TIẾNG AI GỌI ÐÒ
(Lc
4:21-30)
Sau khi gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), Việt nam đang
cần những bước tiến mới và những giây phút nhìn sâu hơn vào nội tâm. Ðứng ở bên này bờ sông Cửu Long hay biển Thái
Bình, ông Lý Quang Diệu lấy ngón tay chỉ sang bờ bên kia và nói với các nhà
lãnh đạo Việt nam : “Giai đoạn đuổi theo sẽ tiếp tục trong 20, 30, 40 năm nữa
để bắt kịp, ví dụ như Malaysia.” Theo
thống kê IMFnăm 2005, hàng năm thu nhập đầu người của Malaysia là 5042 Mỹ kim,
Thái Lan 2659, Việt nam 618, và Singapore 26.836. Một thời gian dài hơn trăm năm có đủ cho Việt
nam bắt kịp Singapore không ? Nguyên
nhân nào khiến Việt nam tụt hậu quá mức như vậy ? Theo ông, tại Việt Nam cơ sở hạ tầng kém,
tiêu chuẩn giáo dục thấp, chương trình đại học và các trường kỹ thuật không cập
nhật.[1] Những nhận xét đó có làm các nhà lãnh đạo
Việt nam giật mình như tưởng “tiếng ai gọi đò” không ? Tiếng ai gọi đò đã vang rộn cả bến đò từ lâu
rồi. Nhưng khách sang sông vẫn cứ “lui
cui” ở mãi bên này bờ sông. Tình trạng đất nước như thế, còn GHVN ra sao ? Có ai dám đưa nhận xét gì không ? Nhận xét rồi, có ai lắng nghe không ? Hôm nay, không phải cô lái đò, nhưng Chúa
đang lên tiếng kêu gọi mọi người hãy nhìn sang bên kia bờ đại dương và hãy mạnh
dạn lên thuyền với Thày ! Không sang
sông, không thể thấy lòng mình mở ra trước những hoa thơm cỏ lạ nơi bờ bên
kia. Ngày xưa, những người đồng hương với Ðức Giêsu cũng thế. Họ quanh quẩn trong “lũy tre xanh” làng
Nadarét. Hình ảnh “con ông Giuse” (Lc
4:22) với những dụng cụ làm mộc trên tay quá quen thuộc với dân làng. Ai còn lạ gì anh chàng Giêsu hàng ngày đi
hết nhà này sang nhà kia làm mướn kiếm ăn ?
Thế mà, không ngờ khi ra khỏi lũy tre xanh, anh chàng thợ mộc trẻ đó đã
lừng danh tận Caphacnaum, một thành phố nổi tiếng giàu sang và trụy lạc, nơi
đặt bản doanh nhiều quân lính Rôma. Bởi
tiếng đồn về Người lan rộng khắp đế quốc Rôma.
Ðó là tin đồn. Thực tế, dân làng
đợi dịp gặp Người sẽ trực tiếp kiểm chứng thực hư. Hôm nay cơ hội đã đến. Cơ hội đến với dân làng hay đến với Ðức Giêsu ? Ðúng hơn, đây là cơ hội bằng vàng để Chúa mở
mắt và mở lòng cho họ. Người muốn dùng
“gậy ông đập lưng ông,” tức những điển tích về ngôn sứ Êlia và Êlisa, để cảnh
tỉnh họ về con đường thênh thang của Thiên Chúa dành cho những ngôn sứ đích
thực. Sống giữa cảnh đói khổ của hàng
ngàn người, ngôn sứ Êlia đã vượt qua hàng rào Ítraen đến với bà góa nghèo thành
Xarépta miền Xiđôn. Ông đã làm đầy hũ
bột và cứu sống người con trai sắp chết của bà (1 V 17:8-24). Thừa hưởng “hai phần thần khí” (2 V 2:9) tôn
sư Êlia, ngôn sứ Êlisa đã thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa cho
tướng Naaman, người xứXyri (x. 2 V 5), chứ không cho một người phong cùi nào ở
ngay quê hương Ítraen của ông (x. Lc 4: 27).
Ðáng lý hai ông phải cứu sống những người đồng hương trước chứ ! Tại sao
lại thi thố tình thương cho người ngoài và phớt lờ trước những đau khổ của đồng
bào ? Thật khó hiểu ! Nhưng, như thế mới rõ vai trò ngôn sứ không lệ thuộc vào biên giới
quốc gia hay chủng tộc. Chúa đã nêu ra
hai bằng chứng Kinh thánh để biện minh cho sứ mệnh cứu độ muôn dân của
Người. Không thể căn cứ vào những điều
mắt thấy tai nghe hàng ngày nơi xóm làng để kết luận về một con người như Ðức
Giêsu. Những điều bình thường không
không thể biểu lộ hết thực chất con người.
Không tỏ lộ quyền năng nơi xóm làng không có nghĩa là con người không
vươn xa hơn lũy tre xanh. Những việc hai
ông làm cho những người ngoại có khác gì những việc Chúa làm ở Caphacnaum ? Khi mượn hình ảnh hai ông Êlia và Êlisa, Ðức Giêsu muốn tự phác họa
về chính mình như một ngôn sứ của thời đại mới với tầm nhìn vượt qua mọi biên
cương. Cũng như hai ông, Ðức Giêsu nhắm
tới người dân “tứ chiếng,” không thuộc chủng tộc Ítraen. Ðó là đối tượng sứ vụ của Người. Khi thấy dân ngoại hay người xa lạ được ưu ái
hơn, đồng hương Người đã lồng lộn ghen tức.
Họ trút cả cơn giận xuống con người Ðức Giêsu (x. Lc 4:28-29), vì không
chịu nổi cách cư xử “bất công” của Chúa.
Nhưng thực ra, chính lòng dạ cứng tin của họ là nguyên nhân chính ngăn
cản Chúa thi thố quyền năng tại quê hương. Bởi vậy, dân làng chưa sẵn sàng đón nhận được sứ vụ ngôn sứ hay
chính ngôn sứ. Chưa mở rộng tầm nhìn,
làm sao họ có thể thấy những kỳ công nơi vị Ngôn Sứ Giêsu. Không đón nhận được Ðức Giêsu như Ngôn Sứ,
làm sao có thể nhìn nhận Người là Ðấng Cứu Ðộ muôn dân ? Con
đường tới đức tin chân chính còn quá dài !
Họ không thể vượt qua nổi ! Ngày nay cũng có những con đường dài như thế ! Con đường đại kết giữa các Kitô hữu chẳng
hạn. Hàng bao thế kỷ, những người cùng
tin Chúa Kitô vẫn chưa nhận ra nhau là anh em.
Như thế, làm sao Chúa Kitô có thể hiện diện và xuất hiện với muôn dân
ngoài biên giới các giáo hội ? Có những
lúc người ta có cảm tưởng Giáo hội giống như con thuyền trơ vơ giữa dòng vì cô
lái đò đi lo chuyện riêng. Cảnh người ùn
tắc bờ sông làm tắc nghẽn mọi sinh hoạt :
Bỏ
thuyền, bỏ lái, bỏ dòng sông, Khách buồn không thể sang bờ bên kia. Biết bao thiệt hại chồng chất năm tháng. Ðáng lý con thuyền đưa người lữ khách sang
bến bờ gặp gỡ. Trong quá khứ, Giáo hội
khép kín trong những tin tưởng, lo lắng và bận tâm riêng, mặc những ùn tắc bên
ngoài. Rất may, từ Công Ðồng Vatican II, con thuyền Giáo hội bắt đầu rời
bến. Bao niềm vui đã rộ lên từ những
cuộc đối thoại đại kết. Nhưng cũng từ đó
mới thấy vấn đề không đơn giản và mau lẹ như nhiều người mơ tưởng. Quả thế, có gặp gỡ mới thấy “đại kết là một tiến trình chậm chạp, một con đường lên dốc, như
mọi con đường sám hối.” Sở dĩ vì “người
ta dễ chiều theo cám dỗ thích ‘nghe qua’ chứ không thích ‘chăm chú lắng nghe,’
thích nói những phân nửa các sự thật, thay vì can đảm công bố các sự thật đó.”[3] Người ta thích nghe chính mình, chứ không lắng
nghe nhau. Bất cứ ai có ý kiến khác mình
đều bị gán cho tội chống đối, phá hoại, gây chia rẽ, xáo trộn v.v. Chính những giọng điệu này mới gây chia
rẽ. Những ý kiến hay cả niềm tin khác
biệt là những lời mời gọi chúng ta cởi mở chấp nhận đối thoại để tìm điểm gặp
gỡ hay hiệp nhất. Hiệp nhất không có
nghĩa là bắt người khác phái theo ý mình.
Không chấp nhận ý kiến người khác, chúng ta không thể nhìn thấy hết vấn
đề và dễ trở thành độc tài và tự mãn. |
Chính vì khép kín lâu đời trong những lâu đài tín
lý tráng lệ, Giáo hội đã tự cô lập và chưa quen mở cửa đón nhận hay ra ngoài
gặp gỡ những con người sống trong thực tế.
Bằng chứng, sau 40 năm đối thoại đại kết, Giáo hội cũng chưa đạt tới mức
tiến bộ nào đáng kể. Có những giọng nói
quá lạ đối với Giáo hội. ÐGH Bênêđictô
phải thú nhận : “Người muốn mù điếc thì dễ gì nhận ra khả năng canh tân nơi Tin
Mừng, nắm men Chúa quan phòng ban cho mỗi người chúng ta để sám hối và canh tân
tinh thần.”[4] Tự bản chất sâu thẳm nhất, Giáo hội duy
nhất. Nếu chia rẽ, Giáo hội không thể
hiện hữu. Ở đâu có sự chia rẽ, nên lấy
sự tha thứ và hòa giải mà phục hồi. Giữa các Giáo hội, biết bao dư luận không tốt
thêu dệt dầy đặc qua bao thế kỷ ! Bao
nhiêu nghi kỵ và hiềm khích đã nổi lên trong lòng Giáo hội. Con đường tìm đến nhau để đánh tan những lớp
mây mù đó, đâu phải dễ ! “Tuy nhiên,
sau những khó khăn ban đầu con đường đó cũng cho thấy các niềm vui, các chặng
dừng chân giải khát cho phép thỉnh thoảng hít thở đầy hai lá phổi không khí
trong lành của sự hiệp nhất trọn vẹn.
Nhìn lại chặng đường 40 năm qua, chúng ta ngạc nhiên về cách Chúa thức
tỉnh chúng ta khỏi cơn hôn mê tự mãn và lãnh đạm ; cách Chúa làm cho chúng ta
ngày càng có thể ‘lắng nghe nhau’ hơn, chứ không chỉ ‘nghe chính mình’ mà thôi
; cách Người mở miệng lưỡi chúng ta dâng Chúa lời cầu nguyện có sức thuyết phục
thế giới hơn.”[5] Kết quả lớn lao đó phát xuất từ đức tin. Không có đức tin, không thể nhìn thấy bao
nhiêu chứng từ ân sủng Chúa ban cho chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Không có đức tin, không thể cầu nguyện hữu
hiệu. Ðó là điều ÐGH Bênêđictô xác tín :
“Quả thực Chúa đã ban cho tôi nhiều ân sủng, và trong ánh sáng Thánh Linh, qua
những chứng từ, Người cho thấy mọi sự đều có thể đạt được nhờ lời cầu nguyện,
nếu chúng ta biết vâng phục mệnh lệnh tình yêu của Chúa với lòng xác tín và
khiêm cung và tha thiết với niềm mong đợi sự hiệp nhất tất cả môn đệ Chúa.”[6] Nếu thế, “việc lo lắng tái lập hiệp nhất liên
quan tới toàn thể Giáo Hội các giáo hữu cũng như các chủ chăn, và từng người
một theo các khả năng trong cuộc sống thường ngày cũng như trong các nghiên cứu
thần học và lịch sử.”[7] Một lần nữa, lời Chúa Kitô cầu nguyện cho hiệp
nhất (x. Ga 17:21-22) lại vang lên trong lòng Giáo hội. Tiếng kêu gào thống
thiết đến nỗi không ai có thể giả điếc làm ngơ được ! Quả thực, “phải tìm sự hiệp nhất trong nhiều
cấp độ và trong vô số hoàn cảnh khác nhau : giáo xứ, bệnh viện, những cuộc tiếp
xúc giữa quần chúng, sự hợp tác giữa các cộng đoàn địa phương ở khắp nơi trên
thế giới, và nhất là trong các miền đang thể giúp kêu gọi mọi người nỗ lực tối
đa sống tình huynh đệ và thanh tẩy quá khứ nữa.”[8] Nếu mọi người đều có trách nhiệm đối với cuộc
hiệp nhất Giáo hội, chúng ta phải làm gì ?
Có thể sống mãi trong bốn bức tường nhà thờ như những pháo đài không ? Ðã đến lúc chúng ta cần lắng nghe tiếng Chúa qua
những dấu chỉ thời đại. Chúng ta không
thể nhìn niềm tin cóng lạnh trong những truyền thống lâu đời được nữa. Trái lại, đức tin luôn thúc đẩy chúng ta
phải tìm mọi phương cách giải quyết những vấn đề thời đại. Ðức tin luôn năng động. Nhờ đức tin, chúng ta biết “nhiệm vụ chung
đầu tiên là cầu nguyện. Khi cầu nguyện và khi cùng nhau cầu nguyện các tín hữu
Kitô ý thức hơn về tình trạng của các anh chị em khác cả khi còn chia rẽ nhau;
và khi cầu nguyện chúng ta học biết lắng nghe Chúa hơn, vì chỉ khi lắng nghe
Chúa và theo tiếng của Người chúng ta mới có thể tìm ra con đường của sự hiệp nhất.”[9] Ðức
tin không thể cô lập, nhưng mở rộng cõi lòng và tương quan chúng ta với tha
nhân. Từ đó, các biên giới sẽ được phá
vỡ. Chúng ta có thể dễ dàng đến với anh
em cùng niềm tin vào Chúa Kitô. Dù cùng đang phục vụ Dân Chúa trong một Giáo Hội,
nhưng biết bao người tin Chúa Kitô không thể gặp gỡ nhau. Ngay trong GHVN, những bức tường dầy cộm hay
những hàng kẽm gai đang vây chặt và phân cách các nhóm người, đến nỗi họ không
thể đến với nhau. Rõ ràng dấu chỉ tình yêu đã phai lạt và sức sống Giáo Hội yếu
hẳn đi vì thiếu tinh thần hiệp nhất.
Theo trào lưu hội nhập thế giới hôm nay, GHVN cần phá đổ những bức tường
và hàng rào trong nội bộ. Ðối thoại
thẳng thắn và tích cực bao giờ cũng là đường lối vững chắc đi vào tương
lai. Có đối thoại, mới có hợp tác. Muốn
đẩy mạnh công cuộc truyền giáo và xây dựng cho chính mình và quê hương, GHVN
cần phải sám hối. Các thành phần GHVN
cần tha thứ cho nhau mới có thể sống hiệp nhất như Chúa Kitô mời gọi và mọi
người đang mong chờ ! Nếu không, chẳng
còn nhiều thời gian để làm việc cho Dân Chúa trên trần gian nữa đâu ! Thực tế, muốn phá đổ những bức tường hay hàng rào
trong GHVN, cần có cái nhìn sâu sắc và nỗ lực lớn lao của mọi người. Ngoài đời chính phủ Việt nam đã mời ông Lý
Quang Diệu vạch ra những mặt yếu kém hiện tại và phóng tầm nhìn về tương lai
trong nhiều thập niên tới. Ðề nghị GHVN mời một nhân vật nổi tiếng của
Giáo Hội Ðại Hàn hay Ấn Ðộ sang thăm để giúp chúng ta có những cái nhìn mới mẻ
và thực tiễn hơn . . . Lạy
Chúa, xin thương đến Giáo Hội của Chúa.
Xin cho chúng con luôn cố gắng mở rộng tâm hồn để có thể đón nhận và đến
với mọi người. Xin cho các Giáo Hội của
Con Chúa, nhất là GHVN, hiệp nhất thành
một chứng từ tình yêu của Chúa trên trần gian. Amen đỗ lực 28.01.2007 dzuize@gmail.com |