Tài liệu chính thức của các Giám Mục Hoa Kỳ về các kết hiệp đồng
tính.
ubmvgiadinh.org 13/5/2012
Dẫn Nhập
Ngày nay một trào lưu đang lớn
mạnh muốn đưa những mối quan hệ thường được gọi là sống chung đồng tính lên
ngang hàng về mặt luật pháp với hôn nhân. Tình trạng này thách đố những người
Công Giáo - và tất cả những ai tìm kiếm sự thật - phải nghĩ sâu xa về ý nghĩa
của hôn nhân, mục đích của nó và giá trị của nó đối với những cá nhân, gia đình
và xã hội. Suy niệm về vấn đề này, qua sự vận dụng cả lý trí và đức tin, là một
khởi đầu thích hợp và là khuôn khổ cho sự bàn bạc hiện nay.
Chúng tôi, các Đức Giám Mục
Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, xin được đưa ra nơi đây những sự thật căn bản để giúp
hiểu biết giáo huấn Công Giáo về hôn nhân và giúp đề cao hôn nhân cũng như tính
chất thánh thiêng của nó.
1. Hôn nhân là gì?
Hôn nhân, như đã được thiết lập
bởi Thiên Chúa, là một sự kết hiệp trung tín, độc quyền và suốt đời giữa một
người nam và một người nữ được kết hiệp trong một một cộng đoàn mật thiết của
đời sống và tình yêu. Họ dâng hiến hoàn toàn chính họ cho nhau và cho bổn phận
diệu kỳ là đem con cái của họ vào trong thế gian này và nuôi dưỡng chúng. Ơn
gọi hôn nhân được đan sâu trong tâm trí con người.
Những sự thật về hôn nhân này
hiện hữu theo trật tự tự nhiên và có thể lĩnh hội dưới ánh sáng của lý trí con
người. Những sự thật này đã được xác nhận trong Mạc Khải Thánh Thiện của Thánh
Kinh.
2. Đức tin nói với
chúng ta điều gì về hôn nhân?
Hôn nhân xuất phát từ bàn tay
từ ái của Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên cả người nam và người nữ giống hình ảnh
thánh thiện của Ngài (x. Kn 1:27). Người đàn ông “lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai thành một xương một thịt” (Kn 2:24). Người đàn ông nhận người
đàn bà như là “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (Kn 2:23). Thiên Chúa
chúc phúc cho hai người nam nữ và ra lệnh cho họ “Hãy sinh sôi nảy nở thật
nhiều” (Kn 1:28). Chúa Giêsu cũng đã lập lại những lời dạy trong Sách Khởi
Nguyên khi nói: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người
đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một
thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mc
10:6-8).
Những đoạn Thánh Kinh này giúp
chúng ta hiểu chương trình của Thiên Chúa dành cho hôn nhân. Đó là một sự kết
hiệp mật thiết trong đó những người phối ngẫu, như những con người bình đẳng
với nhau, ban tặng chính mình cho nhau hoàn toàn và đầy thương yêu. Qua món quà
trao tặng nhau là chính mình, họ hợp tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản con
cái và chăm sóc cho chúng.
Hôn nhân vừa là một cơ chế tự
nhiên, vừa là một sự kết hiệp thánh thiêng bởi vì nó bắt rễ từ chương trình tạo
dựng thánh thiện của Thiên Chúa. Thêm vào đó, Giáo Hội dạy rằng hôn nhân hợp
pháp của những người đã chịu phép Rửa Tội là một bí tích - một thực tại cứu độ.
Đức Giêsu Kitô đã biến hôn nhân thành một biểu tượng cho tình yêu của Ngài đối
với Giáo Hội (x. Eph 5:25-33). Điều này nghĩa là một cuộc hôn nhân bí tích làm
cho thế giới thấy, theo khía cạnh nhân loại, những điều gì đó về tình yêu trung
tín, sáng tạo, phong phú và cho đi của Đức Kitô. Một hôn nhân chân thật trong
Chúa với ơn sủng của Ngài sẽ mang đến sự thánh thiện cho những người phối ngẫu.
Tình yêu của họ một khi được diễn tả nơi sự trung tín, nhiệt thành, sinh sản,
quảng đại, hy sinh, tha thứ, và chữa lành sẽ đem tình yêu của Thiên Chúa đến
cho gia đình, cộng đoàn và xã hội của họ. Ý nghĩa Kitô Giáo này xác nhận và
củng cố giá trị nhân bản của sự kết hiệp hôn nhân (SGLCG số 1612-1617;
1641-1642).
3. Tại sao hôn nhân
chỉ tồn tại giữa người nam và người nữ?
Cấu trúc tự nhiên của tính dục
con người khiến cho người nam và người nữ trở nên những đối tác bổ túc lẫn nhau
trong việc di truyền sự sống con người. Chỉ có sự kết hiệp giữa người nam và
người nữ mới diễn tả sự bổ khuyết tính dục theo ý Chúa định cho hôn nhân.
Trong hôn nhân, người chồng và
người vợ ban tặng hoàn toàn chính họ cho nhau trong nam tính và nữ tính của họ
(SGLCG số 1643). Họ bình đẳng như những con người, nhưng khác biệt nam và nữ để
bổ sung lẫn nhau qua sự khác biệt tự nhiên này. Sự bổ khuyết độc đáo này khiến
cho mối giây ràng buộc hôn nhân, là trung tâm điểm của đời sống hôn nhân, có
thể thực hiện được
4. Tại sao kết hiệp
đồng tính không thể so sánh với hôn nhân?
Có những lý do cho thấy kết
hiệp đồng tính trái ngược với bản chất của hôn nhân: nó không dựa trên sự bổ
khuyết tự nhiên của người nam và người nữ; nó không hợp tác với Thiên Chúa
trong việc tạo dựng sự sống mới; và mục đích tự nhiên của kết hiệp lứa đôi
không thể đạt được qua hôn nhân đồng tính. Những người trong mối liên hệ đồng
tính không thể tiến vào một sự kết hiệp hôn nhân phu phụ. Do đó, là sai lầm khi
đánh đồng quan hệ của họ với hôn nhân.
5. Tại sao đối với
xã hội điều quan trọng là phải bảo tồn hôn nhân như một kết hiệp duy nhất giữa
một người nam và một người nữ?
Vượt trên thời gian, và những
khác biệt rất xa về văn hóa và tín ngưỡng, hôn nhân luôn là căn bản của gia
đình. Đến lượt mình, gia đình là đơn vị căn bản của xã hội. Vì vậy, tuy hôn
nhân là một quan hệ riêng tư, nó có một ý nghĩa đại chúng.
Hôn nhân là khuôn mẫu căn bản
cho những mối quan hệ nam nữ. Nó đóng góp cho xã hội bởi vì nó tạo ra khuôn mẫu
theo đó những người nam nữ sống phụ thuộc vào nhau và cam kết tìm kiếm điều tốt
đẹp cho nhau trong suốt cuộc đời.
Kết hiệp hôn nhân cũng đem lại
những điều kiện tốt nhất để nuôi dạy trẻ em: chẳng hạn, quan hệ vững bền và yêu
thương của một người mẹ và một người cha chỉ hiện hữu trong hôn nhân. Nhà nước
đúng đắn khi nhìn nhận mối quan hệ này như là một định chế công cộng trong luật
của mình bởi vì quan hệ này tạo ra một đóng góp độc đáo và thiết yếu cho thiện
ích chung.
Luật pháp đóng một vai trò giáo
dục vì chúng hình thành khuôn mẫu tư duy và hành vi, đặc biệt về những điều mà
xã hội cho phép và được chấp nhận. Thành thử, khi ban cho những kết hiệp đồng
tính một tình trạng pháp lý ngang bằng với hôn nhân nó cũng công khai ban một
sự chuẩn thuận cho hành vi đồng tính luyến ái và coi đó như một điều vô thưởng
vô phạt về mặt luân lý.
Khi hôn nhân được tái định
nghĩa sao cho những quan hệ khác được ngang bằng với nó, định chế hôn nhân bị hạ
giá và bị suy yếu hơn nữa. Việc làm suy yếu định chế căn bản này ở mọi cấp độ
và bởi các thế lực khác nhau đã khiến cho xã hội phải trả một giá quá đắt.
6. Có phải từ chối
hôn nhân của những người đồng tính là thể hiện một sự phân biệt bất công và một
sự thiếu tôn trọng họ như những con người không?
Việc phủ nhận tình trạng pháp
lý của các kết hiệp đồng tính không phải là bất công bởi vì hôn nhân và các kết
hiệp đồng tính là những thực tại khác biệt nghiêm trọng. Thực ra, chính công lý
đòi hỏi xã hội phải hành động như thế. Để giữ ý định của Thiên Chúa dành cho
hôn nhân, trong đó quan hệ tính dục có vị trí đúng đắn và độc quyền, không phải
là xúc phạm đến phẩm giá của những người đồng tính. Những người Kitô hữu cần
phải là chứng tá cho toàn bộ sự thật luân lý và chống lại, như một điều vô
luân, cả những hành vi đồng tính luyến ái lẫn việc kỳ thị bất công những người
đồng tính.
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo khuyến khích những người đồng tính luyến ái “được chấp nhận với sự tôn
trọng, lòng thương yêu, và sự tế nhị” (số 2358). Sách Giáo Lý cũng khuyến khích
tình bằng hữu thanh sạch “Sự khiết tịnh được biểu lộ cách cao thượng nơi tình
bằng hữu với tha nhân. Dù nó được nảy nở giữa những người cùng giới hay khác
giới, tình bằng hữu đem lại một sự tốt đẹp cao cả cho mọi người”. (số 2347).
7. Những người đang
sống trong các mối quan hệ đồng tính có đáng được hưởng những phúc lợi xã hội
và kinh tế dành cho các cặp vợ chồng không?
Nhà nước có trách nhiệm đề cao
gia đình, bắt rễ từ hôn nhân. Do đó, nhà nước đúng đắn khi chỉ cấp cho những
cặp vợ chồng các quyền lợi và phúc lợi mà không nới rộng cho những kết hiệp
khác. Nói cho cùng, sự ổn định và phát triển của xã hội tùy thuộc vào sự ổn
định và phát triển của đời sống gia đình lành mạnh.
Việc nhìn nhận hợp pháp hôn
nhân, bao gồm cả những phúc lợi đi liền với nó không chỉ là vì chuyện riêng tư
cá nhân, nhưng còn là vì sự cam kết xã hội của vợ chồng trong việc làm thăng
tiến xã hội. Sẽ là sai lầm khi định nghĩa lại hôn nhân vì muốn cung ứng các
phúc lợi cho những ai không thể chính đáng bước vào đời sống hôn nhân.
Nhiều phúc lợi hiện nay những
người sống trong các loại kết hiệp đồng tính đã có thể nhận được bất kể tình
trạng hôn nhân. Chẳng hạn, các cá nhân có thể đồng ý sở hữu tài sản chung với
người khác, và họ có thể chỉ định ai là người thừa kế di chúc hay ai là người
có quyền quyết định trong việc chăm sóc sức khoẻ cho họ một khi họ đau yếu liệt
lào.
8. Dưới ánh sáng
của giáo huấn Công Giáo về sự thật và vẻ đẹp của hôn nhân, người Công Giáo nên
làm gì?
Không thể có sự tách biệt giữa
đức tin của ta với đời sống dù là trong phạm vi riêng tư hay công cộng. Tất cả
mọi người Công Giáo phải hành động theo đức tin của họ với một lương tâm trưởng
thành theo Thánh Kinh và Thánh Truyền. Qua tiếng nói và lá phiếu của họ, họ nên
đóng góp cho sự hưng thịnh của xã hội, cũng như phê phán đời sống xã hội qua
những tiêu chí của lý trí đúng đắn và sự thật Tin Mừng. Thi hành bổn phận công
dân có trách nhiệm là một nhân đức. Dự phần trong tiến trình xã hội là một bổn
phận luân lý. Đây là một điều cấp thiết dưới ánh sáng của nhu cầu cần phải bảo
vệ hôn nhân và chống lại việc đánh đồng về mặt luật pháp giữa hôn nhân và các
loại kết hiệp đồng tính.
Chính những cặp vợ chồng, qua
chứng tá của tình yêu trung tín và cho đi, là những trạng sư tốt nhất cho hôn
nhân. Qua gương sáng của họ, họ là những nhà giáo đầu tiên của thế hệ tiếp theo
về thế giá của hôn nhân và nhu cầu phải bảo vệ nó. Như những nhà lãnh đạo của
gia đình - mà Công Đồng Vaticanô II đã gọi là “một giáo hội tại gia” (Hiến Chế
Ánh Sánh Muôn Dân số 11), các cặp vợ chồng nên đem những ơn huệ cùng như những
nhu cầu của họ đến với Giáo Hội rộng lớn hơn. Nơi đó, với sự trợ lực của những
cặp vợ chồng khác và những mục tử cũng như những cộng tác viên, họ có thể củng
cố cam kết của họ và nuôi dưỡng bí tích hôn nhân của họ suốt đời.
Kết luận
Hôn nhân là một định chế căn
bản của loài người và xã hội. Dù hôn nhân bị chi phối bởi luật dân sự và Giáo
Luật, hôn nhân không xuất phát từ Giáo Hội hay nhà nước, nhưng từ Thiên Chúa.
Do đó, cả Giáo Hội lẫn nhà nước đều không có quyền thay đổi ý nghĩa và cấu trúc
cơ bản của hôn nhân.
Hôn nhân, với bản chất và những
mục đích được thiết lập bởi Thiên Chúa, chỉ có thể là sự kết hiệp giữa một
người nam và một người nữ và phải được giữ nguyên như thế trong luật pháp.
Trong một thể thức không giống bất kỳ một thứ quan hệ nào khác, hôn nhân tạo ra
một sự đóng góp độc đáo và không thể thay thế được cho thiện ích chung của xã
hội, đặc biệt thông qua việc sinh sản và giáo dưỡng con cái. Sự kết hiệp suốt
đời giữa một người nam và một người nữ trở thành một điều tốt cho chính họ, gia
đình, cộng đoàn và xã hội của họ. Hôn nhân là một ơn sủng phải được tán dương
và bảo vệ.
Đức Ông. William P.
Fay
Tổng Thư Ký Hội Đồng Giám Mục Hoa
Kỳ
Xem Thêm
Second
Catechism of the Catholic
Church, nos. 369-373, nos. 1601-1666, and nos. 2331-2400.
Pope John Paul II. On the
Family (Familiaris Consortio).
Congregation for the Doctrine
of the Faith. Considerations Regarding Proposals to Give Legal Recognition to
Unions Between Homosexual Persons. July 2003. Available online at www.vatican.va.