HÔ LỚN LÊN !
(Lc
3:1-6)
Tuần qua, ÐGH Bênêđíctô
XVI đã làm một chuyến tông du lịch sử sang Thổ Nhĩ Kỳ. Đức
Thánh Cha đã đóng góp “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những
chân lý chung trong tình huynh đệ và trong đối thoại, và không chiều theo đối
kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết.”[1] Ðúng là một ngôn sứ thời đại ! Khi
ÐGH về đến Roma, Giáo Hội bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Ðây thật là một dịp may cho những ai muốn tìm
hiểu về ngôn sứ thời đại. Ngày xưa, ngôn sứ Gioan
Tẩy Giả xuất hiện đúng thời gian niềm hy vọng Ðấng Thiên Sai lên tới tột đỉnh. Trước khi giới thiệu ông, thánh Luca đã ghi
rất rõ thời điểm cả đời lẫn đạo.[2] Sứ mệnh ngôn sứ luôn mang tính “hôm nay.” Ngôn sứ sống giữa những thế lực đạo đời đang
thi nhau chiếm ưu thế trong quần chúng. Giữa một khung cảnh ồn
ào như thế, Lời Thiên Chúa âm thầm nhưng mãnh liệt đến với ông trong hoang địa.[3]
Trong cảnh tĩnh mịch đó, ông nghe rất rõ tiếng Chúa. Ông đã dành thời gian học hỏi, lắng nghe và
trau giồi sức mạnh để có thể đi khắp nơi
kêu gọi mọi người trở về đường công chính.
Chỉ trong đường công chính, con người mới có thể tìm lại chính mình và “sẽ
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.”[4] Ông Gioan đạt tới chóp
đỉnh đoàn sủng ngôn sứ, vì ông “đã thấy tận mắt, (...) đã chiêm ngưỡng, (...) đã
chạm đến Lời sự sống,”[5]
nơi hiện thực toàn thể lời ngôn sứ. Ông đã loan báo và thấy Ðấng Thiên Sai. Ông đã không ngần ngại nói về Ðức Giêsu :
“Tôi đã thấy và tôi chứng thực rằng Người là Ðấng Thiên Chúa tuyển chọn.”[6] Có ngôn sứ nào có một chứng từ hùng hồn và dứt
khoát đến thế không ?! Dĩ nhiên, ông Gioan rao
giảng cùng một nội dung và có một thái độ như các bậc ngôn sứ tiền bối. Ông phải nhân danh Thiên Chúa nói những lời
đã đón nhận từ Thiên Chúa cho anh em. Về căn bản, nội dung những lời rao giảng luôn
giống nhau : Chúa đang ở gần bên dân Người, Chúa trung tín giữ lời Giao ước. Ðối lại, con người phải trung thành và yêu
mến Thiên Chúa, Ðấng yêu thương và không bỏ rơi họ. Phải thay đổi sâu xa tận bên trong, con người
mới có thể thấy Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử về tột đỉnh giao ước và mạc
khải[7]
là Ðức Giêsu Kitô. Ngôn sứ quan sát hiện
tại một cách sâu sắc. Ông chú ý tới các
biến cố. Sở dĩ thấy xa hơn những người
đồng thời, vì cái nhìn của ông sâu hơn. Không
dừng lại ở hình thức bên ngoài, những bằng chứng sơ khởi, ông luôn suy tư,
nghiền ngẫm. ông xem xét các biến cố,
hoàn cảnh, cử chỉ, sự lựa chọn và thái độ nội tâm của những nhân vật chính
trong các biến cố. Giữa các tiếng nói
khác nhau trong lịch sử và thời đại, tiếng nói Thiên Chúa trổi vượt hẳn lên. Bên kia những hiển thị, vẫn có những mũi nhọn
sâu hơn của công lý và tình yêu. Bằng
chứng, giữa những bất công và sa đọa của xã hội đương thời, ông Gioan đã trở nên
mũi nhọn đâm thẳng vào những bộ mặt phi nhân thời đại như nhóm Pharisêu, các
vua chúa, quan quyền, linh tráng, con buôn v.v. Ngoài việc tố cáo những
tệ trạng xã hội, ngôn sứ còn phải nhắc cho mọi người biết Thiên Chúa đầy lòng
thương xót. Người sẽ đến cứu tội
nhân. Ngôn sứ cho thấy chân lý về cuộc
sống con người không đóng khung trong những giới hạn hẹp hòi của tội lỗi. Phải làm sao sám hối để lương tâm ngày càng ý
thức hơn về việc lành phải làm và việc dữ nên tránh, đồng thời cần dấn thân để
canh tân đời sống theo ân sủng. Ông Gioan đã đến để
công bố một thế giới mới sắp đến gần, nhổ tận gốc hỗn loạn của tội lỗi. Một thế giới thái bình sống bằng ơn cứu độ do
Thiên Chúa mang đến với con người của Ðấng
Thiên Sai. Chắc chắn thế giới chúng ta
đang sống chưa đạt được điều đó.
Vạn vật vẫn còn rên siết trong cơn
đau đớn như người phụ nữ sắp sinh con. Có thể nghe thấy tiếng
rên siết đó nơi Giáo Hội toàn cầu trước tình trạng Âu châu đang chối bỏ nguồn
gốc Kitô giáo của mình. Một khi Âu châu không
còn ý thức và đánh mất căn tính, niềm hãnh diện và sức mạnh cũng tiêu tan. Chỉ
còn sự nhút nhát và ô nhục. Nhân danh
văn hóa, lòng kiên nhẫn, việc thiện, đa văn hóa, người ta không dám quả quyết vê nhân quyền nữa. Tây Phương nhút nhát trước những tấn công về
văn hóa từ thế giới Hồi giáo. Trong khi
đó, những giá trị như nhân vị, bình đẳng, nhân quyền, tự do, dân chủ, sinh thái
học, bất bạo động đều do Âu châu cống hiến cho các nền văn hóa thế giới khác.[8] Tại Resenburg, Ðức quốc,
ÐGH Bênêđictô XVI chứng tỏ là vị ngôn sứ thời đại, khi lên tiếng đề nghị Âu
châu làm sống lại ý thức và cởi mở với cuộc đối thoại toàn cầu. Hai chủ đề được nhấn mạnh : “Tôn giáo không
bạo động và sự hòa hợp đức tin và lý trí.”
ÐGH đã đưa ra lịch trình đặc biệt cho thế giới thiên niên kỷ thứ ba :
cùng nhau suy tư về bạo động và bất bạo động, nhất là về những mối liên hệ giữa
chúng với các tôn giáo và ý thức hệ ; cùng suy tư về việc duyệt xét lại các bản
sách thánh, để có một giải thích xứng đáng với Thiên Chúa và Con người ; cùng
suy tư về những đồ án xây dựng một xã hội công bình và nhân đạo hơn ; về những
giá trị và giới hạn của tự do, về việc tục hóa và chủ nghĩa thế tục lành mạnh ;
về các nền văn hóa và đa văn hóa v.v.[9] |
Có thể kiếm thấy một
ngôn sứ giống như ÐGH Bênêđictô XVI ở Việt nam hiện nay không ? Còn đâu hình ảnh một GM Nguyễn Kim Ðiền ngày
xưa ? Phải chăng hiện tại GHVN đang lựa
chọn cuộc sống mà quên đi căn tính hay bản chất của mình ? Rất may, tới nay vẫn còn những linh mục và
giáo dân ngoài Huế tiếp nối tinh thần Nguyễn Kim Ðiền, cương quyết lựa chọn
theo chiều ngược lại. “Giám mục Nguyễn
Kim Điền là một tấm gương cho sự lựa chọn này. Và cái giá mà vị giám mục này
phải trả chẳng phải chỉ là sự khó khăn, đau đớn và cái chết cho bản thân mình,
mà toàn giáo phận Huế phải cùng chịu khó khăn và thiệt hại với Ngài. Chủng viện
không được mở, không có linh mục mới, việc bổ nhiệm linh mục về các nhiệm sở
theo nhu cầu không thực hiện được, các linh mục không được cử hành phụng vụ hay
làm mục vụ ở nhiều nơi khiến giáo dân ở những nơi đó thiếu thốn những phương
tiện tâm linh cần thiết, v.v… Những thiệt hại ấy không phải là nhỏ. Phần nào ngài đã đánh giá bản chất Kitô
giáo quan trọng hơn đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu! Trái lại, muốn tránh những thiệt hại to lớn ấy cho Giáo
Hội, muốn Giáo Hội dễ thở và có thể phát triển, thì phải biết mềm dẻo, nhượng
bộ, nghĩa là phải trả giá bằng sự im lặng hay bất động trước những điều mà cứ
bình thường thì lương tâm buộc phải lên tiếng hay can thiệp. Các giám mục Việt Nam nói chung đã chọn
cách ứng xử này. Phần nào các ngài đã đặt nặng đời sống hay sinh hoạt Kitô hữu
hơn bản chất Kitô giáo!”[10] Lựa chọn như thế có khác gì Âu châu hôm nay ?
Khi đánh mất căn tính,
Giáo hội không còn sức mạnh làm chứng.
Vai trò ngôn sứ cũng phai tàn. Sự
hiện hữu không còn ý nghĩa và trở nên thừa thãi. Thực vậy, Chúa Giêsu đã quả quyết : “Không phải
bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! Lạy
Chúa !’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu !
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi.”[11] Nói khác, không phải có đủ thứ đền đài, nghi
lễ, hành hương, quyền bính v.v. mà xây dựng được Nước Trời ở trần gian. Xây dựng Nước Trời trên những thứ đó có khác
gì xây nhà trên cát ? Chỉ khi nào dám “làm
chứng cho sự thật”[12]
trước mặt thế quyền như Chúa, Giáo hội mới thấy rõ tại sao mình “sinh ra và đến
trong thế gian.”[13] Chính vì can đảm chứng cho sự thật, Ðức Giêsu
và Gioan Tẩy Giả đã mất cả mạng sống và cơ hội đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Nhưng nhờ chết đi, Chúa đã làm cho cả Giáo hội
bừng dậy bao nhiêu thế hệ ngôn sứ. Lạy Chúa, xin cho Giáo Hội Việt Nam luôn can đảm làm chứng
cho sự thật để tự do, công lý, hòa bình
mau đến với quê hương con , Amen. đỗ
lực, 10.12.2006 [1] Giampaolo Mattei, L’Osservatore
Romano, ghi lại VietCatholicNews
05/12/2006. [2] x. Lc 3:1-2. [3] x. Lc 3:2. [4] Lc 3:6. [5] 1 Ga 1:1. [6] Ga 1:34. [7] x. Gr 31:31-37; Ed 34:11-30; 36:23-36. [8] x. Samir, S. K., Violent Islam, cowardly Europe : from the cartoons to Regensburg,
AsiaNews, 30.09.2006. [9] ibid. [10] Nguyễn Chính Kết, Thái Ðộ Im
Lặng của Các Giám Mục Việt Nam, Tập San Dấn Thân, www.danthan.com
[11] Mt 7:21. [12] Ga 18:34. [13] ibid. Mục Lục Phúc Âm Nhật Ký Trở Về Trang Nhà |