GIỜ CHẦU
NGÀY ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Lễ Dâng Chúa vào Đền Thánh, thứ ba 02.02.2010
Đặt Mình Thánh
Hát : ĐK. Từ muôn thủa Chúa đã yêu con, một tình yêu
không bờ bến, nay con biết lấy chi báo đền, lòng từ ái Chúa bao la.
1. Trong khi tạo dựng đất trời, cho muôn
vật được sinh sống, trước khi con xuất hiện trên đời, thì Chúa đã yêu con.
2. Con dâng trọn cả xác hồn trên con
đường về núi Thánh, lúc ca vui lúc nặng u buồn, nguyện mến Chúa trung kiên
lời dẫn :
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh của
Hội Thánh Việt Nam, cũng là năm Kim Khánh của Giáo phận. Trong Năm Thánh này,
Hội Thánh Việt Nam muốn suy tư về bản chất của Giáo Hội dựa trên bộ ba : Mầu nhiệm, Hiệp thông, Sứ vụ. Chúng ta,
những người sống đời thánh hiến cũng hãy dựa trên bộ ba đó để suy tư về bản
chất của mình.
(thinh lặng giây lát)
PHẦN I. MẦU NHIỆM
Đề Cương Năm Thánh khi suy tư về Giáo
Hội là Mầu Nhiệm đã lấy lại tư tưởng của CĐ Vatican II trong Hiến Chế tín lý về
Giáo Hội, rằng Giáo Hội là mầu nhiệm vì phát xuất từ mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha có sáng kiến thiết lập Giáo Hội,
Chúa Con thực thi sáng kiến đó, và Chúa Thánh Thần duy trì, phát triển và canh
tân Giáo Hội.
Đề Cương Năm Thánh còn suy tư nhiều về
bản chất của mình xét dưới góc độ mầu nhiệm này, như : Giáo Hội là Dân Thiên
Chúa, là Thân Mình Chúa Kitô, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.
Liên hệ tới tu sĩ chúng ta, những người
sống đời thánh hiến, Đề Cương Năm Thánh trong phần Mầu Nhiệm đã ý thức : Giáo
Hội là thánh, nhưng còn phải nên thánh, bởi bao gồm cả những tội nhân.
Chúa Giêsu đã kêu gọi ta vào đời thánh
hiến. Ta phải sống thánh để xứng danh tu sĩ và để làm chứng cho Giáo Hội là
thánh.
Lắng nghe Lời Chúa (Ga 17, 6-19)
Khi ấy Chúa Giêsu lên tiếng : “Lạy Cha, 6 những
kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ
thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha.
7 Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều
do bởi Cha, 8 vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con ; họ đã
nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha
đã sai con.
9 Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những
kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 10 Tất cả những gì
của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con ; và con được
tôn vinh nơi họ. 11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ
ở trong thế gian ; phần con, con đến cùng Cha.
Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn
đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta. 12
Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con
đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh. 13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói
những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. 14
Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc
về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15 Con không
xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16
Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17
Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như Cha
đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19 Vì họ,
con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
quì hát :
ĐK. Chúa
ơi, từ đây trọn đời con ước nguyện dâng hiến Chúa : thân xác, linh hồn, nguyện
cầu Chúa dẫn đưa trên đời.
ngồi, suy niệm :
dẫn : Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện. Giáo hội thánh, nhưng vẫn bao gồm cả tội nhân. Giáo
hội thánh vì kêu mời mọi người sống thánh, đặc biệt kêu gọi tu sĩ hãy sống
thánh vì họ được gọi sống đời thánh hiến.
trích Hiến
chế Tín lý về Giáo Hội :
39. Sự thánh thiện trong Giáo Hội. Chúng tôi tin Giáo Hội, một mầu nhiệm
được Thánh Công Ðồng trình bày, có tính cách thánh thiện, bất khả khuyết. Thực
vậy, Chúa Kitô Con Thiên Chúa, Ðấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, được
ca tụng là "Ðấng thánh duy nhất" 1, đã yêu dấu Giáo Hội như hiền thê mình và đã
hiến thân để thánh hóa Giáo Hội (x. Eph 5,25-26). Người kết hiệp với Giáo Hội
như thân thể Người và ban cho dư đầy ơn Thánh Thần để làm vinh danh Thiên Chúa.
Vì thế, tất cả mọi người trong Giáo Hội - hoặc thuộc hàng giáo phẩm, hoặc được
hàng giáo phẩm dìu dắt - đều được kêu gọi nên Thánh, như lời Thánh Tông Ðồ dạy:
"Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa" (1Th 4,3; x. Eph 1,4); sự
thánh thiện này của Giáo Hội luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những
hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy
được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới Ðức Ái
trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác. Ðặc biệt hơn, sự
thánh thiện đó tỏ lộ trong việc thực hành các lời khuyên, quen gọi là lời
khuyên của Phúc Âm. Nhờ Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều Kitô hữu thực hành các
lời khuyên ấy với tư cách cá nhân hoặc trong những lối sống hay bậc sống đã
được GiáoHội công nhận; việc thực hành đó mang lại và phải mang lại cho thế
giới một bằng chứng và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo Hội. 51*
44. Bản tính và tầm quan trọng của bậc
tu trì. Người Kitô
hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những
ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho
Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ
và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho
Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô
hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly
khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa
cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn 4. Việc cung hiến đó càng trở nên hoàn hảo hơn
khi việc Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội, hiền thê của Người, bằng mối dây bất
khả phân ly càng được phản ảnh trong những mối dây ràng buộc chắc chắn và vững
bền hơn.
[…] Việc khấn giữ các lời khuyên của
Phúc Âm thực là một dấu chỉ có thể và phải lôi cuốn hữu hiệu tất cả mọi chi thể
của Giáo Hội đến việc can đảm chu toàn ơn gọi làm Kitô hữu. Thực vậy, dân Thiên
Chúa không đặt thành trì vĩnh viễn ở đời này, nhưng đi tìm một thành trì mai
sau. Bậc tu trì giải thoát người tu sĩ bớt những lo lắng trần tục, cùng tỏ lộ
cách hoàn hảo hơn cho mọi tín hữu thấy của cải trên trời đã có ngay dưới trần
gian này, và làm chứng rằng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã đem lại một đời sống
mới và vĩnh cửu, đồng thời tiên báo sự phục sinh tương lai và vinh quang của
Nước Trời. Hơn nữa, bậc sống tu trì bắt chước cách chính xác hơn và thực hiện
liên tục trong Giáo Hội nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thế
để thi hành thánh ý Chúa Cha và cũng là nếp sống mà Người đã đề ra cho các môn
đệ theo Người. […]
Vì thế, bậc sống được thiết lập do việc
tuyên khấn các lời khuyên của Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật
của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên cũng gắn chặt với đời sống và sự thánh thiện của
Giáo Hội. 57*
PHẦN II :
HIỆP THÔNG
Dẫn : Giáo Hội là mầu nhiệm vì được sinh ra từ sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
(Lời Chúa Ga 17, 20-26)
Khi ấy Chúa Giêsu lên tiếng cầu nguyện : Lạy Cha, 20
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ
mà tin vào con, 21 để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
con. 22 Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho
con, để họ được nên một như chúng ta là một : 23 Con ở trong họ và
Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết
là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
24 Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã
ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh
quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được
tạo thành. 25 Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết
Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai
con. 26 Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để
tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa."
(mời quỳ xuống, hát)
Lạy Cha, xin hãy cho mọi người hiệp
nhất nên một,
như Cha ở trong Con và như Con ở trong
Cha,
xin Cha cho mọi người nên một trong
Chúng Ta,
hầu cho thế gian tin rằng Cha đã sai
Con
(hát 3 lần)
(ngồi suy niệm)
Dẫn : Giáo Hội là sự hiệp thông, và là hiệp thông để tham gia vào sứ vụ. Giáo hội
Hiệp thông dẫn tới Giáo hội Tham gia
như thế nào, chúng ta cùng lắng nghe :
(có thể bỏ
bớt một số đoạn)
trích Đề Cương Năm Thánh :
17. Giáo Hội là
một mầu nhiệm vì xuất phát từ sự hiệp
thông của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Đây chính là nền tảng cho
đời sống cũng như sứ mệnh của Giáo Hội. Điều ấy muốn nói:
(1) mầu nhiệm
Giáo Hội hiệp thông đặt nền trên sự hiệp thông Ba Ngôi ; (2) Giáo Hội, dân giao
ước mới, là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại ; (3) Giáo Hội cốt yếu là sự hiệp thông của
tất cả các tín hữu với Chúa Kitô và với nhau ; (4) Giáo Hội là nơi chốn
(locus) và biểu tượng của sự hiệp thông giữa các dân tộc.[1]
Bốn yếu tố này còn nói lên rằng mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đang được thực hiện
qua Giáo Hội trong lịch sử nhân loại. Đó chính là câu trả lời của Thiên Chúa
cho khát vọng yêu thương và hiệp nhất vốn là khát vọng thâm sâu của con người,
nhưng lại thường xuyên bị chia rẽ do hận thù và ích kỷ.
20. Trong việc
xây dựng một Giáo Hội hiệp thông, điều cần quan tâm là xây dựng sự hiệp thông
giữa các thành phần Dân Chúa. Vì Giáo Hội là của mọi người tín hữu, nên mọi
thành phần trong Giáo Hội đều phải liên kết với nhau và cùng chia sẻ trách
nhiệm. Vẫn biết không dễ gì hiện thực ngay được ý thức đó trong đời sống, thế
nhưng, đây lại chính là điều cần làm ngay. Chính các Giám mục Việt Nam đã nói
đến nhu cầu cấp bách này trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Á châu như sau: “Cần
thiết phải xây dựng Giáo Hội như một gia đình của những con cái Thiên Chúa hơn
là như một phẩm trật được phú ban với những cơ cấu và luật lệ nghiêm minh. Giáo
Hội như một gia đình sẽ hòa nhập tốt hơn vào xã hội Việt Nam”.[2]
Những lá thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng liên tục nhắc lại lời
mời gọi mọi phần tử trong Giáo Hội, chủ chăn cũng như giáo dân, đang hoạt động
hoặc còn đang được đào tạo nơi các chủng viện, dòng tu, phải thật sự canh tân,
đổi mới tư duy để cùng dựng xây một Giáo Hội như lòng Chúa mong muốn. Rõ ràng
là các tín hữu, tu sĩ hoặc giáo dân,
đã và đang đóng góp rất nhiệt tình vào bước tiến của Giáo Hội tại Việt Nam. Tại
nhiều nơi, các giáo điểm được thành lập ngay cả trước khi có sự hiện diện của
hàng giáo sĩ.
21. Với ý thức
chân chính về mối hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa, chúng ta nên mạnh
dạn và nhanh chóng rời bỏ những cách hành xử “bao cấp” hay “quan liêu”, theo
kiểu giáo sĩ cung ứng tất cả mọi sự, giáo dân phải lệ thuộc giáo sĩ, để xây
dựng một Giáo Hội tham gia. Giáo Hội
ấy, như thánh Phaolô mô tả, “không còn là Do Thái hay Hy Lạp” (1 Cr 3,28),
nhưng chỉ là một trong đức tin, đức cậy, và đức mến, nhiệt tình trong một sứ
mệnh duy nhất. Đức Gioan Phaolô II diễn tả Giáo
Hội tham gia là Giáo Hội “trong đó tất cả đều sống ơn gọi riêng của mình và
hoàn thành vai trò riêng của mình, đặc sủng độc đáo của mỗi phần tử cần được
nhìn nhận, phát triển và sử dụng cách hiệu quả".[3]
Trong các cộng đoàn, giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận
nhau như anh chị em. Tất cả cùng được kêu gọi và quy tụ bởi Lời Chúa, bởi Đức
Kitô phục sinh đang hiện diện thúc đẩy họ tham gia vào các hội đoàn hay các
nhóm nhỏ Kitô hữu để kinh nghiệm thế nào là mầu nhiệm Giáo Hội qua việc cầu
nguyện và chia sẻ lời Chúa, sống phục vụ và yêu thương trong sự đồng tâm nhất
trí.[4]
Chính nhờ thế mà cảm thức thuộc về một Gia đình của Đức Kitô được triển nở, đến
nỗi mọi người có thể nói bằng tất cả trách nhiệm và niềm hãnh diện rằng “Tôi là
Giáo Hội”.[5]
Đó là cách sống mầu nhiệm Giáo Hội cách mới mẻ mà Giáo Hội tại Việt Nam cần
thực hiện.[6]
Vì vậy, “cần cổ xúy giáo dân và tu sĩ nam nữ tham dự nhiều hơn vào việc bàn
thảo kế hoạch mục vụ, cũng như vào tiến trình đi đến quyết định, qua những cơ
cấu có tính tham gia như các hội đồng mục vụ giáo xứ và hội nghị giáo xứ”[7].
Liên Hội Đồng Giám mục Á châu đã cho chúng ta những điều cốt yếu không
thể thiếu trong nhận thức về mô hình Giáo
Hội tham gia:
(1) mọi người tín hữu đều bình đẳng và không ai là công dân hạng hai, vì
cùng một ơn gọi, vì nhận được cùng một Thần khí, và đón nhận nhau như anh chị
em ;[8]
(2) mỗi phần tử đều được trân trọng chứ không phải là một kẻ vô danh ;[9]
(3) tất cả đều đồng trách nhiệm,[10]
vì đã cùng nhận lệnh loan báo Tin Mừng ;[11]
(4) mọi người, kể cả phụ nữ, đều phải được tham gia và có trách nhiệm đối với
những quyết định chung, liên quan đến đời sống Giáo Hội.[12]
Hơn bao giờ
hết, Giáo Hội tại Việt Nam nhận biết rằng “không có kiểu canh tân một chiều của
riêng giáo sĩ hoặc giáo dân. Trong một Giáo Hội hiệp thông, tất cả mọi người,
giáo sĩ cũng như giáo dân, đều liên hệ với nhau và có ảnh hưởng tác động lẫn
nhau. Chúng ta cảm nhận cần phải thay đổi cả khối óc cũng như con tim”.[13]
Để xây dựng một Giáo Hội tham gia, cần có sự lãnh đạo mang tính tham gia vượt
lên khỏi những phân biệt đối xử, đặt nền trên tinh thần đồng trách nhiệm và tập
đoàn tính.[14]
Điều này tuyệt đối không hề phủ nhận vai trò chủ chăn của các Giám mục cũng như
những cộng sự viên của các ngài. Trái lại, Giáo Hội tại Việt Nam luôn xác tín
Giám mục có vai trò lãnh đạo với tư cách là thầy dạy và người bảo vệ Đức tin.
Vì lợi ích của dân Thiên Chúa, Thánh Thần ban riêng cho các ngài đặc ân đó cùng
với ơn biện biệt các thần khí.
22. Hình ảnh Giáo
Hội tham gia sẽ làm nổi bật con đường mà Chúa Kitô muốn chúng ta bước theo. Tất
cả và từng người tín hữu đều được gia nhập Dân Thiên Chúa qua bí tích Thánh Tẩy
và Thêm sức, được tháp nhập vào Thân Mình Đức Kitô. Tuy nhiên, sự hiệp thông
với Đức Kitô không chỉ mang tính cách cá nhân khi mỗi người dự phần vào mầu
nhiệm Vượt Qua của Ngài - chết để vươn tới đời sống mới trong Chúa Thánh Thần -
nhưng còn mang tính cộng đoàn Giáo Hội, trong việc chống lại mọi hình thức sự
dữ, cùng chia sẻ nỗi đau và khổ cực của dân tộc và của cả nhân loại, cùng đưa
mọi người đến với Thiên Chúa. Để có thể thực sự “cắm rễ trong Đức Kitô”, chúng
ta phải cùng lúc hiệp thông với Ngài và với dân Ngài”.[15]
Đó là một sự hoán cải mới cho sứ vụ trong thời đại mới.
Nhận thức về
Giáo Hội tham gia đưa đến nhu cầu canh tân trong lãnh vực mục vụ. Giáo xứ không
phải là một đơn vị sinh hoạt mang nặng tính cục bộ địa phương và chỉ do một
mình linh mục chủ trị,[16]
nhưng là một gia đình yêu thương, trong đó giáo dân cũng là những phần tử sinh
động, cũng nhận được các đặc sủng, và cũng có trách nhiệm đối với cộng đoàn.
Cộng đoàn giáo xứ chan hoà tình gia đình của các môn đệ Chúa Kitô sẽ là chứng
từ đầy thuyết phục cho lời rao giảng về Thiên Chúa Tình yêu. Đoàn Dân Chúa khi
sống trọn vẹn tình hiệp thông giữa lòng Giáo Hội (ad intra), sẽ thêm
nhiệt thành khi gặp gỡ và đối thoại với thế giới chung quanh (ad extra). Thật
vậy, “bất cứ ở đâu sự hiệp thông suy yếu thì chứng từ và công việc truyền giáo
của Giáo Hội bị suy giảm”.[17]
Giáo Hội hiệp thông sẽ là điểm xuất phát đầy năng lực cho sứ vụ tông đồ hướng
đến một Vương quốc Thiên Chúa không biên giới.
PHẦN III : SỨ VỤ
Dẫn : Giáo Hội
phát sinh từ sứ vụ và vì sứ vụ. Giáo Hội không thể không loan
báo Tin Mừng vì đó là lý do hiện hữu, là lẽ sống của Giáo Hội.
Lắng nghe Lời Chúa (Lc 24,33-52)
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp
Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này
bảo hai ông : "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn."
35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc
mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các
ông và bảo : "Bình an cho anh em !" 37 Các ông kinh hồn
bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói : "Sao lại hoảng
hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính
Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây
?" 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41
Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi :
"Ở đây anh em có gì ăn không ?" 42 Các ông đưa cho Người
một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
44 Rồi Người bảo : "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng
nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các
Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." 45 Bấy
giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói :
"Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ
ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho
muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48
Chính anh em là chứng nhân về những điều
này.
49 "Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã
hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ
trời cao ban xuống."
50 Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay
chúc lành cho các ông. 51 Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi
các ông và được đem lên trời. 52 Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi
trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ.
(tiếp tục đứng, hát)
1. Từ rất xa khơi, Người đã gọi tôi đi
giữa lòng đời, rao truyền Tin Mới. Từ rất xa khơi Người đã chọn tôi đi vào thế
giới rắc gieo tình Người.
ĐK Xin cho đôi chân tôi miệt mài để từ
đây bước đi hoài, ngọt lời rao Tin Mới. Tôi xin đôi tay giang vời vợi, để tình
thương lan khắp nơi, và vòng tay ôm trùng khơi.
2. Từ rất xa khơi, Người muốn đời tôi
như đuốc rạng ngời soi miền tăm tối. Từ rất xa khơi, Người đã đặt tôi như là
muối đất ướp thêm mặn đời.
3. Từ rất xa khơi Người đã chọn tôi
trong những bạn bè nơi lòng dương thế, và đỡ nâng tôi Người biến luyện tôi nên
hạt giống tốt gieo trên mọi miền.
(mời ngồi nghe suy niệm)
trích Đề
Cương Năm Thánh
23. Sứ vụ
duy nhất. Giáo Hội phát sinh từ sứ vụ và vì sứ vụ.[18]
Giáo Hội không thể không loan báo Tin Mừng vì đó là lý do hiện hữu, là lẽ sống
của Giáo Hội. Thật vậy, ơn gọi Kitô hữu tự bản chất là ơn gọi tông đồ. Mỗi
người tín hữu đều phải rao giảng Tin Mừng vì nhờ phép Thánh tẩy, họ đã được
tháp nhập vào Giáo Hội vốn mang đặc tính truyền giáo tự bản chất. Cũng thế,
Giáo Hội tại Việt Nam loan báo Tin Mừng vì đã nhận lệnh từ Chúa Giêsu và đã
được Ngài sai đi và cũng bởi tin chắc rằng chính qua việc rao giảng Tin Mừng mà
Giáo Hội trở thành ánh sáng, thành muối men làm cho đất nước này được thực sự
biến đổi và được cứu độ.[19]
Được Tin
Mừng hoá từ chính Thiên Chúa Tình Yêu, Giáo Hội hiểu ra rằng chỉ có một sứ vụ
duy nhất khởi phát từ Chúa Cha trao cho Chúa Con và được chuyển giao cho Giáo
Hội trong Chúa Thánh Thần: “như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga
20,21). Đồng thời, sứ vụ duy nhất này cũng được ủy thác cho Giáo Hội ngay trên
dòng lịch sử dân tộc mình. Hơn nữa, nếu Chúa Cha làm việc không ngừng và Đức
Giêsu cũng làm việc không ngừng, thì chúng ta xác tín rằng Thánh Thần cũng hoạt
động không ngừng trong tâm hồn người dân Việt và hoạt động này không bao giờ
“tách khỏi hoạt động của Người bên trong Thân Mình Đức Kitô là Giáo Hội”.[20]
30. Ngày nay
loan báo Tin Mừng là cả một công trình phức tạp gồm nhiều tác vụ chủ yếu như
làm chứng cho Tin Mừng, hoạt động cho những giá trị của vương quốc, đấu tranh
cho sự thăng tiến con người toàn diện, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm về Thiên
Chúa, hội nhập văn hoá, đối thoại với các tôn giáo.[21]
Chính vì thế, Giáo Hội tại Việt Nam cần tìm ra phương thức mới để loan báo Tin
Mừng. Chính mầu nhiệm Đức Kitô Nhập thể và Thánh Thần sáng tạo sẽ là khuôn mẫu
cho phương pháp mới trong sứ vụ truyền giáo. Cứ điểm của phương pháp này không
gì khác hơn “là phong cách của Đức Giêsu-trong-sứ-vụ, là tư cách của một môn đệ
chân chính” trong bối cảnh Việt Nam thời đại mới.[22]
Không phải như một người đang ban phát vì tự hào mình có mọi sự, nhưng như một
người chung phần, người tín hữu Việt Nam muốn sống trong tình bạn với tất cả
những người dân Việt khi họ cầu kinh, làm việc, chịu đựng và đấu tranh cho một
đời sống nhân bản tốt đẹp hơn, và khi họ tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống và tiến
bộ của con người.[23]
Giáo Hội tại Việt Nam phải bước đi với quê hương đất nước trong tình huynh đệ
nhân loại.
Nếu người
tín hữu bình thường đã phải loan báo Tin Mừng, thì người tu sĩ càng phải loan
báo, và nhất là với 3 lời khấn, làm chứng cho thực tại Tin Mừng là Nước Trời
đang hoàn thành tại trần gian này.
Chính vì
vậy, chúng ta không bao giờ tách rời đức tin khỏi cuộc sống, không chỉ chăm chú
vào những thực hành tôn giáo để rồi thờ ơ với các hoạt động xã hội. Niềm mong
đợi trời mới đất mới không cho phép người Kitô hữu xao nhãng việc thăng tiến xã
hội trần thế theo đúng tinh thần Tin Mừng.[24]
Đối với Giáo Hội, “sứ vụ là hoạt động có tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang
tính hoạt động”.[25]
Vì thế, hoạt động cho công bằng, bác ái và xót thương có tương quan chặt chẽ
với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực.
Hát : Này con là đá
Hát : Tantum Ergo
Phép lành Mình Thánh Chúa
Hát kết thúc (tạ ơn Chúa với Mẹ)
ĐK. Chúng con xin tạ ơn Chúa uy quyền
toàn năng, tình yêu Chúa nào biết chi báo đền. Chúa muôn đời là Chúa, khắp vũ
trụ trời đất, ngàn vinh quang cao chiếu hiển trị đời đời.
1. Vì tình Chúa đã chất chứa trong trái
tim Mẹ hiền luôn trìu mến mãi cứu giúp chở che nguyện cầu. Ngàn phúc ân vẫn nhờ
Mẹ, ngàn khổ đau cũng nhờ Mẹ, nhờ Mẹ thương dâng Chúa trót đời tạ ơn.
[1] x.
Synod for
[2] The Asian Synod: Texts and
Commentaries, biên soạn bởi Peter C. Phan, nhà xuất bản Maryknoll: Orbis, 2002,
trg. 50.
[3] Đức
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 25.
[4] x.
FABC IV, 8.1.1, trong For All, vol. 1, trg. 287 ; vol.2, trg. 138 ; Cv
4:32.
[5] x.
FABC IV, 3.3.3 ; BIRA I, 7 trong For All, vol.1, trg. 281. 110.
[6] x.
Gioan-Phaolô II, Huấn dụ dành cho các giám mục Việt
[7] Đức
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia , 25.
[8] x. International Congress on Mission, 6-10, trong For
All, vol.1, trg. 150-51; FABC IV, 8.0, trong For All, trg. 287 ;
Asian Integral Pastoral Approach, 4 trong For All, vol.2, trg. 138 ;
OTC, The Spirit at Work in Asia Today, 5.7 trong For All, vol.3, trg.
324.
[9] x.
FABC IV, 2.3.3-2.3.9 ; 8.11-2 trong For All, vol.1, trg. 278-279 ; 287.
[10]
x. FABC III, 17.2 trong For All, vol.1, trg. 60.
[11]
x. FABC III, trong For All, vol.1, trg. 52. 60. 99. 112. 150.
[12]
x. Asian Colloquium on Ministries in the Church, trong For All, vol.1,
trg. 90. 151. 193; x. FABC IV, 3.3 trong For All, vol.1, 183.
[13]
FABC IV, 4.7.1 trong For All, vol. 1, 194.
[14]
x. FABC IV trong For All, vol.1, 194.
[15]
FABC IV, 4.8.4 trong For All, vol.1, 196.
[16]
FABC III, 4.6 trong For All, vol.1, 193.
[17] Đức
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 26.
[18]
Synod for
[19]
x. FABC IV, 4.8.8-9 trong For All, trg. 197.
[20] Đức
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 16.
[21]
x. Đức Phaolơ VI, Tơng huấn Evangelii Nuntiandi , 24 ; Synod for
Asia, Lineamenta, 30 ; Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptoris
missio 31-32.
[22]
x. FABC V, 9.1, For All, vol.1, trg. 288.
[23]
x. FABC V, 6.2, For All, vol.1, trg. 283.
[24]
x.Vat. II., GS 43.
[25] Đức
Gioan-Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, 23.