BỨC
TRANH HÍ HỌA
(Lc
15:1-3.11-32)
Tự do là giá trị cao cả
nhất và vinh dự nhất cho sinh vật có lý trí trên mặt đất này. Ðó là nền tảng xác định con người cao hơn vạn
vật Ðó cũng là nguyên nhân sinh ra niềm
vui lớn lao nhất cho con người. Nhưng
cũng chính vì tự do, con người phải trả giá mắc nhất. Những gì đã và đang xảy ra tại Việt Nam chứng
minh hùng hồn nhất. Ngày xưa, các thánh tử
đạo Việt Nam đã lấy mạng sống để chứng minh cho mọi người thấy tự do tôn giáo
là một giá trị cao cả nhất và linh thiêng nhất của quyền làm người. Ngày nay, con cháu các ngài lại phải trải qua
một kinh nghiệm gần giống cha ông, nhưng ở một chiều kích tinh vi hơn. Tự do trở thành một thứ chiêu bài và công cụ
cho đủ mọi thứ thao túng. Việc đập phá tượng
Pieta và trù dập phong trào dân chủ vừa qua là một điển hình ! Nhiều người sống bên Mỹ
cũng không có cái nhìn khá hơn về tự do.
Họ tung hoành trong mọi ngành nghề.
Doanh nhân tự do trốn thuế. Người
già tự do lợi dụng Medicare, Medicade, An sinh xã hội v.v. Giới trẻ tự do sống buông thả tình dục,
nghiện hút, băng đảng v.v. Ðây là một dịp tìm hiểu
ý nghĩa tự do đích thực. Biểu tượng nổi nhất của
tự do buông thả là người con thứ trong dụ ngôn hôm nay. Sau bao năm thơ ấu sống êm ả trong gia đình,
cậu sống khá ngoan ngoãn. Chẳng ai thấy
cậu có vấn đề gì. Bỗng một hôm, cậu
thẳng thắn xin cha chia gia tài (x. Lc 15:12).
Ai ngờ cậu đã ấp ủ trong lòng một giấc mơ “tự do” từ bao giờ ! Cậu nhắm đến một chân trời xa thật xa. Xa như giấc mộng dài cậu đang thêu dệt. phương tiện ăn chơi là gia tài kếch sù cậu
vừa đón nhận. Khả năng là tuổi trẻ đầy
sinh lực. Còn gì tự do hơn ! Nhưng “đời lắm lúc
không bằng mộng” ! Vừa lúc anh cháy túi,
một nạn đói khủng khiếp ập tới. Họa vô
đơn chí ! Giấc mộng còn dài và tuổi trẻ
còn sung cũng đành chào thua thời cuộc.
Hoàn cảnh quá bức bách. Anh không
còn phương tiện để sống còn. Chân anh
không đứng vững trên mặt đất nữa ! Tất
cả vũ trụ quay cuồng và đảo ngược. Tất
cả đều bế tắc. Anh bị dồn vào chân
tường. Chỉ còn một lối thoát duy nhất là
đổi danh dự lấy mạng sống. Trước kia,
anh là người chỉ tay năm ngón. Bây giờ,
anh phải cúi đầu trước lệnh truyền ra đồng chăn heo. Giấc mơ bây giờ xuống thấp đến nỗi anh không
bằng con heo nữa. Anh sống mà như
chết. Tất cả nhân phẩm đã tiêu tan ! Chính tự do đã dẫn anh
vào cõi chết ! Người cha cũng đã khẳng
định như thế : (x. Lc 15:24, 32). Ðó không phải là tự do đích thực. Anh tưởng tự do là muốn làm gì thì làm. Không phải trả giá cho tự do. Thực tế, anh đã phải trả giá quá đắt cho một
chọn lựa sai lầm. Khi bị dồn vào đường
cùng, anh mới nhận ra đâu là nơi để anh thực hiện tất cả giấc mộng tuổi
trẻ. Ðâu mới là tự do đích thực. Dĩ nhiên, không phải
chỉ những người hư hỏng, mà cả những người con ngoan cũng chưa chắc hiểu tự do
là gì. Khung cảnh và hình thức không đủ
bảo đảm cho con người có nhận thức đích thực về tự do. Ngay ở trong nhà, người con cả có biết tự do
là gì đâu. Anh đã phục vụ với một mục
đích hoàn toàn tầm thường vật chất. Anh
tự nhốt trong chính mình. Dù được chia
gia tài như người em, nhưng anh cũng chẳng biết làm gì với vốn liếng đó. Có lẽ sau khi được chia gia tài, anh đã đem trả lại hết cho cha, hầu được
tiếng là con ngoan. Anh vẫn tỏ ra mình
“ngon” hơn cậu em. Tới khi thấy cách
thân phụ đối xử ngon lành với người em mạt rệp ấy, anh mới thấy lòng khoan dung
không đúng với sự công bình ngoài thực tế.
Lúc đó, anh mới nói hết sự thật cho bõ ghét ! Anh chưa từng nhỏ rãi trước mùi cám heo như
cậu em. Thế nên, anh vẫn thấy những ưu
đãi vật chất trong gia đình là chuyện đương nhiên. Thà một lần đi hoang để
biết thế nào là giá trị của tự do, còn hơn “cù lần” như người anh cả tự nhốt
mình trong tháp ngà ! Nhưng nếu có một
tấm lòng như thân phụ, anh cũng có thể
cảm nhận tất cả chiều kích và đường nét tươi đẹp của tự do. Tiếc thay những lời khuyên của thân phụ không
đủ sức thuyết phục bằng thực tế ngoài đời dạy cho người con thứ. Tâm hồn anh cả đã khép lại ! Dù cố gắng dùng cả lý lẽ lẫn tình cảm, người
cha cũng phải đầu hàng. Anh không thể
hiểu và hưởng được niềm vui của tự do đích thực ! Ðúng thế ! Tự do đích thực bao giờ cũng đem lại niềm vui
và chân trời rộng mở. Chắc chắn những gì nói với con cả, người cha cũng bộc lộ
cho con thứ : “Tất cả những gì của cha đều là của con.” (Lc 15:31) Trong khi người con cả thờ ơ, thì người con
thứ như uống từng lời cha vào tận đáy lòng.
Lời đó như một tia nắng ấm chiếu sâu vào tận đêm trường giá lạnh của
lòng anh. Anh sung sướng vô cùng. Từ nay
anh mới thực sự là con người tự do. Có
bao giờ anh nghe ai có những lời nói và cử chỉ thân thương như thế trong suốt
hành trình xa nhà ? Nhất là khi anh bị
vùi dập ngoài chuồng heo, anh đã cảm nghiệm tất cả nỗi nhục nhã và đau khổ của
kiếp nô lệ như thế nào ! Anh không được
đối xử bằng con vật. Phải xuống tận bùn
đen như thế, anh mới thấy quý những gì mình đã tìm lại được nơi nhà cha. Tất cả đều do tình yêu hải hà của người cha
nhân ái. Thế mà, trước đây anh đã cắt
đứt. Chỉ vì tự do tuổi trẻ, anh đành coi
cha như đã chết, để đòi chia gia tài cho bằng được ! Dưới mắt người con cả,
cha đã phung phí tình yêu một cách dại dột.
Làm sao cha biết người em thứ sẽ không bỏ nhà ra đi một lần nữa ? Ngựa quen đường cũ, cha không biết hay sao
?! Cha đã quá thương nên không lường
trước tương lai. Cha đã mất khôn khi
không còn xét xử theo những nguyên tắc công bình con người như thấy trong lề
luật nữa. Cái nhìn của những người
Pharisêu về Thiên Chúa y hệt như vậy ! Nhưng
công lý của Thiên Chúa có bộ mặt hoàn toàn khác. Công lý Thiên Chúa xây dựng trên một tình yêu
vô điều kiện và khôn lường. Dụ ngôn cho thấy tất cả
chiều kích vô biên đó của tình yêu ấy, khi người con thứ trở về. Tình yêu ấy đã có sức phục sinh người con thứ
và đem lại niềm vui thực sự cho anh. Từ
nay anh sẽ sống nhờ tình yêu ấy hơn bất cứ thứ nào khác. Không có tình yêu ấy, anh sẽ biến mất khỏi
mái ấm và sẽ ra đi vào một miền vô định.
Giả sử anh trở về quá trễ, lúc cha anh không còn, số phận anh sẽ ra sao
? Rất may, anh trở về lúc còn cha trong
nhà. Tình yêu người cha đã sáp nhập anh
vào một cuộc sống gia đình cách tự nhiên.
Cũng tình yêu đó đã không thể cảm hóa người con cả để anh chấp nhận cuộc hiệp thông lớn lao do
cha đề nghị. Có tin yêu, người cha mới
hết lòng mời mọc như vậy. Nhưng người
con cả đã thẳng thừng từ chối. Anh mới
là tên nô lệ cho chính mình. |
Bức tranh hí họa đã
trình bày hình ảnh độc đáo về tình yêu người cha giữa hai người con. Bức thứ nhất diễn tả về Thiên Chúa nhân lành
đến nỗi bị lợi dụng như thể Người mắc nợ chúng ta, còn chúng ta chẳng mắc nợ gì
Người, ngay cả việc nhận biết Người. Trái
với quan niệm thường tình về Thiên Chúa như một nhà độc tài không hề biết
nhượng bộ, dụ ngôn đã mô tả hình ảnh cực kỳ tốt đẹp về người cha hạnh phúc khi
thấy con trở về với mình. Phải, đó là
Tin mừng trong Chúa nhật này. Hãy đón
nhận niềm vui tha thứ, niềm vui giao ước được canh tân trong bí tích Thánh Thể,
niềm vui tín thác, niềm vui thông hiệp. Tất cả niềm vui này đều phát xuất từ Chúa Cha,
nhờ Con Chí Ái Người là Ðức Giêsu. Từ đó
chúng ta hướng về niềm vui Phục Sinh. Nhìn chung, tự do đã
trở thành điểm ranh giữa hai người con.
Ban đầu người con thứ đi tìm một thứ tự do vô trách nhiệm. Nhưng thực tế đã dạy cho anh một bài học “để
đời.” Nhờ thế, anh mới thấu hiểu phải
trả giá rất mắc cho một giá trị lớn lao và cao cả nhất của con người, đó là tự
do. Còn người anh cả chỉ biết bổn phận
mà không biết đến tự do. Tình yêu luôn có khả năng giải thoát. Không có tình yêu, không thể có tự do và
hiệp thông. Người anh cả “vẫn đi bên
cạnh cuộc đời,” mà không hiểu được niềm vui của tình yêu chia sẻ. Bởi vậy, anh mới có quan niệm quá khắt khe về
lỗi lầm của người em. Anh đã xây dựng
một nền công lý trên lề luật, chứ không trên tình yêu. Không bao giờ có một sự
bình an cho những con người như anh. Hòa
bình không thể xuất hiện khi con người không biết tha thứ. Ơn cứu độ cũng vắng bóng khi con người không
biết nhìn nhận Thiên Chúa là Cha và tha nhân là anh em. Phải đợi tới khi nào
Ðức Giêsu Kitô xuất hiện, con người mới thấy tất cả tương quan lớn lao trong
trời đất. Từng bị hạ xuống bùn đen, nên Người
có thể hiểu biết và đánh giá được tất cả ý nghĩa của tự do hơn ai hết. Hơn nữa, “chính để chúng ta được tự do, mà Ðức
Kitô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5:1)
Ðức Kitô cũng là người Anh Cả giữa đoàn em đông đúc (Rm 8:29) là chúng
ta. Nhưng hoàn toàn khác với người anh
cả trong dụ ngôn hôm nay, không những Ðức Kitô không ghen tương, mà mời gọi chúng ta đi vào cuộc hiệp thông với
Cha Người. Hơn nữa, Người còn lấy chính
Mình Máu Người để làm tiệc thết đãi chúng ta.
Vì Người đầy lòng yêu thương, quảng đại, tha thứ. Khác với người con
thứ, Người không cần phải mất một thời gian đi hoang, Người mới có thể đánh giá
đúng mức giá trị của tự do. Người cũng không cần phải đợi Cha nhắc nhở mới biết
mình được tự do hưởng mọi quyền lợi trong Nhà Cha. Thật vậy, chính Người quả quyết : “Mọi sự Chúa
Cha có đều là của Thày.” (Ga 16:1 5) Khác
hẳn với hai người con trong dụ ngôn đầy
khuyết điểm, Ðức Giêsu thật là Con Chí Ái, hoàn toàn làm hài lòng Chúa
Cha (x. Mt 3:17; Mc 1:11). Bởi thế, Chúa
Cha mới căn dặn chúng ta: “Hãy vâng nghe lời Người !” (Lc 9:35) Ðức Mẹ cũng phụ họa : “Người bảo gì, các anh
cứ việc làm theo.” (Ga 2:5) Tại sao phải nghe lời
và làm theo Ðức Giêsu ? Nếu không muốn
trả giá quá mắc vì lầm lạc theo những đam mê như người con thứ hay tấm lòng
chật hẹp như người con cả, chúng ta cần vâng nghe Con Chí Ái của Chúa Cha. Chỉ có Người mới mở cho chúng ta bầu trời tự
do đích thực, tự do làm con cái Chúa.
Khác với tự do đi hoang đã hạ giá người con thứ xuống dưới hàng con vật,
tự do của Chúa nâng chúng ta cao hơn địa vị con người, để trở thành con cái
Chúa. Thật là một giá trị tuyệt vời ! Bức tranh hí họa cuối
cùng không diễn tả cảnh trái ngược giữa hai người con trong dụ ngôn, nhưng giữa
họ và Người Con Chí Ái của Chúa Cha. Con
thứ hiểu lầm về tự do, nhưng lại là cơ hội cho thấy tình yêu Thiên Chúa đầy bao
dung. Con cả ngộ nhận về công lý. Từ đó, mới thấy công lý đích thực phải đặt
nền tảng trên tình yêu. Cả hai người con ấy đều không thể phản ánh
hình ảnh người cha nhân hậu. Trái lại, Ðức Giêsu là “hình ảnh Thiên Chúa vô
hình,” (Cl 1:15) một hình ảnh cực tả Thiên Chúa là Cha. Tin tưởng vào mãnh lực tình
yêu Thiên Chúa, bao chứng nhân đã lên đường tranh đấu cho công lý và hòa bình. Chẳng hạn, năm 2002 tại Nam Hàn, Nữ tu Cho Seong-ae đã được Quốc Hội Nam Hàn trao tặng Huân Chương Cao
Quý Quốc Gia Nam Hàn. Quyết định trao tặng huân chương của Quốc Hội Nam Hàn
nhìn nhận rằng "Người nữ tu này đã góp phần biến nhà tù không còn là nơi
trừng phạt nhưng là môi trường thuận lợi cho việc cải hóa và quay về với những
điều lương hảo." Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn cho biết trong 25 năm phục vụ
trong các khám đường, nữ tu Cho Seong-ae đã dẫn dắt 760 phạm nhân tiếp nhận đức
tin Công Giáo, chưa kể số thân nhân của họ. Con số này rất đáng kể, vì ngoài
việc giúp đỡ về phần thiêng liêng, nữ tu Cho Seong-ae còn giúp đỡ rất nhiều cho
gia đình các phạm nhân trong thời gian họ chịu giam cầm trong lao lý. Nữ
tu Cho Seong-ae luôn cố gắng tìm kiếm công ăn việc làm cho
các gia đình để các phạm nhân yên tâm cải huấn.[1] Tiếp
tục truyền thống tranh đấu cho công bình xã hội, ngày 07/03/2007 vừa qua, khoảng
300 nữ tu Công Giáo Nam Hàn tham gia cuộc biểu tình khổng lồ, ước lượng khoảng
74,000 người, tại Hán Thành nhằm chống lại cuộc thảo luận về mậu dịch tự do
giữa Nam Hàn và Hoa Kỳ. Các nữ tu cho biết họ quan ngại cho số phận những nông
gia Nam Hàn và đời sống công nhân các xí nghiệp trong nhiều ngành kỹ nghệ tại
quốc gia này.[2] Rõ
ràng các Nữ tu không còn phải là những người chỉ biết đọc kinh dâng lễ trong
nhà thờ. Tình yêu Chúa thôi thúc họ xuống
đường tranh đấu cho cuộc sống con người.
Họ đi tìm một nền công lý xây dựng trên tình thương. Biết bao người đã tìm được con đường về Nhà
Cha nhờ những chứng từ lớn lao này ! Còn
các Nữ tu Việt Nam đang quan tâm tới cái gì và đang làm gì ?! Lạy Chúa, xin cho con cảm nhận tình
thương bao la của Chúa, để con có thể thông cảm với tha nhân và cùng mọi người xây dựng một nền công lý trên sức
mạnh tình yêu, chứ không trên bạo lực. Amen. đỗ lực 18.03.2007 |