CHƯƠNG
3
CÁC
THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
(Mục Đích # 2 của Warren
“Các bạn đã được hình thành cho Gia Đình của
Thiên Chúa” (Ngày 15 – 21)
Một cuốn tự điển khổ bỏ túi liệt kê nhiều nghĩa cho từ “giáo hội”. Nó có
thể chỉ một toà nhà để thờ phượng chung, một dịch vụ tôn giáo, tất cả các Kitô
hữu, một giáo phái Kitô giáo đặc biệt hoặc một giáo đoàn.
Mục Đích # 2, các chương về các
ngày từ 15 – 21, mô tả định nghĩa hoặc quan điểm của mục sư Warren về giáo hội
như là Gia Đình Thiên Chúa. Sau đây là một số yếu tố chính:
Tín hữu Công giáo La Mã có thể thấy những khái niệm đa dạng nầy về Giáo
Hội quen thuộc và chấp nhận được, trừ việc ông nhấn mạnh về các nhóm nhỏ. Hoặc
về các giáo phái Kitô giáo, chẳng hạn các truyền thống Tin Lành hoặc kể cả các
giáo hội Chính Thống.
Tuy vậy, tín hữu Công giáo phải
tìm kiếm nhiều hơn nữa, như lời giáo huấn của Đức Thánh Cha vào các năm thập
niên 1940, sự tụ họp quan trọng các giám mục ở Công Đồng Vatican II vào những
năm thập niên 1960 và bộ Giáo Lý Giáo Hội
Công giáo đồ sộ những năm thâp niên 1990.
CÁC ĐIỂM DỊ BIỆT và NHỮNG ĐIỀU
CẦN LÀM SÁNG TỎ
§ GIA ĐÌNH GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Trong các năm thập niên 1940,
Đức giáo hoàng Piô XII đã công bố ba tông thư được dùng để làm nền tảng cho
nhiều triển khai tương lai trong Giáo Hội Công giáo trong suốt hạ bán thế kỷ
vừa qua.
Một tông thư nói về Sách Thánh;
tông thư thứ hai là về Phụng Vụ và một tông thứ thứ ba về Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Tông thư cuối cùng [Nhiệm Thể
Chúa Kitô] mở rộng khái niệm Giáo Hội mà nhiều tín hữu Công giáo La Mã có vào
thời ấy. Giáo Hội, theo văn kiện nầy dạy, không chỉ là một tổ chức với Đức giáo
hoàng, các Đức giám Mục và các linh mục, cũng không phải là một hệ thống những
quy tắc và những sự sao chép; cũng không
phải chỉ là một phức hợp những toà nhà gồm có thánh đường, trường học, nhà ở và
bệnh viện.
Giáo Hội đã và đang hơn là những
yều tố tạo thành bề ngoài nầy. Đó là một cơ thể sống động, có tổ chức, Nhiệm
Thể Chúa Kitô trong đó tất cả mọi thành viên của nó nhờ ân sủng mà được liên
kết với nhau và hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô.
Hai khái niệm Kinh Thánh diễn
tả khái niệm phong phú hơn nhiều về Giáo Hội.
Khái niệm đầu tiên, một hình
ảnh nông thôn và nông nghiệp, mô tả Giáo Hội bằng những lời của Chúa Giêsu :”
Thầy là cây nho,các con là cành nho” (Ga 15, 1 – 10). Như vậy là có một sự hiệp
thông mật thiết giữa Chúa Kitô và những kẻ đi theo Người; bởi thế điều nầy muốn
nói rằng có một liên hệ gắn bó giữa ácc môn đệ nữa, vì họ được liên kết với
nhau bằng một sự gắn bó như thế với
Chuýa Giêsu.
Khái niệm thứ hai, một hình ảnh
chung chung hơn, nhìn Giáo Hội như là Thân Thể Chúa Kitô với Chúa Giêsu làm đầu
và chúng ta là ácc chi thể. Thánh Phaolô trong vài chỗ dùng khái niệm nầy :”Vì
một thân thể là duy nhất mặc dù có nhiều
phần và tất cả mọi phần của thân thể, dù nhiều, vẫn là một thân thể, Chúa Kitô
cũng như thế. Vì trong cùng một Thần Khí hết thảy chúng ta đã được rửa tội
trong cùng một thân thể…Hiện nay anh em là thân thể Chúa Kitô và những phần
riêng rẻ của thân thể ấy… Nếu một phần [thân thể nầy] chịu đau đớn, thì mọi chi
thể chịu đau đơn với nó; nếu một phần thân thể được tôn vinh, thì tất cả mọi
phần cũng chia sẻ niềm vui của nó” ( 1 Cor 12, 12 -31).
Lúc Saolô trở lại thành Phaolô
trên đường đi Đa-mát, chúng ta thấy lời giảng dạy nầy về Nhiệm Thể Chúa Kitô
được kịch tính hoá. Saolô, trên đường tìm bách hại cac Kitô hữu, đạ gặp gỡ Chúa
Giêsu à Người hỏi Saolô:”Sailô,Saolô, sao ngưo8i tìm bắt Ta?”. Ông trả lời :”
Ngài là ai, thưa Ngài”. Chúa Kitô trả lời :” Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm
bắt..” (Cv 9, 1 – 9).
Sự gắn bó giữa Chúa Kitô và
những kẻ đi theo Người là sự gắn bó gần gũi ấy.
Vào những năm đầu thập niên
1960, các giám mục ở Công Đồng Vatican II trong “Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội” đã dành hẳn một chương về Giáo
Hội như là Dân Thiên Chúa. Hình ảnh
nầy bắt nguồn từ những ời Thiên Chúa qua
tiên tri Giêrêmia :” Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta “
(Gr 31,33).
Tất cả mọi tín hữu tên khắp
thế giới làm thành dân Chúa duy nhất nầy và hiệp thông với nhau nhờ Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội
trở thành đền thờ của Thiên Chúa hằng sống. Là một nguyên lý vô hình, Thần Khí
nối kết tất cả mọi chi thể với nhau và với Đầu, là Đức Chúa Kitô.
Do vậy, Giáo Hội không đơn
thuần là một nhóm người được kết nối một cách lỏng lẻo, mà là một gia đình
thiêng liêng được kết nối lại với nhau bằng một sự gắn bó thực tế và duy nhất,
dù là vô hình
§ SỨC MẠNH CỦA CÁC BÍ TÍCH
Mục sư Warren nhận định rằng “ Phép rửa không làm cho bạn nên một thành
viên Gia Đình của Thiên Chúa; chỉ có đức tin vào Chúa Kitô mới làm được điều
ấy. Phép rửa chỉ cho thấy bạn là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa
“ (Ngày 15).
Đã hai thập niên rồi có một xu
hướng hoặc phong trào không đáng kể trong Giáo Hội Công giáo La Mã, bảo vệ một
quan điểm khá giống với cách tiếp cận của Rick Warren. Có thể tóm tắm nó như
sau: các bí tích chỉ xác nhận củng cố một điều gì đó đã xảy ra rồi. Chẳng hạn,
bí tích Thống Hối không tha thứ tội lỗi; nó chỉ đơn thuần cử hành sự kiện Thiên
Chúa đã tha thứ cho hối nhân.
Cách tiếp cận nầy chưa bao giờ
mạnh lên hết và rơi vào phía công khai đối lập. Giáo Hội dạy rằng các bí tích
đòi hỏi phải có đức tin và sự hiệu lực của các bí tích tùy thuộc vào tư thế sẵn
sàng của người nhận. Tuy vậy, lời dạy ấy cũng nhấn mạnh rằng thêm vào nữa, có
một sưc mạnh khách quan trong chính các bí tích bất chấp sự thánh thiện cá nhân
của thừa tác viên.
Sách Gíao Lý tóm tắt lời giảng dạy truyền thống nầy như
sau:
1127 : Khi được cử hành đúng đắn tring đức
tin,các bí tích trao ban ân sủng mà chúng biểu hiện. Các bí tích đều hữu hiệu
vì chính Chúa Kitô hoạt động : Chính Người rửa tội; chính người hành động trong
các bí tích để ban ân sủng mà bí tích biểu hiện. Chúa Cha luôn nhận lời khẩn
nguyện đầy tin tưởng của Hội Thánh, khi Hội Thánh bày tỏ đức tin vào quyền năng
Chúa Thánh Thần trong kinh nguyện Xin Ban Thánh Thần ở mỗi bí tích. Cũng như
lửa biến đổi mọi thứ nó chạm tới thành lửa, Chúa Thánh Thần cũng biến đổi những
gì quy phục quyền năng Người thành Sự Sống thần linh.
1128. Vì thế,Hội Táhnh khẳng dịnh : các bí tích
có hiệu quả :ex opere operato” (dịch từng chữ là : do chính sự việc được thực
hiện),nghĩa là có hiệu quả nhờ công trình cứu độ của Chúa Kitô đã đựôc hoàn
thành một lần dứt khoát. “Bí tích không thành sự do sự công chính của ngừơi
trao ban hay người lãnh nhận, nhưng do quyền năng Thiên Chúa”. Khi Bí Tích được
cử hành theo ý hướng của Hội Thánh, quyền năng của Chúa Kitô và Chúa Táhnh
Thần, hoạt động trong và qua Bí tích ấy, không phụ thuộc vào sự thánh thiện của
bản thân thừa tác viên. Tuy nhiên, hiệu quả của các bí tích còn tùy thuộc vào
thái độ nội tâm của người lãnh nhận.
NHỮNG ĐIỀU ĐƯỚC KHẲNG ĐỊNH VÀ LÀM CHO PHONG PHÚ
§ LỄ VƯỢT QUA, MẦU NHIỆM VƯỢT QUA hoặc MẦU
NHIỆM PHỤC SINH
Một đề tài trung tâm trong Phúc Âm là khái niệm Lễ Vượt Qua, Mầu Nhiệm
Vượt Qua hoặc Phục Sinh. Khái niệm ấy trong liên hệ với Chúa Kitô, có một chiều
kích quá khứ,hiện tại và tương lai với nó.
Quá Khứ nhắc lại cuộc giải cứu người Do Thai khỏi cảnh làm nô lệ
cho dân ngoại, Vượt Qua từ cảnh nô lệ sang tự do, từ kiếp làm trâu ngựa và bị
Ai Cập áp bức đến miền Đất HHứa chảy sữa và mật ong. Cuộc giải cứu nầy giành
được bằng máu (máu chiên con bôi lên cánh cửa làm hiệu cho một thiên thần hủy
diệt “đi qua” nhà ấy). Nó cũng được hoàn
tất bằng nước ( nước Biển Đỏ rẽ ra một cách lạ lùng cho phép Dân Riêng Chúa “đi
qua” bức tường nước nầy, bỏ lại đằng sau binh lực Ai Cập bị tiêu diệt và mở lối
cho họ tiến về quê mới).
Hiện tại, áp dụng đối với Chúa Giêsu, nhắc đến ba lần lời tiên báo
về Lễ Vượt Qua hoặc là biến cố Vượt Qua phía trước Người. Với mục đích vững
vàng, Người lên đường đi Giêrusalem, ở đó để chịu đau khổ và chịu chết, nhưng
sẽ sống lại. Bằng việc trải qua những kinh nghiệm nầy, Chúa Giêsu vượt qua bóng
tối sang ánh sáng, từ sự chết sang sự sống trong ngày Thứ Sáu Tuấn Thánh nầy
qua kinh nghiệm Chúa Nhật Phục Sinh. Sự Vượt Qua của riêng Chúa Giêsu, cùng
việc máu và nước đổ ra từ cạnh sườn
Người, sẽ cho phép con người nhiều thế kỷ phía trước cũng nhờ Người mà chia
sẻ sự Vượt Qua tương tự, những hành
trình Vượt Qua hoặc Phục Sinh của họ.
Tương lai tập trung vào Chúa
Kitô tiếp tục làm việc ở giữa chúng ta hôm nay, biến đổi chúng ta, chuyển chúng
ta từ tội lỗi và tối tăm sang ân sủng và sự sống. Chúng ta trải qua sự vượt qua
của mình một cách đăc biệt nhờ nước rửa tội và máu Thánh Thể.
Nếu đọc cẩn thận các phúc âm
nhất lãm ( Mat-thêu,Mác-cô., Luca),
chúng ta sẽ được thấy một kiểu mẫu mê hoặc nơi điều Chúa Giêsu tiên báo ba lần
về sự Vượt Qua của người. Mỗi lần tiên báo đều có một dấu lạ quyền năng Chúa
Kitô đi trước – hoá bánh và cá nên nhiều; hiển dung và chữa lành những người
bệnh . Sau đó là lời tiên báo được phát biểu ba lần, nhưng bằng những câu hơi
khác nhau một chút. Cuối cùng, Chúa Giêsu phác thảo ra ba đòi buộc, nếu chúng
ta muốn trở nên môn đệ của Người.
Với một cuốn Kinh Thánh trên
tay và một ít thời giờ cần thiết, một độc giả có thể theo dõi chi tiết chuỗi sự
kiện trong Kinh Thánh nói về lời tiên báo theo những nét đại cương sau đây:
+ Lời tiên báo #1
Dấu lạ : Hóa Bánh và Cá ra
nhiều : Mt 14,13 – 21
Lời tiên báo : Mc 8, 31
Bài học : Giáo Lý Thập Giá Lc
9,23
+ Lời tiên bao # 2
Dấu lạ : Hiển Dung Lc 9,28 – 36
Lời tiên báo : Mt 17,22 – 23
Bài học : Chống lại Tham Vọng
và Thèm Muốn Đố Kỵ
+ Lời tiên báo # 3
Dấu lạ : Chũa lành bệnh tật cho
các đám đông
Lời tiên báo : Mt 20,17 – 19
Bài học : Tôi Tớ cho tha
nhân Mt 20, 26 - 28
§ BẢN CHẤT CỦA THIÊN ĐÀNG
Một cuộc khảo sát vừa mới đây cho thấy rằng hơn 70% người Mỹ tin vào thiên đàng,nhưng các
quan điểm về bản chất thế giới mai sau lại hết sức khác biệt nhau. Hơn
nữa,thiên đàng, như mọi thực tại như là Thiên Chúa, sự sống và sự chết, thách
thức mọi định nghĩa và vượt trên mọi sự hiểu biết của con người.
Dù nhìn nhận giới hạn nầy,
chúng ta cũng phác thảo một số yếu tố về thiên đàng dựa trên một số bản văn
Kinh Thánh, các nghi thức phụng vụ của chúng ta và các truyền thống chung Công
giáo.
Chúng ta đứng trước Tôn Nhan Chúa và nhìn thấy Chúa diện đối
diện. Làm như vậy, chúng ta sẽ thấy đầy lòng ước ao sự sống đời đời, hạnh phúc
trọn hảo và hết mọi thắc mắc. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể III, chúng ta nghe
đọc những lời dựa trên thư thứ nhất của thánh Gioan Tông Đồ :” Trong ngày ấy
chúng con sẽ nhìn thấy Người,lạy Chúa, như chính Người là” (I Ga,3,2).
Nơi thiên đàng chúng ta cũng
sẽ được tái hợp với những người đã ra đi
trước chúng ta. Một kinh cầu nguyên phó thác ở phần kết thúc phụng vụ lễ an
táng Công giáo diễn tả niềm hy vọng nầy :”Xin hãy mở ra những cánh cửa thiên
đàng cho tôi tớ Chúa được vào và giúp chúng con biết an ủi nhau với niềm tin
chắc chắn, cho tới khi chúng con gặp được Chúa Kitô và ở với Người và với người
anh chị em chúng con muôn đời”.
Đồi với người bệnh ở giai đoạn
cuối đang chịu đau khổ nghiêm trọng và gia đình cá nhân ngừơi ấy, cái nhìn về
thiên đàng là một nơi không có đau khổ hoặc buồn phiền, có thể đem lại an ủi
lớn lao. Sách Mạc Khải mô tả trời mới đất mới như sau : Thiên Chúa “sẽ lau sạch
nước măt cho mắt họ và sẽ không còn sự chết hoặc sầu thương tang tóc,khóc than
hoặc đau khổ…”(21,3 – 4).
Kinh Tin Kính Cac Tông Đồ
diễn tả niềm tin của chúng ta trong sự Các Thánh Thông Công, rằng một sự kết
nối tiếp tục sau cai chết giữa chính
chúng ta nơi đây trên trái đất nầy và những người ở trên thiên đàng. Giáo Lý Công Giáo nêu tên Thánh Đa Minh
và Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu như điển hình của những vị ở trên thiên đàng
hằng cầu bầu cho chúng ta đang ở dưới thế. Thánh Têrêxa, được biết đến như là
Bông Hồng Nhỏ, đã hứa :”Tôi muốn dùng thiên đàng vào việc làm điều lành cho
trái đất”.
Hôm nay chúng ta nghe và đọc
thường xuyên hơn về những người trên thế giới nầy được giả thiết là có liên lạc
theo một cách thế cá nhân nào đó với ngừơi đã khúât.
§ GIỚI RĂN YÊU MẾN
Đáp lại một vâu hỏi đâu là giới răn lớn lao nhất, Chúa Giêsu kể ra hai
văn bản Cựu Ước : yêu mến Thiên Chúa và yêu mến ngừơi thân cận (Mt 22,34 –
40;Mc 12,28 – 34)
Sách Gíao Lý khi đề cập đến 10 Điều Răn phân loại chúng
theo câu trả lời của Chúa Kitô cho câu hỏi nầy. Ba giới răn đầu tiên nói về
mệnh lệnh yêu mến Thiên Chúa hết lònh,hết linh hồn và hết tâm trí. Bảy giới răn
khác tập trung vào việc đòi hỏi yêu mến ngừơi thân cận.
Một số thần học gia luân ý Công
giáo lập luận rằng xét theo thực tiễn, không thể nào sống một cuộc đời Kitô hữu
hoàn hảo được. Điều này nghe ra có vẻ kỳ dị, vì thập giới dường như cũng có thể
thực hành được.
Nhưng khi các bạn thêm vào mười
giới răn nầy các mối phúc thật, sự nhấn mạnh vệic phải tha thứ cho tha nhân và
có lẽ gay cấn nhất chính là thách thức của phúc âm Matthêu 25 về việc đáp ứng
hoặc không đáp ứng nhu cầu cho những người đang thiếu thốn, thì ta thấy lập
luận của các học giả nầy lại đáng tin.
Tuy nhiên những nhà thần học như
thế sẽ kết luận rằng chính sự không thể tuân giữ hoàn hảo thông đệip của Chúa
Giêsu buộc chúng ta luôn phải thừa nhận chúng ta cần đến sức mạnh và sự tha thứ
của Thiên Chúa.
§ TIÊN TRÌNH THA THỨ
Sự cần thiết thóat ra khỏi những bực bội và tổn thương là một chuyện;
làm sao chúng ta có thể tha thứ cho những người mà theo chúng ta xét đoán là đã
làm chúng ta tổn thương, lại là một chuyện khác.
Một nhà thừa sai giảng thuyết
liệt kê bốn bước trong tiến trình tha thứ, một quy trình Ngài đã học được nhiều
năm sau khi chịu một sự xúc phạm cá nhân đau khổ:
§ VU KHỐNG và NÓI HÀNH
Một đoạn ngắn trong cuốn Giáo Lý
về làm chứng dối và thề gian phải làm lay động tâm hồn tất cả chúng ta, nhất là
một mô tả về nói hành (2477)
Chúng ta hẳn phải nhận thức vu khống là đặc biệt xấu xa và tìm cách
né tránh nó bằng mọi giá. Điều ấy xảy ra khi chúng ta làm hại thanh danh tha
nhân bằng việc không chỉ nói xấu, mà còn nói những điều sau trái và không đúng
về họ.
Đàng khác,nói hành tiết lộ mà không có lý do nào hợp lệ một cách khách quan,
những lỗi lầm và những nhược điểm của người khác cho những người không hề biết
những chuyện không hay nầy về cá nhân đó.
Nói hành dừơng như là một lỗi
rất thường gặp nơi tất cả chúng ta. Chuyện trò những khi vô công rỗi nghề hoặc
cả chuyện vãn bạn bè, chúng ta dễ dàng chia sẻ một điều gì đó khôg hay về người
káhc, có thật nhưng lại là việc cung cấp tíc tức không tốt cho những ngừơi
chúng ta trao đổi chuyện trò.”Bạn có nghe ông nầy ông nọ bị đuổi việc hoặc bà
nầy bà nọ không còn lập gia đình nữa hoặc anh nầy chị nọ có vấn đề nghiện
ngập?”.
§ XẢ THÂN QUÊN MÌNH
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã dạy rằng trái tim con người không nghỉ
yên cho tới khi nào nó xả thân quên mình
Khái niệm yêu thương như là sự quên mình là
một khái niệm có tính rất cá nhân và năng động.
Mỗi ngày chúng ta đối mặt với
không biết bao nhiêu là tình huống mà chúng ta có thể đáp lại hoặc theo cách
thế tự quên mình hoặc là theo cách thế cho mình là trung tâm.
Chẳng hạn chúng ta có thể giữ cửa cho một ai đó hoặc nôn nóng nhảy lên
phía trước những người đang xếp hàng chờ đợi
Xả thân quên mình, tuy vậy, thỉnh thoảng đưa đến việc phải để tha nhân yêu mến và phục vụ chúng ta. Một bác sĩ nhãn khoa báo cho người anh gần 70 tuổi của tôi biết rằng anh bị mù do thoái hoá võng mạc. Hiện nay anh không còn có thể tự lái xe, đọc báo hoặc nghiên cứu thực đơn nhà hàng được nữa. Sự quên mình đói hỏi rằng anh trai tôi ở điểm nầy, phải để cho vợ anh ta hoàn thành những công việc nầy cho anh.