MÙA ÐÔNG NĂM ẤY
(Lc 2:1-20)
Trong cuộc tiếp kiến
các giám mục Nhật bản ngày 17.12.2007 vừa qua, ÐGH Bênêđictô XVI nói : “Thế
giới thực sự đang đói khát sứ điệp niềm hy vọng do Tin Mừng mang đến. Ngay cả
trong các nước phát triển cao như quốc gia quý vị, nhiều người thấy rằng sự
thành công về kinh tế và kỹ thuật tiên tiến tự nó không đủ để lấp đầy con tim
nhân loại. Ai không biết Thiên Chúa, cuối cùng cũng không có niềm hy vọng, niềm
hy vọng vĩ đại kéo dài suốt đời.”[1]
ÐGH nói tiếp : chúng ta có thể vượt
qua sự dối trá do văn hóa hiện đại quyến rũ tuổi trẻ vào con đường tuyệt vọng bằng
niềm hy vọng do Ðức Kitô mang lại. Chính vì thiếu niềm hy
vọng, nên nhiều bạn trẻ ngày nay chạy theo vật chất, theo những thứ có khả năng
tạo ra ảo vọng. Thế giới thuộc về ai đem lại niềm hy vọng cho nhân loại. Còn ai
đem lại niềm hy vọng bằng chính Ðức Giêsu, Ðấng đã sinh ra giữa cảnh băng giá
và nghèo hèn. Chúa đã làm người để đem ơn giải thoát đến cho những nạn nhân của
những cơ chế bất công xã hội và của những chủ nghĩa tự hào về niềm hy vọng con
người có thể đem lại cho chính mình. Nhưng giữa lúc nhân loại, nhất là tuổi trẻ
đang khao khát tìm kiếm niềm hy vọng, Giáo Hội có cách nào đáp ứng nhu cầu khẩn
thiết đó của thời đại không? ÐÊM THÁNH VÔ CÙNG Ðêm thánh vô cùng không
diễn ra chốn cao sang vô cùng, nhưng giữa nơi khốn cùng của kiếp người. Ai có
thể tưởng tượng Con Thiên Chúa sinh giữa trần gian lại theo cung cách khiêm hạ
đến thế?! Qua một vài dòng ngắn ngủi, thánh Luca cực tả cảnh nghèo hèn đơn bạc
của Ðấng Cứu Thế : “Bà sinh con trai đầu
lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được
chỗ trong nhà trọ.”(Lc 1:7) Nhưng không ai ngờ giữa chốn tối tăm hoang vắng
ấy”một tin mừng trọng đại, một niềm vui cho toàn dân”(Lc 2:10) đang hình thành.
Niềm vui ấy không dành
cho những người sống trong cảnh “lầu son gác tía,” nhưng cho “những người chăn
chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.”(Lc 2:8) Ðó là những người
nghèo, nạn nhân của những cơ chế xã hội bất công. Cũng như Chúa, họ bị hất hủi
và chèn ép bất công. Làm việc suốt đêm ngày cũng không có đủ miếng ăn. Nhưng
chính họ mới là người được Thiên Chúa đoái thương. Tình thương Thiên Chúa
vượt ngoài dự tưởng. Ðang canh giữ đoàn vật giữa canh khuya, họ bỗng thấy “sứ
thần Chúa đứng bên và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, họ sợ hải kinh
hoàng.”(Lc 2:9) Như bị nhấc bổng lên một thế giới xa lạ, họ choáng váng và vô
cùng sợ hãi. Nhưng cũng chưa thấm vào đâu so với tin mừng họ nghe được từ miệng
sứ thần : “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua
Ðavít.”(Lc 2:11) Ai có thể hiểu được tâm trạng những người chăn chiên lúc này?!
Niềm hạnh phúc lên tới tột cùng. Họ không ngờ mình lại được tuyển chọn để chào
mừng Ðấng Cứu Thế đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của mình. Không có lúc nào sung sướng hơn khi nghe thấy
cả đạo binh thiên thần hát vang trời sứ điệp hòa bình : "Vinh danh Thiên
Chúa trên trời, Sứ điệp ấy vẫn còn vang
vọng mãi trên không trung. Nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ, nghèo hèn mới có thể
lắng nghe mà thôi. Bởi thế, cuộc sống càng xô bồ, phức tạp, con người càng
không thể nghe và hiểu nổi sứ điệp đó. Nghe sứ điệp hòa bình trong khung cảnh
thanh tĩnh tuyệt vời, các người chăn chiên như lạc vào tiên cảnh. Hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn và thân xác, họ đi tìm Ðấng Kitô theo chỉ dẫn của sứ thần. Những dấu chỉ đó thật
tầm thường, đúng hơn, dưới mức tầm thường nữa. Chính vì thế, họ như đi tìm một
cái gì thật giống mình mà cũng thật khác mình. Chúa đã hòa đồng đến nỗi có thể
gần gũi cả những người tầm thường nhất, để họ có thể bạo dạn đụng chạm đến chiều
kích vô cùng của Thiên Chúa. Tại sao Chúa lại chọn
một chiều kích giới hạn nhất của kiếp người để
rao giảng sứ điệp Tin Mừng giải
thoát? Phải chăng Tin Mừng Bình An chỉ
được rao giảng trong một khung cảnh đơn sơ, khó nghèo? SỨ ÐIỆP HÒA BÌNH Sứ điệp hòa bình do các
thiên thần gởi đến cho những con người đang sống trong cảnh nghèo hèn vì những
cơ chế bất công. Phải chăng Chúa muốn kéo mọi người chú ý tới những người cần
được cứu nhất trên trần gian. Người muốn phơi bày tất cả bộ mặt thật của chế độ
bất công đã áp bức con người. Bao lâu còn bất công, không thể có hòa bình. Quả
thật, “hòa bình là hoa trái của công lý.”[2] Công lý phát xuất từ Thiên Chúa. Bởi đó, chỉ Thiên
Chúa mới có thể dẹp tan những cơ chế bất công ấy và đem lại hòa bình cho nhân
loại mà thôi, vì Người là Ðấng Công Chính. Ngày 19 tháng 12, năm
2007, ÐGH Bênêđictô XVI phát biểu : “Ngày nay chúng ta là các tín hữu thật sự
tin vào Đấng Thẩm Phán; chúng ta mong chờ công lý. Chúng ta thấy quá nhiều bất
công trên thế giới, … và chúng ta mong chờ công lý…. Chúng ta hy vọng có một vị
nào đó đến và có thể đem lại công lý. Trong phạm vi này chúng ta cầu mong Đức
Chúa Giêsu Kitô sẽ đến như Vị Thẩm Phán…. Chúa biết phải xuống thế gian thế nào
để tạo ra công lý. “Mong đợi công lý theo
nghĩa của Kitô giáo có ngĩa là … chúng ta bắt đầu sống dưới đôi mắt Vị Thẩm
Phán,… tạo dựng công lý ngay trong đời sống chúng ta…. Bằng cách này chúng ta
có thể mở thế giới ra đón chào Chúa Con đến và sửa soạn tâm hồn chúng ta để đón
Chúa là Đấng phải đến. “Tại Bê Lem, Ánh Sáng
chỉ cho chúng ta Con Đường đưa đền sự sung mãn về nhân tính của chúng ta. Nếu
không nhận ra Thiên Chúa đã làm người, chúng ta cử hành Lễ Sinh Nhật có ý nghĩa
gì không? Là Kitô hữu,chúng ta phải xác tín sâu xa về chân lý Chúa Kitô giáng
sinh, để trờ thành nhân chứng trước mặt mọi người về hồng ân độc nhất đem lại
giàu sang không những cho chúng ta mà cho mọi người.”[3] Khi Chúa Giêsu giáng sinh
giữa khung cảnh nghèo hèn, Thiên Chúa đã kéo hai đối cực sát lại nhau, không
phải giữa Tạo hóa và tạo vật mà thôi, nhưng giữa Ðấng Công Chính và sự bất chính
nữa. Khi đã nhìn ra sự khác biệt quá xa như thế, người ta sẽ dễ dàng lựa chọn
và tìm ra con đường giải thoát khỏi sự bất chính, bất công. “Sự nghèo đói đặt
ra một vấn đề nghiêm trọng về công lý. Trong nhiều hình thức và hiệu quả khác
nhau, đặc điểm của nó là sự phát triển bất bình đẳng. Nó không nhìn nhận “mọi
người có quyền bình đẳng ngồi chung một bàn. Sống nghèo đói như thế, không thể
có một nền nhân bản đầy đủ.”[4]
Khi xuống thế làm người, Chúa muốn đem đến cho nhân loại một chiều kích sung
mãn về nhân tính. Chiều kích này thực sự chỉ nảy nở trong vương quốc Thiên Sai,
có Chúa Giêsu “là hòa bình của chúng ta.” (Ep 2:14) |
Hòa bình như thế không
còn nằm trên bình diện xã hội hay chính trị, nhưng thực sự có một chiều kích
siêu nhiên và có tính cách quyết định toàn thể vận mệnh cuộc đời. Thực vậy, cùng
với công lý, hòa bình là một trong bảy hoa trái của Chúa Thánh Thần : “Vì Nước
Thiên Chúa … là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.”(Rm 14:7;
xc Gl 5:22) Chúa đến và hiện diện giữa trần gian để cho mọi người thấy nguồn an
bình đã thực sự có mặt trên trái đất. Ðó là một nền hòa bình mới, hoàn toàn
khác biệt với hòa bình do thế gian hứa hẹn. Ngày Chúa giáng trần và ngày long
trọng vào thành thánh Giêrusalem, khúc ca hòa bình đã trổi lên. Một lần trên
trời vọng xuống. Một lần dưới đất cất vang lên. Chỉ có hòa bình do Con
Chúa mang đến trần gian mới thật là một nền hòa bình cao quý, vì đem lại ý
nghĩa lớn lao làm giàu cho cuộc sống con người. Hòa bình kêu gọi con người giữ
lời thề và mau mắn đáp lại lời chân lý, công lý và tình yêu mời gọi. Trái với
các tiên tri giả, người có tâm hồn cao quý không lùi bước trước những hy sinh
để tiến đến đỉnh cao hòa bình. Bởi đó, hòa bình này đang hiện diện trong và
trên chúng ta. Ðó là một nền hòa bình mạnh hơn những lực lượng bạo loạn đang
khuấy động trong tâm hồn và thế giới hôm nay. Ðó là một nền hòa bình phong phú,
làm cho chúng ta luôn kiên cường và khích lệ cho bao nhiêu nỗ lực hôm nay. Kinh
thánh nói đến một nền hòa bình chan chứa những điều may lành và gồm mọi nhân
đức, một nền hòa bình thành toàn và đem lại hạnh phúc cho muôn người. Chỉ có
hòa bình các thiên thần đã hứa trong đêm Giáng sinh mới đem lại
cho nhân loại tất cả chiều kích phong phú và viên mãn nhất cho hạnh phúc nhân
loại.[5] TỪ HANG BÊLEM ÐẾN CÁNH ÐỒNG TRUYỀN GIÁO Nhiều người vẫn tự hỏi
: tại sao Chúa lại chọn sinh ra giữa đêm đen? Giữa cảnh nghèo nàn và giá buốt
Chúa đã mạc khải tất cả sứ mệnh giải thoát nhân loại. Phải chăng đó là khung
cảnh thuận tiện để loan truyền ơn cứu độ giữa muôn dân? Từ hang Bêlem tới cánh
đồng truyền giáo, con đường có xa lắm không? Giáo hội có thể học được bài học
nào về truyền giáo trong đêm Giáng Sinh? Ðêm Giáng Sinh đã tỏa
sáng tất cả ý nghĩa và giá trị của công cuộc cứu độ của Chúa và việc truyền
giáo của Giáo hội trên trần gian. Chúa hoàn toàn không bị đóng khung trong
những truyền thống hay bốn bức tường nhà thờ và những cuốn sách dầy cộm trong
thư viện. Từ cảnh tượng, nhân vật đến nội dung sứ điệp đều hoàn toàn thoát khỏi
những khuôn khổ nhất định của mọi định chế xã hội, tôn giáo và văn hóa. Ðúng
hơn, chính vì muốn mạc khải một con đường giải thoát mà Chúa đã không ngần ngại
sinh ra trong kiếp nghèo hèn, lầm than và bị hất hủi. Chúa chấp nhận tất cả để
giảỉ thoát tất cả. Thế nhưng, càng về sau
càng thấy cơ chế thành hình đã đóng khung Tin Mừng trong những định chế cứng
ngắc. Chính vì thế, nhiều lúc Tin Mừng như mất sức sống. Cần phải tìm về hang
Bêlem để tìm hứng khởi cho những bước chân đang trải dài trên cánh đồng truyền
giáo. Không nắm vững tinh thần tự do của Ðêm Giáng Sinh trong hang đá Bêlem,
không thể thành công trên cánh đồng truyền giáo. Từ trời cao thẳm Chúa
đã nhập thể và nhập thế. Chúa đã đi những bước thật mạnh dạn. Chúa đã dấn thân
vào đời để ôm lấy tất cả thực tế của nhân loại. Không một chút rụt rè. Không
một tiếng thở than. Chúa thực sự liên kết với nhân loại một cách sâu đậm và
mãnh liệt nhất. Chúa nhập cuộc với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, vì
chính Chúa đã không kiếm được quán trọ để sinh ra. Chúa đã đứng về phía những
người kém may mắn nhất, bởi vì Người đã sinh ra trong một máng cỏ và giữa chiên
bò. Từ giữa triều thần
thánh, Chúa đã trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt giữa những người chăn chiên
màn trời chiếu đất. Ðó là những người bạn đồng hành với Chúa và là những người
rao giảng Tin Mừng đầu tiên của Chúa (x. Mt 2:20). Hình ảnh người chăn chiên
trở thành khuôn mẫu lý tưởng, đến nỗi Chúa đã mượn để diễn tả về chính mình :
“Thày là Mục tử nhân lành.” (Ga 10:11) Từ Cựu ước, mục tử là hình ảnh quá quen
thuộc để nói về Thiên Chúa. Chính vì thế, Chúa đã chọn sinh ra giữa các người
chăn chiên để chiếu sáng lên hình ảnh tuyệt vời của Mục Tử cao cả đích thật.
Người cũng muốn mạc khải về cảnh bầy chiên quấn quít bên mục tử để mọi người
cảm thấy tình thương của mục tử đối với bầy chiên lớn lao và sâu đậm tới mức
nào. Không có một ngăn cách hay một thứ biên giới nào khiến mục tử và chiên xa lạ
nhau. Tình thương sâu đậm đến nỗi mục tử dám liều chết vì đàn chiên. Không có
tình yêu đó, cánh đồng truyền giáo sẽ hoàn toàn xa lạ và khác biệt với hang đá
Bêlem. Sinh ra giữa hang bò
lừa , Mục tử nhân lành thực sự đã hòa chung nhịp thở với đàn chiên. Không những
mục tử đủ sức bảo vệ đàn chiên, nhưng còn đi trước để dẫn đường chỉ lối cho
chúng hướng về tương lai. Vai trò lãnh đạo không làm cho mục tử trở thành lạnh
lùng. Trái lại, đàn chiên rất quen thuộc tiếng mục tử và đi theo sự dẫn dắt của
mục tử. Tiếng mục tử quen thuộc vì nội dung là sứ điệp Tin Mừng. Sứ điệp Tin
Mừng đem lại ơn giải thoát và sự sống đích thực. Nói khác, sứ điệp đó là chân
lý do Ðấng Công Chính đem xuống trần gian. Công lý đã hiện thân nơi con người
Ðức Giêsu Kitô. Trọn vẹn sứ điệp Tin
Mừng đó, Mục tử nhân lành đã ủy thác cho Giáo Hội. “Tự bản tính, Giáo Hội lữ
hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và
Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha.”[6]
Trong hoàn cảnh hiện tại, Giáo hội không thể không biết mình “liên kết thực sự
và thân mật với nhân loại và lịch sử thế giới”[7]
như vị Mục Tử nhân lành. Nếu muốn thành công trên cánh đồng truyền giáo, Giáo
Hội cần phải nhận rõ sứ điệp Tin Mừng và toàn cảnh hang đá Bêlem đều nói lên
một điều duy nhất : công lý là danh hiệu mới của hòa bình. Tóm lại, nơi hang
Belem, niềm hy vọng là Chúa Giêsu Kitô đã giáng sinh. Nơi đây, “hòa bình công
lý đã giao duyên.” (Tv 84:11) Sứ điệp hòa bình cũng là sức mạnh cứu độ toàn thể
nhân loại. Muốn rao giảng sứ điệp hòa bình, Giáo hội phải xả thân tranh đấu cho
công lý.[8] Lạy Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương Chúa
trong đêm Giáng Sinh. Xin cho Giáo Hội Chúa dấn thân hơn nữa cho Tin Mừng hòa
bình để nhân loại sớm được giải thoát
khỏi mọi cơ chế bất công. Amen. đỗ lực Giáng Sinh 2007 |
[2] Piô XII, “opus justitiae
pax.”
[4] Tóm Lược Học Thuyết Xã
hội của Giáo Hội, 449.
[5] x. Pinckaers, O.P., S. The Pursuit of Happiness - God's way – Living the Beatitudes 1998:156-157.
[6] Ad Gentes, 2.
[7] Gaudium et Spes, 1026.
[8] x. Phaolô VI www.answers.com/topic/pope-paul-vi