Lý thuyết về Giống (Gender Theory),
một học thuyết kỳ lạ về giới tính
Đây là một thuyết kỳ lạ về giới tính. Nó
xuất hiện tại Hoa Kỳ trong thập niên 70 thế kỷ trước, dưới ảnh hưởng của những
nhà tư tưởng Pháp như Michel Foucault và Jacques Derrida, và đã được sử dụng
như công cụ ý thức hệ cho một phong trào đấu tranh quá khích cho nữ quyền.
Thuyết này chủ trương gì?
Thuyết này phủ nhận sự khác biệt giới
tính “tự nhiên” giữa nam và nữ. Khi sinh ra, trừ trường hợp “khác thường”, mỗi
người là trai hay gái, nam hay nữ; sự phân biệt đó, dĩ nhiên là căn cứ trên cơ
sở sinh học; cha mẹ cũng dựa vào đó để làm khai sinh cho con mình. Nhưng nay
người ta phủ nhận sự khác biệt sinh học đó và cho rằng sự khác biệt nam nữ chỉ
là kết quả của văn hoá, nó là một cấu trúc xã hội; nam giới và nữ giới chẳng
qua chỉ là những vai trò (rôles) xã hội-văn hoá khác nhau mà xã hội tuỳ
tiện đề ra (rồi được đưa vào trong ngôn ngữ), và do đó có thể phá đổ. Thiên
nhiên (hay tự nhiên) chẳng liên quan gì tới đây cả. Do đó, người ta cũng bảo
rằng không hề có xu hướng tự nhiên đẩy người nam và người nữ đến với nhau. Xu
hướng này cũng chỉ lệ thuộc vào những điều kiện xã hội.
Hẳn là những người chủ trương thuyết mới
lạ này cũng phải nhìn nhận có một giới tính sinh học; chẳng hạn về mặt di
truyền học, người nam người nữ có những nhiễm sắc thể giới tính khác nhau (XX
và XY). Nhưng theo họ, sự khác biệt này không có vai trò nào trong việc hình
thành “căn tính giới tính” (identité sexuelle) của mỗi người. Làm người
nam hay làm người nữ tuỳ thuộc vào một chọn lựa chủ quan của từng cá nhân. Mình
nhìn căn tính giới tính của mình thế nào, mình nhìn xu hướng giới tính hay tính
dục (orientation sexuelle) của mình như thế nào – ví dụ đồng tính, khác
tính hay lưỡng tính – thì là thế ấy. Không có quy chiếu khách quan nào làm
chuẩn cả.
Tại sao có một thuyết kỳ lạ như thế?
Người ta đưa ra học thuyết này trước
tiên để phục vụ phong trào đấu tranh cho nữ quyền. Nó nhằm chống lại sự bất
bình đẳng nam nữ. Nhân danh việc cấm phân biệt đối xử giữa nam và nữ giới,
người ta phủ nhận luôn nền tảng sinh học của giới tính. Trong lịch sử, sự bất
bình đẳng nam nữ phát sinh chủ yếu từ văn hoá, điều đó là hiển nhiên. Nhưng
chắc chắn ở đây văn hoá cũng đã dựa trên sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ,
như sức mạnh thể lý, cơ bắp, nước da, giọng nói, cấu trúc cơ thể,... Và nếu thế
thì, theo họ, cơ sở cho bất bình đẳng và kỳ thị sẽ vẫn luôn luôn tồn tại. Chắc
hẳn vì thế mà lý thuyết mới về “giới” (hay giống) chối bỏ luôn cả những sự khác
biệt vốn được coi là “tự nhiên” đó.
Lúc đầu người ta còn phân biệt “phái
tính” hay “giới tính” (sex trong tiếng Anh, sexe trong tiếng Pháp) với “giống”
(gender/genre): nghĩa là phái tính (nam hay nữ) chỉ một sự khác biệt căn
cứ trên thể lý/sinh học, còn giống (đực hay cái) chỉ là một quy ước của
ngôn ngữ (như trong tiếng Pháp, danh từ la maison = cái nhà là giống
cái, còn danh từ le tableau = cái bảng là giống đực). Rồi về sau, khi
nói về con người, người ta đã tiến tới chỗ chỉ còn sử dụng danh từ “giống”
(gender/genre) và loại bỏ mọi quy chiếu về phạm trù giới tính/phái tính (liên
quan đến sex như đã xác định trên). Đó là chủ trương của học thuyết về “giới”
hiện nay vì, như đã nói, nó coi những khác biệt giữa nam và nữ chỉ là do văn
hoá và xã hội tạo ra mà thôi.
Lý thuyết này nhìn mối liên hệ giữa nam
và nữ luôn luôn như một liên hệ đối kháng; nó cho rằng người đàn ông đã luôn
thống trị người đàn bà; nó phủ nhận tính liên đới, tính bổ sung cho nhau giữa
hai phái mà ngay những đặc điểm thể lý đã cho thấy rồi. Do ảnh hưởng của nó, có
nơi nhà cầm quyền đã loại ra khỏi bộ Luật dân sự những cách gọi truyền thống: cha,
mẹ và thay vào đó cách gọi kỳ quái là “người cung cấp những năng lực di
truyền học” (pourvoyeur de forces génétiques). Làm sao một chuyện lạ đời
như thế có thể xảy ra trong một thế giới Tây phương đã đạt tới những tiến bộ
khoa học kỹ thuật chưa từng có? Phải chăng người ta chỉ “duy lý” khi cần phải
duy lý và “bất nhất” khi thấy cần phải bất nhất?
Những hậu quả tai hại
Vài nhận xét sơ khởi trên đây cũng đã có
thể cho thấy học thuyết này không mang tính khoa học mà chỉ là một ý thức hệ,
nghĩa là một lý thuyết không căn cứ trên nền tảng khách quan vững chắc và phổ
quát nào, mà chủ yếu gắn liền vào những chọn lựa, những chủ trương nào đó nhằm
phục vụ những lợi ích mang tính “phe nhóm”. Căn cứ vào những chọn lựa ấy, nó
phủ nhận những điều khách quan hiển nhiên. Bởi thế nó là một ý thức hệ hết sức
tai hại đối với xã hội và con người. Chối bỏ căn tính nam hay nữ như một thực
tại nội tại của mỗi con người, là chối bỏ một nền tảng quan trọng từ đó mỗi
người xây dựng căn tính và nhân cách riêng của mình. Sự chối bỏ đó còn là một
cuộc tấn công vào định chế hôn nhân, gia đình, tấn công vào thiên chức làm cha,
làm mẹ và sự truyền sinh. Khi một xã hội phủ nhận sự khác biệt giới tính trong
luật lệ của mình, nó mặc nhiên đặt ngang hàng hôn nhân giữa một người nam và
một người nữ (vốn là nền tảng khách quan của xã hội) với cuộc sống chung giữa
hai người đồng tính/giới, đồng thời nó “biệt đãi” các xu hướng giới tính hay
tính dục (xu hướng đồng tính, khác tính, lưỡng tính) được coi là có giá trị như
nhau. Nhưng làm sao có thể đặt các xu hướng giới tính trên hay dù chỉ là
ngang hàng với căn tính giới tính (tự nhiên) được, bởi lẽ chỉ có sự phối
hợp nam nữ mới sinh ra con cái, tức những thành viên của xã hội, những công dân
của một nước? Nếu bất chấp sự thật hiển nhiên này, thì rõ ràng là cố ý tìm lợi
ích của những phe nhóm nhất định, hay thậm chí tìm thoả mãn nhưng nhu cầu riêng
của những nhóm người nào đó, với bất cứ giá nào. Quả thực, đây là một nét khá
nổi bật, dù không hợp lý, của nền văn hoá Tây phương hiện đại.
Kitô giáo nói gì?
Giáo lý Công giáo về con người là hết
sức rõ ràng và nhất quán. Xin tóm tắt mấy điểm then chốt.
Ngay những trang đầu, Kinh Thánh Cựu Ước
đã cho thấy phẩm giá vô song của con người vì con người được “Thiên Chúa sáng
tạo nên theo hình ảnh của Người”, có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo
Dựng mình, được Người đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất (x. St
1,26-28 và Hiến chế Vui mừng và Hy vọng (VMVHV) của Công đồng Vaticanô
II, số 12, #3). Rồi liền ngay sau khi dạy rằng Thiên Chúa tạo dựng con người
theo hình ảnh mình, bài Kinh Thánh viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người có nam
có nữ” (St 1,27). Đã nói “con người” thì phải có nam có nữ. Người nam và
người nữ – Ađam và Eva – có cùng một bản tính, một phẩm giá như nhau, và họ
liên kết với nhau “thành một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người”. Sự
liên kết này phát sinh từ chính “bản tính thâm sâu của họ” bởi vì “con người là
một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người
sẽ không thể sống và phát triển tài năng mình” (Hiến chế VMVHV, số đã
dẫn). Trình thuật về việc sáng tạo con người chưa dừng lại trước khi nói về sự
kết hợp nam nữ thành vợ chồng. Theo kiểu nói hình tượng quen thuộc, sách Sáng
Thế kể: Khi đối diện với người đàn bà được Thiên Chúa tạo dựng từ xương sườn
của mình, “con người” (Ađam) nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi!”. Và Sách Thánh bình luận: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà
gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,23-24).
Như vậy, hôn nhân và gia đình cũng phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa, do đó là
những định chế thánh thiện (x. Mt 19,1-8. Có thể đọc thêm Hiến chế VMVHV,
các số 48-50).
Vài nhận định kết thúc
Thuyết về Giới đã công khai bước lên sân
khấu thế giới tại Hội nghị quốc tế về Phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995; ngày nay nó
được những văn phòng Liên Hiệp Quốc và Quốc Hội châu Âu ủng hộ; nó cũng được
vài nước châu Âu đưa vào chương trình giáo dục. Có phải đó là bằng chứng rằng
đó là một thuyết nghiêm túc không?
Thông thường có thể kết luận được như
vậy, nhưng ở đây không phải như thế. Có biết bao ý thức hệ được nhóm này nhóm
kia, tổ chức này tổ chức nọ, thậm chí nước này nuớc khác coi là “chân lý” mà
chỉ là chân lý đối với họ mà thôi. Làm sao có thể coi là đúng khi, chẳng hạn,
người ta coi cuộc sống chung của hai người khác phái vốn chỉ “phục vụ” lợi ích
hẹp hòi của hai cá nhân trong cuộc, cũng ngang với một cuộc hôn phối đích thực?
Lương tri cho thấy ngay việc “đánh đồng” đó là sai, là hạ thấp và đe doạ định
chế hôn nhân và gia đình nền tảng của xã hội. Hoặc, làm sao có thể coi là đúng
khi người ta phủ nhận một điều hiển nhiên là mỗi người có một căn tính giới
tính (tôi không nói căn tính người) được quy định bởi những yếu tố sinh
học, chứ không phải chỉ do văn hoá và xã hội? Có gì là kỳ thị khi nói rằng
người này người kia sinh ra là nam hay nữ? Sách giáo khoa môn sinh vật học của
Pháp (nhà xuất bản Bordas năm 2011), để phổ biến thuyết về giới, vẫn khẳng
định: Chỉ một mình bối cảnh văn hoá-xã hội đã đủ để giải thích tại sao mô hình
tính dục khác giới (hétérosexuel) lấn át các mô hình khác (chứ không
phải do cấu trúc sinh học của người nam và người nữ)! Thế thì xin hỏi, tác giả
có biết trong lịch sử loài người có thời nào mô hình tính dục đồng giới hay
lưỡng giới đã phổ biến ngang bằng hay lấn át mô hình khác giới như một chuyện
“bình thường” không? Nếu không chứng minh được thì khẳng định của họ chỉ là võ
đoán, tuỳ tiện mà thôi – một khẳng định mang tính ý thức hệ rõ rệt, không phải
là khoa học. Mọi động vật xưa nay sinh ra đều có đực có cái, có trống có mái
tuy cũng thuộc một loài như nhau, và chỉ có sự phối hợp hai cá thể khác giới
tính mới sinh sản được những cá thể mới và duy trì được nòi giống. Đó là luật
tự nhiên. Thiên chức cao quý làm mẹ được thiên nhiên chuẩn bị cho người phụ nữ
đầy đủ về mặt sinh học, và thiên nhiên cũng làm như thế cho thiên chức làm cha
của người nam. Qua lý thuyết về giới này, tôi hiểu thêm tại sao Đức Giáo Hoàng
Bênêđictô XVI thường nói tính độc đoán của chủ nghĩa tuơng đối hiện đại.
Có điều mâu thuẫn là một đàng người ta quả quyết không có chân lý nào khách
quan phổ quát cho mọi người (tương đối!), đàng khác là cho rằng chỉ có mình là
đúng và tìm cách áp đặt ý kiến của mình cho kẻ khác – nhất là khi mình nắm
quyền hành trong tay!
Thuyết mới về giới cũng là một minh hoạ
tiêu biểu cho nền văn minh Tây phương hiện đại: Con nguời muốn tự định đoạt lấy
cuộc sống mình, tự quyết cái gì là đúng cái gì là sai (chân), cái gì tốt
cái gì xấu (thiện), khỏi cần những quy chiếu khách quan như Thượng Đế
hay Thiên Nhiên, luật Thiên Chúa hay luật tự nhiên. Người không tin Chúa thì
phủ nhận luật của Ngài cũng không sao, bởi vì họ còn có luật tự nhiên. Căn cứ
vào đó, con người có lý trí vẫn có thể hành động đúng và tốt, và hoàn thiện
chính mình được. Luật Chúa kiện toàn chứ không mẫu thuẫn hay hủy bỏ luật tự
nhiên. Điều bi đát là con người hiện đại nhiều khi phủ nhận ngay cả luật thiên
nhiên – thuyết về giới là một ví dụ – bởi họ sợ rằng vâng theo thiên nhiên,
mình sẽ không còn là “chúa tể” của mình nữa, hoặc họ ngờ ngợ rằng nghe theo
thiên nhiên thật ra là nghe theo Tạo Hoá. Nhưng chính vì thế mà thế giới ngày
nay như bị “xào xáo”, mất phương hướng, rơi vào khủng hoảng về ý nghĩa, về giá
trị và về đạo đức. Ngày nay những ý niệm như nhân phẩm, nhân quyền cũng không
còn được đặt trên cơ sở “khách quan” nào vững chắc nữa. Tuy có người vẫn nói
tới quyền tự nhiên, nhưng kỳ thực người ta chỉ chấp nhận với nhau những quy tắc
thực tế cho cuộc sống và hành động chung với nhau mà thôi, chứ không nhìn nhận
quyền nào thực sự là tự nhiên hay bất khả xâm phạm. Không ít nhóm người không
muốn chấp nhận những quyền mà Tuyên ngôn năm 1948 của Liên Hiệp Quốc công bố là
quyền cơ bản của con người. Ngày nay (và thuyết về giới lại là một ví dụ), nhân
danh nguyên tắc bất kỳ thị, người ta có khuynh hướng coi lợi ích hay nhu cầu
của bất cứ nhóm nào đều là “quyền” cả. Nhưng khi cái gì cũng là quyền cả thì
chẳng có gì là quyền nữa; khái niệm quyền trở nên trống rỗng, mất giá!
Từ nơi thâm sâu của những loại thuyết
như thế này, phải chăng có một ý muốn chống lại Thiên Chúa và chống lại Kitô
giáo?
-----------------
Tham khảo:
– Mgr Tony Anatrella, Théorie du
Genre dans Caritas in Veritate. ZENIT.org, 8 juillet 2009 (interview).
– Idem, Théorie du Genre préoccupe
les pères synodaux, ZENIT.org, 12 octobre 2009 (interview).
– Explications de la Fondation Lejeune,
“La Théorie du gender au lycée: Un enseignement idéologique”, ZENIT.org,
29 aout 2011.
(emty.org Cập nhật: 11/05/2012 -
11:48:46)