TAI ƯƠNG HAY TƯƠNG LAI
(Mc 13:24:32)
Hiện nay, Ðức Mẹ Fatima
đang thánh du Houston. Ðây là Thánh Tượng
đã từng thánh du Việt nam cách đây hơn bốn chục năm, lúc chiến tranh đang diễn
ra ác liệt nhất. Nhìn lại Mẹ, tôi không
sao cầm được nước mắt và bồi hồi nhớ về quê hương đau khổ bên kia bờ đại dương. Cơn xúc động lên tới tột cùng khi thấy ánh mắt
Mẹ vẫn đầy trìu mến nhìn đến đoàn con đang đau khổ dưới trần gian. Quỳ trước nhan Mẹ, tôi
nghe rất rõ lời Mẹ nhắn nhủ. Những bí mật
Fatima một lần nữa lại vang lên. Nhưng càng
mở ra, những bí mật đó càng làm cho tôi băn khoăn và suy nghĩ. Những lời đe loi khủng khiếp. Mẹ kêu gọi mọi người ăn năn hối cải để tránh
những tai ương sắp giáng xuống toàn thể nhân loại. Nói tóm, Mẹ muốn người ta
suy nghĩ về cảnh tượng cánh chung để biết đường chuẩn bị. Cái chết trở thành một phương tiện răn đe khá
hữu hiệu đối với nhiều người. Nhưng tôi tự hỏi những răn
đe đó có phù hợp với Tin Mừng không ? Trong
khi Chúa nói “đừng sợ !” chẳng lẽ Mẹ lại đưa các hình phạt đó ra để hù con
? Phải chăng Chúa dạy một đàng, Mẹ nói một
nẻo ? Phải chăng Mẹ đang cổ võ một nền
văn hóa sợ hãi, ngược với Chúa Giêsu Con Mẹ ?
Giữa Mẹ và Con, chúng ta biết theo ai ?
Thực tế, Mẹ không bao giờ dạy chúng ta đừng theo Chúa. Ngược lại, Mẹ luôn nói : “Người bảo gì, các
anh cứ việc làm theo !”[1] Nếu chỉ chú tâm đến những gì xảy ra trong vũ
trụ mà thôi, chúng ta có đủ lý do để run sợ.
Phải chăng Ðức Mẹ muốn chúng ta cắm mắt vào những biến cố tận cùng của
vũ trụ mà quên đi Biến Cố lớn nhất là chính Con Thiên Chúa làm người ? Sống trong sự sợ hãi,
con người có thể bình an và vững bước theo Chúa không ? Ðã có lần Nietzche chua chát mỉa mai : “Các
linh mục ấy làm tôi thương hại ... Người
mà họ gọi là Ðấng Cứu Thế đã cho họ vào cùm : cái cùm của những giá trị giả tạo
và những lời nói hão huyền ... Họ không
biết yêu mến Thiên Chúa cách nào khác hơn là bằng cách đóng đinh con người
... Có lẽ họ phải hát những bài hát hay
hơn để tôi có thể bắt đầu tin vào Ðấng Cứu Thế của họ : có lẽ các môn đồ của Ðấng
Cứu Thế ấy nên có một vẻ được giải thoát hơn.”[2] Ðúng thế, Ðức Kitô mang đến sự giải thoát hoàn
toàn, chứ không phải những bức bách hay kềm kẹp. Hơn nữa, cái chết và phán
xét dễ làm con người trở thành tiêu cực.
Cùng lắm chỉ làm chúng ta ăn năn không trọn. Trong khi đó, Chúa Giêsu muốn chúng ta trọn lành
như Cha trên trời.[3] Nghĩ đến cái chết, con người có thể sống khôn
ngoan hơn. Nhưng cái chết không bao giờ
có thể trở thành động lực thúc đẩy con người sống như Ðức Kitô Phục sinh. Nghĩ đến cái chết của mình có thể làm cho con
người lo sợ, chán nản và buông xuôi tất cả.
Tất cả trở thành tai ương. Trái lại,
muốn thoát khỏi tai ương và tiến tới một tương lai phục sinh toàn thể nhân loại,
chúng ta cần phải tập trung vào cái chết của một Người Khác đến từ Thiên Chúa,
chứ không phải cái chết của mình. Chỉ có
cái chết của Ðức Giêsu mới làm cho chúng ta sống và hưởng ơn cứu độ dồi dào . Hiện nay, nhân loại đang sống trong thời đại Ðức
Kitô phục sinh. Ðức Kitô không còn chết
nữa. Tại sao lại tìm cái chết giữa thế
giới đã chan hòa ánh sáng phục sinh ? Bởi vậy, hôm nay Chúa
Giêsu vẽ ra trước mắt chúng ta cảnh tượng cánh chung, không nhằm hù dọa, nhưng để
mọi người thấy rõ ơn cứu độ lớn lao tới mức nào. Quả thế, trong lúc cả vũ trụ kinh hoàng, Con
Người sẽ xuất hiện như một cứu cánh và niềm hy vọng cuối cùng.[4] Giữa lúc mọi người kinh hãi và tản mác, vẫn có
niềm vui lớn từ cảnh quy tụ “những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ
đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.”[5] Ðúng là một ngày Hội Lớn của những con người được
cứu thoát. Như thế, sự hủy diệt và
sầu thảm chỉ xảy ra cho những lực lượng thù nghịch với Thiên Chúa và con người. Còn những người tin tưởng vào Chúa Cứu Thế sẽ
vui sướng và bình an. Thực thế, “Kinh thánh
gọi sự canh tân huyền nhiệm này, sự biến cải nhân loại và thế giới, là ‘trời mới
và đất mới.’ (2 Pr 3:13) Cuộc canh tân đó
sẽ dứt khoát thực hiện kế hoạch Thiên Chúa đem “mọi sự trong [Ðức Kitô] ‘trên
trời và dưới đất’ (Ep 1:10) dưới quyền một thủ lãnh duy nhất.”[6] Ngay trên trần gian, người tín hữu đã sống
trong niềm vui vì là chi thể của Chúa.
Vui vì thấy niềm hy vọng đang lớn lên tới mức độ viên mãn là Ðức Kitô. Mặc dù sống trong sự căng thẳng giữa ân sủng
và vinh quang, giữa những điều “đã có” và “chưa tới,” các tín hữu vẫn vững tin
vào chiến thắng cuối cùng của “Ðấng đang hiện hữu để nắm trong tay vận mạng thế
gian mau qua ; Ðấng nắm chìa khóa tử thần và âm phủ (x. Kh 1:18); Ðấng là Nguyên Thủy và Cứu Cánh lịch sử nhân
loại (x. Kh 22:13) ... Và Ðấng là Tình yêu (x. 1 Ga 4:8, 16) – Tình yêu trở thành
con người, Tình yêu bị đóng đinh và phục sinh, Tình yêu không ngừng hiện diện
giữa loài người.”[7] Như vậy, vấn đề là làm sao nhận ra tình yêu tuyệt
vời đó đang hoạt động bằng quyền lực Thiên Chúa để biến đổi ước vọng phù phiếm nhân
loại thuần túy sang chân lý và thực tại Thiên Chúa.[8] Ý thức về cánh chung không
chỉ cần cho những người sắp lìa đời. Chính
người đang sống và tham gia vào công cuộc làm chứng càng cần ý thức về cánh
chung hơn. Từ cái nhìn cánh chung, mới
có thể ý thức về tính cách bất tất của lịch sử.
Từ đó, có thể kiến tạo thế giới hiện tại và tương lai với một ý thức mới
về trách nhiệm liên đới.[9] Chính ý thức lịch sử đó đã khiến ÐGH Gioan
Phaolô II tạo được một hành động lịch sử xin thế giới tha thứ vào năm Thánh 2000,
nhất là năm 2001 ở Giêrusalem và Athen. Sở dĩ có thể tạo được hành
động lịch sử đó, vì ÐGH Gioan Phaolô II đã ý thức Chúa Giêsu, chứ không phải Giáo
hội, là trung tâm lịch sử. Chỉ có Mầu
Nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô mới tạo thành trung tâm lịch sử cứu độ mà thôi. Chính Giáo hội cũng nằm trong hoàn cảnh lịch
sử. Không xoay quanh trung tâm cứu độ đó,
Giáo hội tự biến mình thành trung tâm chi phối tất cả công cuộc cứu độ. Ðó là sai lầm đã nhiều lần diễn ra trong lịch
sử. Bao lâu Giáo hội nhận thức Chúa Kitô
là cùng đích, nền tảng và trung tâm lịch sử, Giáo hội mới thoát khỏi vòng xoáy
hay cơn lốc lịch sử. Chỉ có niềm tin cánh
chung mới cho thấy Ðức Kitô chính là Biến cố Cánh Chung hay Thời Ðại Cuối Cùng. Chỉ có Người mới trình bày cả thời gian lời hứa
và vinh quang thành tựu, vì Người đã hiệp nhất hai bản tính Thiên Chúa và nhân
loại nơi chính mình. |
Kitô hữu xác tín rằng vạn
vật đang hướng tới và bắt nguồn từ biến cố trung tâm là Ðức Kitô.[10] Ðức Giêsu chính là cứu cánh lịch sử. Giáo hội là lữ khách cần cải tổ và canh tân
không ngừng. Không bao giờ được đồng hóa
hay lẫn lộn Giáo hội với Nước Thiên Chúa trên trần gian.[11]
Thế mới hay tính cách tương đối của Giáo hội.
Trên đường hướng về Ðấng Tuyệt Ðối, Giáo hội không thể quên tính cách nhân
loại mỏng dòn và mau qua của mình. Chính
lúc nhận ra sự yếu đuối đó, Giáo hội lại được Chúa Thánh Linh soi sáng thấy con
đường dẫn dắt lịch sử nhân loại tới cứu cánh viên mãn. Chính Thánh Linh sẽ làm biến đổi thực tại
trong ta và đem lại một sự sống bất hoại thể hiện nơi Ðức Giêsu lần đầu tiên
khi làm cho Người trỗi dậy (Rm 8:11). Sự
sống đó thực sự đã được Giáo hội nếm hưởng ngay trên trần gian này. Bởi đó, các tác giả Kitô giáo thường nói đến
chiều kích “cánh chung” của các bí tích Giáo Hội và của đời sống đức tin.[12]
Nếu những điều tiên đoán
trong các bí mật Fatima xảy ra thật, thì điểm nhấn không phải là những nét kinh
hoàng của các biến cố đó. Biến cố chính
là Ðức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong tâm hồn và cuộc đời tín hữu. Trước những biến cố thiên nhiên, họ luôn nghe
Chúa phán : “Ðừng sợ !” Ðây là lời nhắn
nhủ vắn tắt và rất thực tế đối với những ai có lòng tin. Thực vậy, “Trong Chúa Giêsu và Thánh Linh,
Thiên Chúa hiện diện như một huyền nhiệm sự sống vượt lên trên mọi hiểm nguy
hay đổ nát, một chân lý tối thượng, một tình yêu vô điều kiện và bền vững.”[13] Ðúng như Kinh Thánh quả quyết : “Chúa là nơi
con vào trú ẩn, lũy sắt thành đồng chống lại địch quân.”[14] Nhưng hình như tiếng nói
của bản năng sợ hãi vẫn trấn át chúng ta.
Sau khi Phục sinh, Chúa đã trấn an các môn đệ : “Ðừng sợ !”[15] Chính
ÐGH Gioan Phaolô II đã nhắc lại rất nhiều lần.
Nhưng chúng ta vẫn sống như thể Chúa chưa Phục sinh. Bởi thế, vẫn không thể thắng nổi sự sợ hãi tầm
thường. Nếu đã từng sống ơn hiện sủng đầy
tính ‘cánh chung,’ như đã mạc khải trong Tân Ước về Ðức Kitô, ta sẽ có một xác
tín rõ ràng về tương lai cánh chung. Thực
vậy, “Kitô hữu nhận biết về tương lai mình vì họ hiểu về chính mình và ơn cứu rỗi
của mình trong Ðức Kitô qua mạc khải của Thiên Chúa.”[16] Thực tế, có lẽ vì quá ít
hiểu biết và sống Lời Chúa, nên chúng ta mới thấy tương lai đầy tai ương. Thần Khí và sự sống thiếu vắng trong ta, nên
mới dễ bị ám ảnh và kinh hoàng trước những viễn tượng đen tối. Ðức Kitô là mạc khải cuối cùng và trọn vẹn nhất
của Thiên Chúa. Người là biến cố áp đảo
mọi biến cố và đã dứt khoát bẻ lái lịch sử nhân loại sang một hướng khác hẳn. Không thể coi thường niềm hy vọng Kitô, một
niềm hy vọng có nội dung cụ thể là vị “Cánh Chung” tối cao. Người là “những sự sau cùng” vào lúc lịch sử
nhân loại hay cuộc đời mỗi người kết thúc.[17] “Ngày Con Người được
mạc khải,”[18]
Chúa dạy chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu
chuộc.”[19] Ðó không phải là thái độ của những người sợ
hãi. Trái lại, chỉ những người can
trường và tự tin mới có thể đứng trong tư thế hiên ngang như vậy. Ðúng hơn, chỉ những người tràn đầy niềm hy
vọng Kitô, mới có thể nắm vững tương lai tuyệt đối là chính Thiên Chúa.[20] Thế nên, biến cố lớn nhất không phải là vũ
trụ tan biến, nhưng là Thiên Chúa mạc khải trọn vẹn tình yêu tuyệt đối vượt
trên mọi sự chúng ta có thể tưởng tượng. Cánh chung Kitô giáo là
một sứ điệp cứu độ được thực hiện trọn vẹn trong Ðức Giêsu. Những tiêu cực không thể tạo thành sứ điệp
nòng cốt của Kitô giáo. Cánh chung Kitô
giáo là một phần công bố ơn cứu độ. Ðó
là “tin mừng” theo nghĩa trong sáng nhất.[21]
Nếu tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, chúng ta cũng phải nhìn nhận Chúa Giêsu
Phục Sinh có quyền trấn át tất cả sự sợ hãi, vì Người là Chúa Tể muôn
loài. Người đã chiến thắng cả tội lỗi và
sự chết để bước vào vinh quang. Muốn tham dự vào vinh
quang đó với Người, chúng ta phải chia sẻ đau khổ và cái chết của Người. Người đã phục sinh để bảo đảm ngày Người tái
lâm chúng ta sẽ chiếm trọn vẹn hồng ân cứu độ.
Nếu không đại thắng , chắc chắn Chúa Giêsu không thể có toàn quyền giựt
lại ơn cứu độ cho chúng ta. Bởi đó, Phục
sinh tương đương với việc kiện toàn trong mọi chiều kích của chúng ta về phương diện cá nhân, vũ trụ và xã hội.[22] Rõ ràng cánh chung Kitô
giáo mở ra một hướng sống vô cùng tốt đẹp.
Muốn được thế, dứt khoát chúng ta phải tập trung chú ý vào một biến cố
vĩ đại hơn cả biến cố vũ trụ, đó là Ðức Giêsu Kitô. Nhờ Thánh Thần, Chúa Giêsu đã trở thành niềm
hy vọng duy nhất và sau cùng cho chúng ta khi phải chạm trán với những sự sau cùng
của cuộc đời hay vũ trụ. Tất cả đều phải tan biến để mở một tầm nhìn mới về
Thiên Chúa. Trong sự hiệp thông trọn vẹn
với Ba Ngôi, chúng ta sẽ trọn vẹn trở thành con Thiên Chúa.[23] Lạy Chúa, năm cùng tháng tận đã đến, xin mở ra cho chúng
con thấy tình yêu mãnh liệt của Chúa nơi cái chết và sự Phục sinh của Con
Chúa. Xin cho chúng con biết núp bóng
Con Chúa để có thể đứng vững trước những biến cố lớn lao của cuộc đời. Trong khi hướng về ngày cánh chung, xin cho
chúng con không quên Ðức Kitô chính là biến cố sau cùng mạc khải trọn vẹn hồng
ân cứu độ của Chúa. Amen. [1] Ga 2:5. [2] Trích lại từ Rey-Mermet, C.Ss.R, Tin : Nhãn Quan Mới Về Luân Lý, Phạm Minh Thiện, cssr dịch, California:
Tủ sách Tin, 1992, tr. 278 [3] x. Mt 5:48. [4] Lc 21:28. [5] Mc 13:27. [6] Giáo Lý Công Giáo, số 1043. [7] Gioan Phaolô II, Crossing the Threshold of Hope, New York
: Alfred Knopf, 1994 [8] Shaw, R., Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, Indiana :
Our Sunday visitor, Inc., 1997, tr. 203. [9] New Catholic Encyclopedia, 2nd ed., Eschatology in Theology, Lane, D. A.,
Farmington Hills : The Gale Group, 2003, tr. 347. [10] Cullmann, O., Christ and Time, Philadelphia : Wesminster Press, 1947. [11] New
Catholic Encyclopedia, 2nd Ed., Eschatology
in Theology, Lane, D. A., Farmington Hills : The Gale Group, 2003, tr. 347. [12] x. Commentary on the Catechism of the
Catholic Church, ed. by Walsh, M.J. Eschotology,
Brian E. Daley SJ, Minnesota : The Liturgical Press : 1994, tr. 205. [13] ibid. [14] Tv 61:4. [15] Mt 14:27; Mc 6:50; Ga 6:20. [16]K. Rahner, ‘The hermeneutics of
eschatological assertions' in Theological Investigations, vol. 4 (London,
1966), tr 332, 335. [17] Dictionary of Fundamental Theology, ed.
by Latourelle, R. & Fisichella, R. Eschatology,
Ladaria, L. F., New York : Crossroad, 1995, tr. 273. [18] Lc 17:30. [19] Lc 21:28. [20] Dictionary of Fundamental Theology, ed.
by Latourelle, R. & Fisichella, R. Eschatology,
Ladaria, L. F., New York : Crossroad, 1995, tr. 273. [21] ibid. [22] ibid. [23] ibid. Mục Lục Phúc Âm Nhật Ký Trở Về Trang Nhà |