HÃY NÂNG TÂM HỒN LÊN

THÁNG HAI

1 THÁNG HAI

Sức Mạnh Giấu Ẩn Trong Sự Bất Lực

Thiên Chúa hiện diện ở giữa mọi nền văn hóa của con người, bởi vì Ngài hiện diện nơi chính con người – là tạo vật mà Ngài đã dựng nên theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa không ngừng hiện diện nơi những ai – bằng kinh nghiệm và bằng cảm hứng của mình – đóng góp vào việc hình thành những giá trị, những tập tục và những cơ chế làm nên di sản văn hóa của toàn thế giới này.

Nhưng vị Vua Vinh Hiển còn muốn đi vào trong những nền văn hóa này bằng một cách thế trọn vẹn hơn nữa. Ngài muốn đi vào trong cung lòng của bất cứ ai sẵn sàng mở rộng để đón nhận Ngài: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên! Cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào!” Trong biến cố dâng Đức Giêsu vào đền thờ, Thiên Chúa đã vào đền thánh của Ngài trong tư cách là “Vua Vinh Hiển”.

Nhưng – “Đức Vua vinh hiển đó là ai?” (Tv 24, 7 – 8). Lễ Dâng Chúa Giê-su Vào Đền Thờ trao cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta nhìn ngắm Maria và Giu-se ẵm một hài nhi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem. Hôm ấy là bốn mươi ngày sau biến cố hài nhi chào đời.

Và hai người đã trình diện hài nhi cho các tư tế trong đền thờ để chu toàn lề luật. Nhưng, với thái độ tuân phục ấy, hai người đang chu toàn một cái gì đó còn hơn cả lề luật. Mọi sấm ngôn thuở xưa giờ đây đang được hiện thực trọn vẹn, vì Maria và Giu-se đang mang vào đền thờ “ánh sáng của mọi dân tộc.”

Thiên Chúa đi vào đền thánh không phải trong tư cách của một đấng quyền lực mạnh mẽ, nhưng là trong dáng dấp của một em bé trên đôi cánh tay mẹ mình. Vua Vinh Hiển không đến trong uy phong lẫm liệt của nhân loại, không rình rang đình đám ồn ào. Ngài không gây giật gân, khiếp hãi. Ngài vào đền thờ vẫn với cung cách như khi Ngài vào thế giới: là một bé thơ. Ngài vào đền thờ trong lặng lẽ, nghèo hèn, và hiện diện với Ngài là những kẻ nghèo hèn và những người khôn ngoan.

2 THÁNG HAI

Uy Quyền

Aån Giấu Trong Cái Đơn Sơ

Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành của muôn loài, Đấng toàn năng của trời và đất, Đấng là Vua Vinh Hiển, đã đến trong hình hài một đứa bé nhỏ nhoi. Biến cố Thiên Chúa vào đền thờ của dân Ngài được bao phủ trong mầu nhiệm của sự yếu đuối và bất lực. Tuy nhiên, uy quyền của Ngài ẩn giấu trong vẻ đơn sơ và yếu đuối ấy của một em bé.

Tất cả biến cố này là một mầu nhiệm. Rất tình cờ, ngay chính giữa mầu nhiệm này, một tiếng nói đã cất lên. Đó là ông già Si-mê-on. Thánh sử Luca cho biết Thánh Thần hằng ngự trên ông già này (cf. Lc 2, 25).

Nghĩa là, Si-mê-on đã lên tiếng trong tư cách một nhà tiên tri. Lời ông nói khiến người ta sửng sốt. Ông chúc tụng Thiên Chúa: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ mà Chúa đđành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của It-ra-en dân Ngài” (Lc 2, 29 – 32).

Kỳ lạ biết bao khi đó là những lời nói về một em bé. Nhưng sấm ngôn của Si-mê-on hoàn toàn chân thực. Và lời thánh vịnh xưa đã được ứng nghiệm. Đấng vào đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay đây chính là ánh sáng và là ơn cứu độ của toàn thế giới. Ngài đã mang ánh sáng và ơn cứu độ đến trong cung cách như thế đấy. Ngài chính là Vua Vinh Hiển.

Nhưng, vị vua vinh hiển này sẽ thiết lập triều đại vinh quang của Ngài trên trái đất bằng cách nào đây? Bằng cách nào đây, em bé Giê-su sinh hạ ở Bê-lem ấy sẽ trở thành ánh sáng và ơn cứu độ của trần gian? Ông già Si-mê-on đã trả lời cho những vấn nạn trên khi ông tiên báo: “Cháu bé này sẽ là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2, 34).

Những lời ấy bộc lộ toàn bộ con đường cứu độ của Đức Kitô từ khi chào đời cho đến lúc chết trên thập giá. Người là ánh sáng của các dân tộc; nhưng Người cũng là một dấu chống đối của mọi thời đại, một dấu khơi lên sự thù địch, sự mâu thuẫn.

Các ngôn sứ của It-ra-en ngày xưa, trước Người, cũng đã từng như thế. Đó là số phận của Gio-an Tẩy Giả, và cũng sẽ là số phận của bất cứ ai nối gót theo Người. Giê-su đã thực hiện biết bao dấu lạ lớn lao. Người chữa lành các bệnh nhân, Người hóa bánh và cá ra nhiều để phân phối cho đám đông dân chúng, Người truyền cho giông tố im lặng, và thậm chí Người cho kẻ chết được sống lại.

Đám đông tuôn đến với Đức Giêsu từ khắp mọi nơi, họ lắng nghe Người vì Người giảng dạy với uy quyền. Thế nhưng, Người gặp phải sự chống đối kịch liệt của những kẻ không chịu mở lòng trí ra để đón nhận Người.

Rốt cục, sự chống đối của người ta leo lên đến tột đỉnh trong cuộc khổ nạn và cái chết thập giá của Đức Giêsu. Sấm ngôn ngày ấy của ông già Si-mê-on hoàn toàn ứng nghiệm.

Sấm ngôn ấy ứng nghiệm cho cuộc đời của Đức Giêsu – và ứng nghiệm cho cuộc đời của các môn đệ Người mọi nơi và mọi thời.

3 THÁNG HAI

Trong Lãnh Vực Y Tế …

Trong các chuyến viếng thăm mục vụ của tôi, nhất là tại những nước đang phát triển, tôi nhận thấy rằng lãnh vực y tế là một lãnh vực đang khẩn thiết đòi ta phải đấu tranh cho con người. Chẳng hạn, người ta ngày càng chú ý đến kỹ thuật, nhưng lại không phải bao giờ cũng quan tâm bảo vệ quyền của con người.

Đau khổ, bệnh tật và chết chóc là những thực tại rất căn bản của cuộc nhân sinh. Tất cả chúng ta phải cộng tác với nhau để giải quyết – một cách đầy nhân tính – những vấn đề hệ lụy của các thực tại ấy. Giúp đỡ các bệnh nhân vượt qua cơn bệnh của họ một cách bảo đảm phẩm giá – đó chắc chắn là điều mà nhân loại kỳ vọng từ khoa học, từ kỹ thuật và từ việc sử dụng thuốc men. Nhưng để được như thế, không thể không có một nhãn quan sáng tỏ về bổn phận phải tuyệt đối tôn trọng con người. Con người là tạo vật duy nhất siêu vượt trên thực tại vật chất – bởi vì con người không chỉ là vật chất mà còn là tinh thần. Đó phải là điểm qui chiếu thường xuyên của chúng ta trong lãnh vực y khoa, nếu chúng ta thực sự muốn tránh những hậu quả khôn lường gây ra cho xã hội. Tôn trọng phẩm giá của nhân vị – đó là bổn phận của tất cả chúng ta.

4 THÁNG HAI

Đứng Về Phía Sự Sống

Trong cái nhìn Kitô giáo, con người – hình ảnh của Thiên Chúa – là sự diễn tả tột đỉnh của sự sống trong vũ trụ. Đích điểm của con người là Thiên Chúa; và đích điểm của vũ trụ là con người. Đấng Tạo Hóa đã thiết lập các định luật vận hành vũ trụ tự nhiên; cũng vậy, Ngài đã ghi tạc vào trong bản tính con người những chuẩn mực phổ quát của hành vi ứng xử. Những chuẩn mực này không lụy thuộc vào sự tùy tiện giải thích chủ quan. Chúng không phải là con phỗng để ai muốn kéo sao thì kéo.

Vâng, có những giá trị và những quyền rất căn bản gắn kết không rời với phẩm giá con người và với định mệnh vĩnh cửu của mỗi cá nhân. Trên tất cả chính là quyền sống – một quyền phải được bảo vệ trong suốt cuộc hiện sinh của mỗi con người. Thật vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, quyền sống của con người đang bị đe dọa từ khi mới còn trong trứng nước cho đến tận giây phút cuối cùng. Bằng cách tôn trọng những chuẩn mực phổ quát liên quan đến phẩm giá con người, chúng ta chứng tỏ mình đang cộng tác với sự sống. Nếu chẳng vậy, chúng ta sẽ trở thành những tác nhân của sự chết.

Hãy đứng về phía sự sống!

5 THÁNG HAI

Thách Đố Của Thông Tin Hiện Đại

Những người làm việc trong lãnh vực truyền thông đại chúng hôm nay – nếu muốn thi hành bổn phận nghề nghiệp của mình một cách nghiêm túc – đều nhận thấy rằng mình thường xuyên bị đòi hỏi phải đánh giá công việc của mình. Họ cảm thấy bị thúc bách phải ý thức ngày càng hơn về vai trò và trách nhiệm của mình trong thế giới hiện đại.

Trong thời đại chúng ta, sự phản tỉnh như thế thật vô cùng cần thiết. Thật vậy, giới truyền thông hôm nay nhận ra mình đang đứng chỗ bước ngoặt của những chuyển biến vốn đang có sức làm thay đổi lối sống của con người. Cuộc cách mạng công nghệ hiện nay đang là cao trào của những thay đổi này. Nó đặt ra những đòi hỏi mới đối với con người. Khi những khó khăn mới bật lên thách đố chúng ta, thì chúng ta lại cần có những phương sách mới. Chúng ta bị buộc phải đưa ra những quyết định, những chọn lựa hết sức quan trọng.

Đứng giữa những chuyển biến và những chọn lựa đó, người làm công tác truyền thông có bổn phận phải truyền đạt chúng một cách chính xác và công bằng. Nhờ đó, công chúng sẽ có được những thông tin cần thiết làm cơ sở để họ đưa ra những sự chọn lựa đúng đắn. Thật rõ ràng, những người làm việc trong giới truyền thông đại chúng hôm nay đóng vai trò tác động rất lớn đối với thiện ích của con người – cả trong lãnh vực dân sự lẫn trong lãnh vực tâm linh, đạo đức.

6 THÁNG HAI

Đối Diện Với Sự Thật

Chứ Không Quanh Co Lẩn Tránh

Giữa bao chuyển biến và bao vấn đề đang nổi lên trong thời đại chúng ta, không thể có bất cứ gì cho phép ta sút giảm lòng tôn trọng đối với sự thật. Sự thật cần phải được tôn trọng một cách hoàn toàn và tuyệt đối. Không thể hàm hồ đối với sự thật. Tiếng gọi này đặc biệt dành cho những người làm việc trong lãnh vực truyền thông. Phải trung thành với sự thật!

Thật vậy, nhận hiểu mãnh lực và tốc độ thông tin liên lạc của thời đại hôm nay, người làm công tác truyền thông không thể không cảm thấy gánh nặng trách nhiệm đối với toàn xã hội. Vì thế, họ phải là những con người của sự thật.

Thái độ đối với sự thật của một nhà báo, chẳng hạn, là chính chuẩn mực cho biết anh ta là nhà báo đích thực đến mức nào. Lương tâm nghề nghiệp của anh ta như thế nào – điều đó tùy thuộc vào sự ngay thẳng của anh, tùy thuộc vào mối ràng buộc của anh đối với sự thật. Anh phải không ngừng nắm giữ lấy hai sự trung thành trong công việc của anh. Trước nhất, anh phải trung thành với sứ mạng của chính mình trong tư cách là một người cung cấp sự thật. Thứ hai, anh phải trung thành với sự tín nhiệm của công chúng – sự tín nhiệm mà anh kiến tạo được với độc giả hay khán giả của anh.

Nhà báo phải quyết liệt và thẳng thắn vạch trần những sai lầm và giả dối. Sứ mạng ấy càng đặc biệt khẩn thiết trong liên hệ với những vấn đề hiện nay của chúng ta. Nhìn thẳng vào sự thật và gạt bỏ mọi dối trá, đó là điều kiện tiên quyết để chúng ta giải quyết những vấn đề của chúng ta hôm nay.

7 THÁNG HAI

Tài Năng Của Người Nghệ Sĩ

Sau khi dẫn con cái It-ra-en ra khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập, Mô-sê hoạch định chuyện dựng lều thánh – tức đền thờ lưu động đầu tiên của dân It-ra-en trong sa mạc. Ông ủy nhiệm công việc đó cho những người đầy “thần khí”. Và, sau khi đã gọi đích danh các nghệ nhân, Đức Chúa ban cho họ ơn khôn ngoan. Ngài ban cho họ những ơn mà họ cần để họ có khả năng vạch dự án và triển khai công việc dựng lều thánh (Xh 35, 30 – 35; 36, 1).

Như chúng ta có thể thấy trong chương trích dẫn trên của Sách Xuất Hành, cái mà ngày nay chúng ta gọi là nghệ thuật thánh vốn đã có những nguồn gốc rất rạng rỡ thuở xưa. Tận đáy lòng tôi, tôi muốn nói với các bạn là những nghệ sĩ rằng các bạn phải ý thức rằng tài năng nghệ thuật của mình là một món quà do Thiên Chúa ban tặng. Người nghệ sĩ phải tri ân Thiên Chúa và phải dấn thân trung thành theo tiếng gọi mà mình đã nhận lãnh. Người nghệ sĩ Kitô giáo có thể tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình “thần khí” để chuyển hóa các tài năng tự nhiên thành hoa trái thiêng liêng, nhất là khi họ đảm nhận những công trình nghệ thuật tôn giáo và phụng vụ.

Trong ánh sáng này, chúng ta có thể hiểu những đường nét trác tuyệt của các thánh đường thời Trung Cổ. Nếu đứng ngoài lãnh giới đức tin, chúng ta không thể cảm nhận đầy đủ cái tuyệt vời ấy. Có thể kể một số ví dụ, như các công trình của Giotto, Fra Angelico, Michelangelo, những vần thơ của Dante, những áng văn của Manzoni, những khúc nhạc của Pierluigi da Palestrina, vv…

Đành rằng tài năng của một nghệ sĩ có thể sáng tạo ra những tác phẩm kiệt xuất không dính dáng gì đến niềm tín ngưỡng của mình; nhưng, nếu bên cạnh tài năng tự nhiên, người nghệ sĩ có thao thức muốn bộc lộ đức tin, cậy, mến của mình, thì với tác phẩm của mình, họ sẽ trở thành một sức khích lệ lớn lao cho người ta. Tác phẩm của họ sẽ chuyển tải các mầu nhiệm của niềm tin Kitô giáo.

8 THÁNG HAI

Nghệ Thuật Giúp Di Dưỡng Tâm Linh

Các nghệ sĩ là những người đóng góp rất lớn cho nhân loại. Lao động của họ hậu thuẫn một cách đầy hiệu năng cho sự cứu độ của con người – bởi vì họ giúp bồi bổ cảm thức tâm linh của người ta. Khi người ta chiêm ngắm nghệ thuật và vẻ đẹp của nghệ thuật, người ta đắm mình trong nguồn cảm hứng. Cảm thức tâm linh của người ta được thăng hoa. Người ta như chạm được sức hút của cõi tinh thần thuần túy. Người ta như thoáng bắt gặp Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và cứu cánh của mọi sắc dạng tinh thần.

Ýù thức sâu sắc về điều này, Giáo Hội “luôn luôn đề cao nghệ thuật và luôn luôn tìm tòi sự phục vụ cao quí của nghệ thuật… Giáo Hội vẫn thu dụng các loại hình nghệ thuật qua mọi thời. Thật vậy, dọc theo bao thế kỷ, Giáo Hội đã vun đắp nên một kho tàng nghệ thuật rất đáng trân trọng bảo tồn” (PV 43).

Cũng vậy, nghệ thuật thời đại chúng ta hôm nay – của mọi dân tộc – vẫn tìm thấy khung trời mênh mông để thể hiện chính mình giữa lòng Giáo Hội, miễn là qui hướng phục vụ Thiên Chúa với niềm tôn kính xứng hợp.

9 THÁNG HAI

Cần Phải Sưu Tầm Và Gìn Giữ

Các Kho Tàng Nghệ Thuật

Trong nghệ thuật Kitô giáo, tính nguyên tuyền và tinh khôi của kinh nghiệm tôn giáo đã được diễn tả một cách tuyệt vời qua những tác phẩm vốn có thể được coi là sự thể hiện rạng rỡ của Thánh Thần. Muôn màu muôn vẻ, những tác phẩm này bộc lộ những cảm nghiệm và nhận thức về ơn cứu độ của bao tín hữu xuyên qua các thế kỷ cho đến hôm nay. Chính truyền thống thu thập tất cả những loại hình nghệ thuật đa dạng ấy và chuyển trao cho mọi thế hệ đức tin và niềm hy vọng của Giáo Hội. Nhờ đó, nó có thể được đón nhận, được hiểu và được triển khai trong cuộc sống thực tiễn mỗi ngày của người tín hữu.

Gia sản phong phú được giữ gìn trong đời sống của dân Thiên Chúa được nghệ thuật biểu lộ một cách độc đáo đến nỗi qua đó người ta có thể cảm nhận được giá trị của tâm linh con người, cảm nhận được mối quan hệ sâu thẳm giữa con người và Thiên Chúa, và cảm nhận được cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời nhập thể.

Chính trái tim và bàn tay thấm đẫm yêu thương của con người – ở giữa muôn vàn khổ lụy – đã khắc họa nên khuôn mặt của con người trên đường lữ hành trần gian và đã phản ảnh uy phong khôn tả của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, chúng ta nghiêng mình trước những bức họa và những bức phù điêu mà kho tàng nghệ thuật Kitô giáo chuyển trao cho chúng ta từ bao thế kỷ.

10 THÁNG HAI

Nghệ Thuật Thánh: Thấm Đẫm

Cái Đẹp Và Sự Thật

Cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa đã đem lại khả năng diễn dịch mầu nhiệm của Thiên Chúa xuyên qua những dấu hiệu khả giác – để bộc lộ sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người. Với biến cố nhập thể, Ngôi Lời đã đến và trở thành một phần của lịch sử: vị Người-Chúa này đã được nhìn thấy, được nhận biết, được mến yêu. Nghệ thuật Kitô giáo trình bày nhân tính hữu hình của Đức Kitô và các hoạt động thần linh của Người – và với ngôn ngữ sáng tỏ của mình, nó mở ra cho người ta cảm thụ một khía cạnh nào đó trong bản tính khôn tả của Thiên Chúa.

Vẻ đẹp kết hợp với sự thật phản chiếu nơi mọi hữu thể, vén mở bí mật thâm sâu của nó cho con cái loài người. Vì thế, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật được bao phủ bằng những dấu chỉ của vẻ đẹp và chân lý. Bấy giờ, nó sẽ trở thành phổ quát, chân chính và có thể hiểu được đối với mọi người. Người ta đón nhận nó với niềm vui, và họ sẽ rút ra từ nó sức khích lệ để thực hiện những điều cao quí.

Giáo Hội đề cao nghệ thuật đích thực, bởi vì Giáo Hội nhìn thấy trong đó một sự diễn tả căn bản của văn hóa và của nhân tính. Giáo Hội cũng xác tín rằng đức tin có thể và vốn thường tác động trong các tác phẩm nghệ thuật một vai trò thúc đẩy – tác động thúc đẩy này đụng chạm đến trái tim và tâm linh của người ta. Công Đồng Vatican II đã nhận định: “Trong những hoạt động cao quí nhất của tài năng con người, rất đáng kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo mà tột đỉnh của nghệ thuật này chính là nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật thánh nhằm diễn tả một cách nào đó vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại; nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhắm chủ đích nào khác ngoài sự góp phần tích cực vào việc đạo đức là hướng tâm trí người ta về cùng Chúa.” (PV 122)

11 THÁNG HAI

Âm Nhạc Phản Ảnh

Mối Hòa Điệu Trong Tạo Vật

Aâm nhạc là ngôn ngữ phổ quát của mọi con người. Aâm nhạc có thể khơi trào cảm xúc sâu xa, có thể truyền đạt những tình cảm thanh cao, và có thể đánh thức mối đồng cảm đối với tâm tư của người nghệ sĩ. Loài người cần đến âm nhạc, vì âm nhạc chuyển tải chính tinh thần của người ta, nâng tâm hồn người ta lên cao, thăng hoa xúc cảm, và giúp người ta hân hoan hướng nhìn về Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng – một cách nào đó – con người trở thành ‘người’ hơn và trở thành ‘Kitôhữu’hơn nhờ âm nhạc.

Khẳng định những điều nói trên, tôi cũng nghĩ đến những giá trị độc đáo khác mà âm nhạc cống hiến. Sự hài hòa của giai điệu được tạo ra do sự kết hợp của các nốt nhạc; cũng thế, âm nhạc nếu được trình tấu bởi một nhóm sẽ sản sinh ra tình liên đới, mối đồng cảm và tình hữu nghị. Aâm nhạc có thể được xem như một lời mời gọi người ta tham dự vào một công cuộc cao quí chung – công cuộc ấy sẽ thăng hoa và củng cố tình cảm.

Những điều nói trên càng được thấy rõ ràng hơn khi âm nhạc làm dâng trào niềm vui trong các dịp lễ mừng của cộng đoàn. Nhờ âm nhạc, người ta cảm nghiệm được niềm phấn khởi hân hoan, lòng sốt sắng cầu nguyện và nhiệt tâm dấn thân vào hành động. Quả thật, âm nhạc có năng lực thúc đẩy người ta phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Vì thế, trong tư cách là một nghệ thuật, âm nhạc hướng lòng người ta chiêm ngắm vẻ đẹp vốn tuôn chảy từ chính Thiên Chúa, và âm nhạc cũng là một lời mời gọi người ta cảm thụ sự hòa điệu trong tạo vật. Uớc gì tất cả chúng ta biết dùng âm nhạc để ca ngợi Thiên Chúa.

12 THÁNG HAI

Hồn Lành Trong Xác Mạnh

Tập luyện thể dục thể thao, đó là chúng ta trân trọng thân xác của mình. Chúng ta đạt được tình trạng khỏe mạnh thể lý hết sức có thể, với hoa quả của nó là niềm khoan khoái lớn lao. Trong nhãn giới đức tin, chúng ta biết rằng nhờ phép Rửa, trọn vẹn con người – cả hồn lẫn xác – đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần: “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em sao… và vì thế anh em không còn thuộc về chính mình nữa? Anh em đã được trả giá để chuộc lại. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (ICr 6, 19 – 20).

Thể thao gắn liền với việc phấn đấu để thắng một cuộc thi đấu hay đạt được một mục tiêu nào đó. Nhưng với đức tin, chúng ta biết rằng “triều thiên không thể hư nát” của cuộc sống vĩnh cửu thì giá trị hơn nhiều so với bất cứ giải thưởng nào trên trần gian. Triều thiên đó là ân huệ của Thiên Chúa, song đó cũng là kết quả của việc chuyên cần đào luyện nhân đức hằng ngày. Và, theo Thánh Phao-lô, đây là một cuộc thi đấu thực sự quan trọng. Ngài nói: “Anh em hãy tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (1Cr 12, 31). Thánh Phao-lô muốn nhắc nhở chúng ta hãy hướng lòng trí về những ân huệ góp phần tăng triển Nước Thiên Chúa. Nếu chúng ta kiên trì trong cuộc chạy đua này, những ân huệ ấy sẽ đem lại một giải thưởng sinh ích lợi vĩnh cửu cho chúng ta.

13 THÁNG HAI

Theo Đuổi Kỷ Luật Bản Thân

Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến ý nghĩa tâm linh của thể thao: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều” (1Cr 9, 25). Ngài nhận thức rằng sự quân bình, kỷ luật bản thân, sự điều độ và nhất là nhân đức là những yếu tố không thể thiếu trong hoạt động thể thao.

Để trở thành một vận động viên chân chính, người ta cần phải trung thực với chính mình và với người khác. Người ta cần có lòng trung thành và nghị lực tinh thần hơn cả sức lực thể lý. Người ta phải biết kiên trì, phải có tinh thần cộng tác, tính cách hào hiệp, lòng quảng đại, thái độ cởûi mở bao dung. Tất cả những điều ấy đều là những đòi hỏi của một căn bản đạo đức. Nhưng, Tông Đồ Phao-lô còn thêm: “Các vận động viên làm thế để chiến thắng một triều thiên tạm bợ chóng qua, còn chúng ta, chúng ta nhắm đến một triều thiên vĩnh cửu”. Qua những lời ấy, chúng ta tìm thấy sự phác họa một nền đạo đức thể thao và thậm chí một nền thần học soi sáng cho tất cả các giá trị của thể thao.

14 THÁNG HAI

Quí Trọng Các Bậc Lão Thành

Tuổi già là một giai đoạn sống đầy nỗ lực và yêu thương, vì thế, chúng ta phải nhiệt tình ủng hộ tất cả những phong trào ủy lạo người cao tuổi – để giúp giải phóng cho người già khỏi cảnh sống lầm lũi, chán chường, cô đơn. Chúng ta phải giúp người già phát huy vai trò của họ là nguồn khôn ngoan cho các thế hệ hậu sinh, là chứng tá của hy vọng, và là những tấm gương của lòng bác ái.

Môi trường đầu tiên mời gọi ta giúp đỡ người già chính là tại gia đình. Sự khôn ngoan và kinh nghiệm của các bậc lão thành là một kho tàng cho các đôi vợ chồng trẻ. Đứng trước những thử thách ban đầu trong cuộc sống hôn nhân của mình, các đôi vợ chồng trẻ có thể tìm thấy nơi ông bà cha mẹ mình những người bạn tâm tình để mình chia sẻ và tìm kiếm sự chỉ dạy. Trong những gia đình mà cha mẹ thường vắng mặt – điều khá phổ biến trong thời đại hôm nay – các cháu sẽ tìm thấy nơi ông bà mình sự bù đắp là chính mẫu gương sống và sự săn sóc ân cần mà ông bà dành cho mình.

Trong xã hội, chúng ta luôn luôn tín nhiệm sự khôn ngoan của những người từng trải – bởi các vị ấy có một bề dày kinh nghiệm mà chúng ta không có được. Vâng, chúng ta cần những người cao tuổi giúp đỡ mình bằng sự khôn ngoan và kinh nghiệm của các ngài. Với sự giúp đỡ của các ngài, chúng ta có thể xây dựng một xã hội khôn ngoan hơn và quân bình hơn.

15 THÁNG HAI

Trẻ Và Già Cùng Chung Sức Làm Việc

Khi nêu chứng tá đức tin của mình cho người trẻ, người già đang thể hiện một tinh thần phong phú mà sự suy sụp về thể lý do tuổi già không thể làm phai nhạt đi: “Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn – để loan truyền rằng Chúa thật là ngay thẳng” (Tv 92, 15 – 16). Người trẻ có bổn phận học tập nơi gương mẫu của người già, nhất là phải biết lắng nghe các ngài: “Đừng bỏ qua chuyện các vị cao niên kể lại” (Hc 8, 9). “Hãy hỏi cha ngươi và người sẽ nói cho ngươi biết, hãy hỏi các bậc lão thành và các vị sẽ chỉ bảo nguơi” (Đnl 32, 7). Người trẻ cũng có bổn phận phải giúp đỡ người già: “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12 – 13).

Giáo huấn của Tân Ước cũng phong phú không kém. Thánh Phao-lô đề ra lý tưởng cho cuộc sống trưởng thành bằng những lời khuyên hết sức cụ thể về sự tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại (Tt 2, 2). Một mẫu gương tuyệt vời có thể được nhìn thấy nơi ông già Si-mê-on, người đã sống trong niềm ngưỡng vọng được nhìn thấy Đấng Mê-si-a. Ông cụ Si-mê-on đã rao giảng về Đức Kitô như là sự sống sung mãn và là niềm hy vọng cho tương lai của chính ông cũng như cho mọi người.

16 THÁNG HAI

Bảo Trọng Những Hoa Quả Khôn Ngoan

Tuổi đời càng chồng chất, sức lực càng suy kiệt, hay đau ốm, vv… người già thường cảm thấy con người mình mỏng mảnh, và nhất là cảm thấy gánh nặng của cuộc sống. Đó là những vấn đề của tuổi già – và những vấn đề ấy không thể tìm ra ý nghĩa gì nếu chúng không được cảm nghiệm và được sống như một thực tại của cuộc nhân sinh. Chúng ta được mời gọi trân trọng người cao tuổi bởi vì phẩm giá của các ngài trong tư cách là con người và bởi vì ý nghĩa của chính sự sống: sự sống bao giờ cũng là một hồng ân.

Thánh Kinh thường đề cập đến người cao tuổi. Thánh Kinh coi tuổi già như một hồng ân – và hồng ân này phải được sống hằng ngày trong tấm lòng rộng mở ra với Thiên Chúa và với tha nhân.

Trên tất cả, Cựu ước coi người già như thầy dạy sống: “Sự khôn ngoan của các vị bô lão, tư tưởng và ý kiến của các bậc danh nhân thật đẹp đẽ chừng nào! Giàu kinh nghiệm là triều thiên cho hàng bô lão; lòng kính sợ Đức Chúa là niềm hãnh diện của các ngài” (Hc 25, 5 – 6). Tuy nhiên, người cao tuổi còn có một vai trò quan trọng khác nữa. Các ngài chuyển trao lời Thiên Chúa cho các thế hệ hậu sinh:

“Lạy Thiên Chúa, tai chúng con đã từng được nghe

truyện cha ông vẫn thường kể lại

về công trình Chúa đã làm nên

thời các cụ thuở xa xưa ấy” (Tv 44, 2).

17 THÁNG HAI

Mùa Chay:

Tiếng Gọi Ăn Chay Và Cầu Nguyện

“Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Giáo Hội công bố mùa Chay bằng những lời kêu gọi ấy của ngôn sứ Giô-en. Vào thời ngôn sứ Giô-en, tiếng gọi ăn chay đã phải được kết hợp với lời cảnh giác: “Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo!”

Cũng thế, Đức Giêsu đã phải cảnh giác vào thời của Người: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen… Khi anh em cầu nguyện, đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Khi anh em ăn chay, chớ làm ra bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6, 1. 2. 5. 16).

Trong quá khứ, khi Giáo Hội công bố mùa Chay, Giáo Hội đã phải cảnh giác mọi người nên tránh thói ‘biểu diễn’ thuần túy, tránh giả hình trong việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.

Còn hiện nay, điều đáng báo động hàng đầu không hẳn là thói ‘biểu diễn’ ấy. Mối nguy thực sự hiện nay là ở chỗ tiếng gọi mùa Chay bị người ta bỏ hẳn ngoài tai. Đối với rất nhiều người hôm nay, tiếng gọi mùa Chay chỉ là “một tiếng kêu trong sa mạc” (Mc 1, 3). Họ không hưởng ứng tiếng gọi ấy.

18 THÁNG HAI

Bạn Có Nghe Ngài Gõ Cửa?

“Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2, 12). Đó là tiếng gọi của Thiên Chúa cho riêng từng người trong Giáo Hội. Thiên Chúa kêu gọi mỗi chúng ta trở về với Ngài. Đấy là sứ điệp của mọi mùa Chay. Đó là lý do tại sao mùa Chay được gọi là một ‘nhịp mạnh’. Trong mùa này, hơn bất cứ lúc nào khác, chính Thiên Chúa nói với chúng ta. Ngài kêu gọi. Ngài gõ vào cánh cửa tâm hồn ta.

Thiên Chúa muốn chiếm lấy chúng ta. Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta thật quá đỗi thâm trầm, vì Ngài biết từng người trong chúng ta đến tận những đáy sâu thẳm nhất. Ngài biết rằng mãi mãi chúng ta còn khắc khoải bao lâu chưa trở lại cùng Ngài. Vì thế, đây cũng là một tình yêu ‘hay ghen’(cf. Ge 2, 18). Tình yêu ‘hay ghen’ ấy của Thiên Chúa làm nên bầu khí của mùa Chay, từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Tam Nhật Thánh.

19 THÁNG HAI

Khám Phá Tận Sâu Thẳm

Con Người Mình

Làm thế nào chúng ta có thể hoán cải, trở về với Thiên Chúa? Hoán cải bắt đầu bằng việc nhìn lại nội tâm mình và lắng đọng tâm hồn trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Rồi, trái tim và lương tâm bạn có thể bắt đầu sực tỉnh.

“Hãy vào phòng, đóng kín cửa lại”, Đức Giêsu đã dạy chúng ta như thế (Mt 6, 6). Hoán cải trở về với Thiên Chúa – điều đó không thể xảy ra giữa những xao động chộn rộn của lòng trí. Cần phải hồi tâm và qui hướng về Chúa. Chúng ta phải khám phá ra con người thật của mình ở mức độ cao nhất và sâu xa nhất.

Tại sao phải khám phá ra con người thật, cao nhất và sâu xa nhất? Bởi vì sự nhận hiểu này về con người có liên hệ với thế giới tạo vật. Trong tương quan với tất cả tạo vật chung quanh mình, con người là chủ. Con người được kêu gọi làm chủ mọi vật và thống trị trái đất. Đây là mệnh lệnh đầu tiên mà con người nhận được từ Đấng Tạo Hóa.

Thiên Chúa không chỉ trao cho con người địa vị thống trị tạo vật, Ngài còn định hình con người theo chính hữu thể Ngài. Vì con người cũng là tinh thần, nên con người có thể đạt đến tầm mức mà mọi tạo vật khác không thể đạt đến được. Bản tính căn bản của con người – vừa tinh thần vừa thể xác – không cho phép con người tìm kiếm ý nghĩa cuối cùng duy chỉ nơi những gì là vật chất.

Khát vọng thâm sâu nhất của con người không thể được lấp đầy bởi thế giới vật chất hữu hình này. Con người cũng không thể gặp được hạnh phúc sâu xa đích thực ngay cả nơi việc chinh phục tạo vật và nơi việc tăng triển khả năng khám phá và sáng tạo của mình. Đức Giêsu đã nêu dấu hỏi: “Được cả thế gian thì ích gì?” (Mt 16, 26). Không, con người không thể lấp đầy khát vọng của mình bằng con đường ấy.

20 THÁNG HAI

Những Bã Phù Vân

Sứ điệp đầu tiên của mùa Chay – trong ngày Thứ Tư Lễ Tro – là một sứ điệp rất sâu sắc và quyết liệt: “Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro!”

Vậy, làm thế nào chúng ta có thể thực sự tìm thấy sự viên mãn? Làm thế nào người ta có thể hoàn thành chính mình trong cõi đời này khi mà mầm hủy diệt con người đã có sẵn đấy và thế giới được đặt dưới qui luật của sự chết? Con người kiếm tìm sự sống trong thế giới xung quanh mình, nhưng điểm đến của con người lại là thực tại sự chết!

Vâng, trong cuộc đời tạm bợ này, chúng ta có thể có một số niềm thỏa mãn ‘phù du’ nào đó. Những niềm thỏa mãn ấy không thể kéo dài. “Nguơi sẽ trở về tro bụi” – Thiên Chúa nói với con người như thế.

Chúng ta phải biết lắng đọng tâm hồn và nhìn vào trong thâm sâu hữu thể của mình. Và chúng ta sẽ nhận ra những mầm mống bất tử của chính mình. Chúng ta cũng sẽ nhận ra tính bèo bọt vô ích của những nỗ lực nơi mình nhằm tìm kiếm các thỏa mãn phù vân.

Và chính khi nhận thức được như vậy, chúng ta có thể bắt đầu hiểu ra tại sao Thiên Chúa mời gọi mình: “Hãy trở về với Ta!” Vâng, Ngài mời gọi chúng ta trở về với Ngài bằng cả tấm lòng.

21 THÁNG HAI

“Lạy Chúa, Xin Tạo Cho Con

Một Tấm Lòng Trong Trắng”

Ngoài Thiên Chúa ra, không gì có thể lấp đầy khát vọng con người. Đó là ý nghĩa của hoán cải. Và đó là sứ điệp cứu độ. Thiên Chúa là Tình Yêu. Con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa để tìm kiếm những sự thỏa mãn nơi những gì không thể làm mình thỏa mãn được. Và Thiên Chúa – qua Con của Ngài – đã mời gọi con người từ bỏ nẻo đường tội lỗi để trở lại cùng Ngài.

Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã không ngần ngại thí bỏ Con của Ngài. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã không ngần ngại xử Con của Ngài như một tội nhân – dù Người hoàn toàn vô tội, “để cho chúng ta có thể trở nên công chính” (2Cr 5, 21).

Giáo Hội lên lời nhân danh Thiên Chúa. Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tội lỗi mình và nhận hiểu tình yêu của Thiên Chúa. Ngôn ngữ của Giáo Hội hết sức triệt để. ‘Triệt để’ nghĩa là ‘truy ngược về tới tận gốc rễ’.

Tiếng gọi triệt để ấy là cốt tủy của bầu khí bước vào mùa Chay. Tận đáy lòng mình, chúng ta phải thốt lên được như tác giả thánh vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa…Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51, 3. 5 – 6. 12).

Mùa Chay là mùa Thiên Chúa ngỏ lời mật thiết với chúng ta, mùa để chúng ta lắng nghe, đón nhận ơn cứu độ, và trở thành con người mới.

22 THÁNG HAI

Quê Hương Đích Thực

Cho Ta Trở Về

“Ngài đã dẫn đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập” (Đnl 26, 8). Chủ đề Thánh Kinh đầu tiên của mùa Chay là cuộc giải phóng dân Thiên Chúa ra khỏi ách nô lệ Ai-cập. Chủ đề này nằm ở trọng tâm của việc cử hành lễ Vượt Qua trong giao ước cũ. Nó cũng dẫn chúng ta đến trọng tâm của mầu nhiệm Vượt Qua trong giao ước mới: cuộc giải phóng Dân Thiên Chúa khỏi tội lỗi.

Sử dụng kiểu nói “gã Aramean lang thang”, tác giả Sách Đệ Nhị Luật muốn nói đến cuộc hành trình lang bạt của dân It-ra-en hướng về Đất Hứa. Kiểu nói ấy cho chúng ta hình dung về một lữ khách đang loay hoay tìm chốn nương thân, tìm một mảnh đất dừng chân để mình không còn là khách lạ rày đến mai đi nữa. Một lữ khách đang kiếm tìm một nơi chốn tự do thực sự để mình có thể gọi đó là quê hương của mình.

Chỉ có Thiên Chúa mới là quê hương đích thực cho ta trở về. Thiên Chúa đã nghe tiếng rên siết của dân Ngài – và Ngài đã cứu họ ra khỏi xiềng xích nô lệ bên Ai-cập. Thiên Chúa đã đưa họ vào Đất Hứa và đã thiết lập một giao ước với họ. Ngài trở thành Thiên Chúa của họ và họ trở thành dân của Ngài.

Nhưng, vì vô số lần vi phạm giao ước ấy, It-ra-en bị đưa đi lưu đày. Và, một lần nữa, Đức Chúa đã hành động. Ngài hứa với dân về một giao ước mới sẽ được đóng ấn bằng chính máu của Con Một Ngài là Đức Giêsu. Chúng ta, trong tư cách là Giáo Hội, là dân của giao ước mới này. Thiên Chúa dẫn đưa dân Ngài – là chúng ta – ra khỏi cuộc phiêu bạt để đến với ơn cứu độ trong miền Đất Hứa.

Giáo Hội là It-ra-en mới. Nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, Giáo Hội được ban cho ân sủng và nghị lực để chu toàn tiếng gọi của giao ước mới giữa Thiên Chúa và con người. Giáo Hội là dân Thiên Chúa – điều đó không hệ tại ở chỗ tuân giữ lề luật Mô-sê, nhưng là hệ tại ở đức tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng là Cứu Chúa và là Chiên Vượt Qua của chúng ta. Đức Kitô giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và Người dẫn đưa chúng ta vào mối quan hệ mật thiết và đầy hoan lạc với Thiên Chúa là Cha chúng ta.

23 THÁNG HAI

Tấn Công Vào Tận

Sào Huyệt Của Tội Lỗi

Thánh Vịnh 91 rung lên âm hưởng từ kinh nghiệm được mô tả trong cuộc Xuất Hành của It-ra-en. Quả thế, thánh vịnh này được lặp lại trong phụng vụ Lễ Phục Sinh. Đó là một khúc ca về niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng giải cứu và che chở bất cứ ai tự đặt mình trong sự bảo vệ của Ngài:

“Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao

và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,

hãy thưa với Chúa rằng:

‘Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,

là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài.’”

(Tv 91, 1 – 2).

Trên con đường tiến về với Thiên Chúa, mọi tín hữu – giống như gã Aramean lang thang – là một lữ khách phải đi qua bao rủi ro và nguy hiểm. Như tác giả thánh vịnh nói: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc, đạp nát đầu sư tử khủng long.” (câu 13). Nhưng hễ ai tin, thì Thiên Chúa sẽ giải cứu và đưa vào mối quan hệ mật thiết với chính Ngài – và đấy là mục tiêu của tất cả chúng ta là những lữ khách trên con đường dương thế. Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy rõ ràng rằng Giáo Hội – được hướng dẫn bởi Đức Giêsu là Chúa của mình – bắt đầu cuộc hành trình cứu độ, cuộc hành trình đưa về sự giải phóng đích thực. (cf. Lc 4, 1 – 13).

Giao ước mới của Đức Kitô cung ứng cho chúng ta sự tự do khỏi sự dữ – tức khỏi sự tội và sự chết. Con đường giải phóng ấy bắt đầu với chiến thắng của chúng ta trên những cám dỗ. Vì cám dỗ dẫn đến sự tội, và vượt qua cám dỗ tức là vượt qua tội lỗi ở tận gốc rễ của nó! Và cái gốc rễ mà chúng ta phải chặt bằng rìu trước hết là thói ích kỷ và kiêu căng nơi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình” (Lc 9, 23).

24 THÁNG HAI

Chiến Thắng Trên Cám Dỗ

Chúng ta phải có thái độ dứt khoát đối với tội lỗi. Nếu chúng ta không chặt phăng gốc rễ của ích kỷ nơi mình, nó sẽ ngoi lên lại hết lần này đến lần khác. Không dứt khoát một lần đối với căn nguyên ích kỷ nơi mình, chúng ta không thể tiến lên được trên đường lối Thiên Chúa.

Câu chuyện Đức Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc là một bài học tuyệt vời cho mỗi người chúng ta. Chúng ta thấy Người quyết liệt nói KHÔNG với trò phỉnh gạt của tham vọng ích kỷ và kiêu căng để hoàn toàn vâng phục tiếng gọi của Thiên Chúa. Bằng cách từ bỏ mọi tham vọng, Người đáp trả trọn vẹn lời Thiên Chúa và đặt mình tùy thuộc thánh ý Thiên Chúa.

Trung thành vâng phục Thánh Kinh xét như là Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu đã vượt qua cơn cám dỗ đòi độc lập khỏi Thiên Chúa khi Người nói với tên quỉ cám dỗ rằng: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh” (Lc 4, 4). Người đã cự tuyệt cơn cám dỗ tự mình làm phép lạ khi Satan xúi quẩy: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống khỏi đây đi nào” (Lc 4, 9). Người cũng cự tuyệt cơn cám dỗ của tham vọng hão huyền và của sự thèm khát quyền lực khi Satan đề nghị tặng cho Người các vương quốc trần gian: “Tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này” (Lc 4, 6). Đức Giêsu đã chiến thắng ba thứ cám dỗ mà dân It-ra-en đã ngã vào trong khi họ rong ruổi ở sa mạc; và Người đã trao cho chúng ta một mẫu gương để biết phải hành động thế nào khi đối diện với những trò lừa phỉnh ấy.

Mùa Chay là một thời gian đặc biệt quan trọng để lắng nghe Lời Chúa – để đặt mình tuân phục Lời Chúa bằng cách từ bỏ con người cũ của mình. Rồi, chúng ta sẽ được chuyển hóa thành những tạo vật mới, sẽ sống theo thánh ý Thiên Chúa chứ không phải theo ý riêng mình. Học nơi gương mẫu và nơi chiến thắng của Đức Giêsu, chúng ta cũng có thể chiến thắng những cám dỗ và tội lỗi trong cuộc đời mình.

25 THÁNG HAI

Tin Tưởng Vào Thiên Chúa,

Đấng Cứu Thoát

Người It-ra-en thường ôn lại đêm tối của cuộc Xuất Hành, và hoài niệm ấy giúp khích lệ họ tin tưởng vào Thiên Chúa – Đấng cứu thoát họ.

Giáo Hội – cùng với Tông Đồ Phao-lô – nhìn về đêm Phục Sinh. Ở đó, Giáo Hội tìm thấy niềm khích lệ giữ vững đức tin của mình – một đức tin vốn xuất phát từ mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô: “Vì nếu anh em tuyên xưng …rằng Đức Giêsu là Chúa và chân thành tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Người từ cõi chết, thì anh em sẽ được cứu độ” (Rm 10, 9).

Với những lời ấy, Thánh Phao-lô muốn dạy chúng ta ý thức hơn về nhu cầu cần được cứu độ của mình. Chúng ta cần phải kêu cầu sự giải cứu ấy, sự giải cứu đến từ mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô: “Bất cứ ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ” (Rm 10, 13).

26 THÁNG HAI

Mở Lòng Ra

Với Anh Chị Em Túng Nghèo

“Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Đây là một tinh thần nòng cốt của chúng ta trong suốt mùa Chay. Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng trong cuộc sống mình, Thiên Chúa và Lời của Ngài phải được ưu tiên trên mọi thực tại trần thế. Thiên Chúa mời gọi chúng ta – trong mùa Chay – từ bỏ những gì trần tục để có thể tập chú đến Ngài và vương quốc của Ngài nhiều hơn.

Đồng thời, chúng ta cũng không được phép quên rằng Đức Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện xin Chúa Cha “cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đành rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, song chúng ta không thể chối rằng quả thực con người cần có cơm bánh. Các nhu cầu vật chất và thể lý của con người cũng cần phải được đáp ứng. Thiên Chúa – Cha của chúng ta – muốn cung cấp cho tất cả những nhu cầu của chúng ta.

Vì thế, chúng ta được mời gọi bênh vực quyền lợi của những người yếu đuối, những người nghèo, những người khuyết tật, và tất cả những ai đang sống ngoài lề xã hội của chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta – trong Đức Kitô – giúp đáp ứng những nhu cầu vật chất và thể lý của họ, chứ không chỉ loay hoay với những nhu cầu của riêng mình mà thôi. Chúng ta được mời gọi đem tình thương và sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa đến với tất cả những anh chị em túng nghèo.

Nhưng chúng ta không chỉ được mời gọi giúp đỡ những người túng thiếu mà thôi. Tiếng gọi đặt ra cho chúng ta còn chạm đến chính cốt lõi của di sản tinh thần và văn hóa vốn thuộc về mọi người không phân biệt già hay trẻ, nam hay nữ. Chúng ta được mời gọi bảo vệ và thăng tiến di sản ấy trong Đức Kitô. Đồng thời, chúng ta không được phép quên biện phân rạch ròi bậc thang các giá trị: Những giá trị tâm linh phải chiếm chỗ ưu tiên hàng đầu trong trái tim ta.

27 THÁNG HAI

Khát Khao Kết Hợp

Mật Thiết Với Đức Kitô

Trong suốt cả Mùa Chay, lời mời gọi này của phụng vụ vẫn âm vang trong lòng chúng ta: “Hãy nhớ rằng người là tro bụi, và người sẽ trở về bụi tro” (St 3,19). Nếu chúng ta đủ khiêm tốn nhìn nhận thân phận của mình, chúng ta có thể nhận hiểu tính khẩn thiết trong tiếng gọi của Thiên Chúa: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).

Ước gì tiếng gọi đó vẫn luôn đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong suốt Mùa Chay. Ước gì tiếng gọi đó làm thay đổi cách nghĩ của chúng ta, thay đổi cách cư xử của chúng ta. Uớc gì tiếng gọi đó thúc giục chúng ta biết khao khát cầu nguyện nhiều hơn nữa và kết hiệp với Đức Kitô mật thiết hơn nữa trong chính nội tâm của mình. Ước gì tiếng gọi đó giúp chúng ta nhận hiểu nhu cầu phải hy sinh và tiết chế. Ước gì – đối với chúng ta – tiếng gọi đó của Thứ Tư Lễ Tro trở thành vừa là một đòi hỏi của con tim vừa là một ân phúc dồi dào nhận được từ Thiên Chúa. Ước gì tiếng gọi đó thúc đẩy chúng ta biết chú ý đến các nhu cầu của người khác: bạn hữu, gia đình và cả những người ở xa. Ước gì tiếng gọi đó thôi thúc tất cả chúng ta dấn thân thực hiện những công việc từ thiện cụ thể.

Một Mùa Chay nữa lại đến. Đây là “thời gian thuận tiện” để quay về với Thiên Chúa. Đây là “ngày cứu độ”. Tuy nhiên, ‘thuận tiện” hay “cứu độ” đến mức nào còn tùy thuộc vào thái độ đáp trả của chính chúng ta.

28 THÁNG HAI

Đức Kitô – Chóp Đỉnh Của Giao Ước

“Đức Chúa đã thiết lập một giao ước với Abram” (St 15,18). Xuyên suốt Mùa Chay, chúng ta được mời gọi đặc biệt kết hợp mật thiết với Thiên Chúa – Đấng đã tự kết ước với chúng ta. Thiên Chúa của đức tin chúng ta là Đấng Tạo Hóa và là Chủ Tể của hoàn vũ. Ngài là Thiên Chúa uy phong khôn sánh song cũng đồng thời là Đấng tự hạ mình xuống để kết ước với chúng ta.

“Cha đã nhiều lần kết ước với loài người” – đó là lời chúng ta đọc trong Kinh Nguyện Thánh Thể IV. Lời kinh ấy đưa ta về với các tổ phụ của mình trong đức tin – tới tận tổ phụ Nô-e.

Giao ước với Abram – được nhắc đến trong phụng vụ – đánh dấu một khởi đầu mới cho câu chuyện của dân Thiên Chúa: “Hãy nhìn lên bầu trời và đếm các vì sao … Dòng dõi của ngươi cũng sẽ đông đúc như vậy” (St 15,5). Thật vậy, dòng dõi của ông trở thành vô cùng đông đúc. Có lẽ hơn một nửa nhân loại hiện nay (những người DoThái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo) tự nhận mình là con cái thiêng liêng của Abraham – nhân vật mà Thánh Phao-lô gọi là “cha của đức tin chúng ta” (Rm 4,11).

Trong suốt Mùa Chay, chúng ta được mời gọi làm mới lại giao ước với Thiên Chúa – một giao ước bắt nguồn từ đức tin của Abraham. Giao ước này đạt đến sự hoàn thành của nó nơi Đức Kitô. Điều này được Tin Mừng làm chứng một cách hùng hồn. Hằng năm, trong Mùa Chay, Giáo Hội đưa chúng ta lên núi Ta-bo. Ở đó, trước sự chứng kiến trực tiếp của Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, mạc khải hoàn toàn về giao ước đã hiển hiện ra – từ Abraham cho đến Giê-su Na-da rét, Đấng Mê-si-a. Chúng ta gặp thấy Mô-sê và Ê-li-a ở bên cạnh Đức Giêsu. Các ngài đại diện cho Lề Luật và các ngôn sứ – tức những cột mốc trong giao ước của Thiên Chúa với con cháu Abraham. Và tất cả mạc khải của Thiên Chúa biểu hiện qua Luật và các ngôn sứ đưa dẫn chúng ta đến với Đấng mà Chúa Cha nói về Người như sau: “Đây là Con Ta, kẻ Ta tuyển chọn; hãy nghe lời Người” (Lc 9,35).

29 THÁNG HAI

Từ Hiển Dung Đến Thập Giá

Đức Kitô đánh dấu sự hoàn thành của mạc khải: chính nơi Người, Thiên Chúa đã tự tỏ hiện hoàn toàn. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa thiết lập giao ước mới và vĩnh cửu với con người.

Tuy nhiên, sự hoàn thành của giao ước đã không xảy ra trên núi Ta-bo, dù cho các tông đồ đã ước muốn được ở lại trên đó và dựng ba lều: một cho Đức Kitô, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a (Lc 9,33). Núi Ta-bo chỉ là nơi mà sự hoàn thành của giao ước được cô đọng lại nơi con người và sứ mạng của Đức Kitô trong tư cách là Con Thiên Chúa. Nơi mà giao ước được hoàn thành không phải là núi Hiển Dung mà chính là núi Can-vê. Trên núi Can-vê, Đức Kitô sẽ được tôn vinh qua sự tự hạ đến tận cùng trước mặt Thiên Chúa và loài người.

Thiên Chúa – Đấng thiết lập giao ước với Abraham – giờ đây tự tỏ hiện hoàn toàn trong sự hi sinh tận cùng. Con cháu của Abraham – được sinh ra trong đức tin – sẽ được thâu họp bằng lời và bằng sức mạnh của giao ước được đóng ấn với máu Con Chiên Thiên Chúa. Giao ước này sẽ tồn tại đến tận cùng thời gian.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta tiến lên núi Hiển Dung và sửa soạn cho chúng ta đi tới núi Khổ Nạn. Thật vậy, chính cuộc khổ nạn của Đức Kitô là nơi mà cuộc hiển dung phải tìm thấy sự hoàn thành của nó.

Vâng, Thiên Chúa – Đấng luôn trung thành với giao ước của Ngài – mời gọi tất cả chúng ta tiến tới với Khổ Nạn Thập Giá.