn của
mình, nhận chân rằng mình chỉ làm được như thế, nhưng vẫn phải cố gắng mà tiến
về giữa được chừng nào tốt chừng nấy. Còn đứng hẳn qua một bên thì chắc chắn
không phải là nhân đức rồi.
Tóm lại, cầu nguyện phải đi đôi với hành động,
khiêm nhường phải đi đôi với tôn trọng sự thật.
NGUYỄN CHÍNH KẾT