TÓM LƯỢC CHƯƠNG NĂM HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
(ubmvgiadinh.org 21/5/2012)
”GIA ĐÌNH, TẾ
BÀO SỐNG ĐỘNG CỦA XÃ HỘI”
I. Gia đình, xã hội tự nhiên đầu
tiên (209-214)
Kinh Thánh nhiều lần nhấn mạnh tầm quan
trọng và tính trung tâm của gia đình. Hôn nhân là một sự kết hợp giữa người nam
và người nữ, những con người ngang bằng về phẩm giá, khác nhau về nhiều mặt
nhưng bổ sung cho nhau. Từ sự bổ sung này, phát xuất sự truyền sinh, một chức
năng “làm cho [đôi vợ chồng] là người cộng sự của Đấng Tạo hóa” (Sách Tóm lược Học
thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 209).
Sách Sáng thế ký kể lại việc tạo dựng
người nam và người nữ đầu tiên. “Chính nơi gia đình, con cái học những bài
học đầu tiên và quan trọng nhất về sự khôn ngoan” và “các đức tính”
(210). Sách Tóm lược kế đó ghi lại những lời của Đức Phaolô VI trong chuyến
viếng thăm Nazarét năm 1964, nói về Đức Giêsu được sinh ra và sống trong một
gia đình, “chấp nhận những đặc điểm của gia đình và đem lại cho
định chế hôn nhân phẩm giá cao quý nhất” (210).
Gia đình là “xã hội tự nhiên đầu tiên”,
xã hội được tạo thành theo định chế của Thiên Chúa. Với tư cách là “xã hội tự
nhiên đầu tiên”, gia đình có “những quyền lợi tự nhiên riêng của mình” do
Thiên Chúa ban (211). Việc gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân giữa
người nam và người nữ quan trọng cả về mặt tự nhiên (vì là nơi chính yếu diễn
ra những quan hệ liên nhân vị) lẫn về mặt siêu nhiên (vì là một định chế do
Thiên Chúa đặt ra).
Tầm quan trọng của gia đình đối với
con người (212)
Sách Tóm lược giải thích tầm quan trọng
của gia đình đối với cá nhân. Gia đình là “chiếc nôi sự sống và tình yêu,
nơi con người được sinh ra và lớn lên”. “Bầu khí thân mật nối kết gia
đình” cũng là nơi ta học nhận lãnh “trách nhiệm” và học biết những điều hay
lẽ phải.
Tầm quan trọng của gia đình đối với
xã hội (213-214)
Gia đình là “một cộng đồng tự nhiên”
nơi “con người được coi như một mục tiêu chứ không bao giờ bị coi như
một phương tiện” (213). “Gia đình có những quyền lợi bất khả xâm phạm”,
“không hiện hữu vì xã hội hay Nhà nước, nhưng xã hội hay Nhà nước hiện
hữu vì gia đình” (214). Vì tầm quan trọng sống còn đó, gia đình có vị
trí ưu tiên trên cả xã hội và Nhà nước. Xã hội hoặc Nhà nước có nghĩa vụ tuân
thủ nguyên tắc bổ trợ, nghĩa là một mặt không được lấy đi khỏi gia đình những
công việc mà gia đình tự bản thân hoặc liên kết với những gia đình khác có thể
thực hiện được, và mặt khác, cần phải hỗ trợ gia đình khi cần thiết.
II. Hôn nhân, nền tảng của gia đình
(215-220)
a. Giá trị của hôn nhân (215-218)
“Gia đình đặt nền tảng trên sự
lựa chọn tự do của hai vợ chồng muốn kết hợp với nhau trong hôn nhân”,
nhưng định chế gia đình là “một định chế không tùy thuộc con người mà
tùy thuộc chính Thiên Chúa” (215). “Thiên Chúa chính là tác giả của
cuộc hôn nhân” (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, 48). “Không quyền lực nào có thể
xoá bỏ quyền tự nhiên được kết hôn hoặc thay đổi các đặc tính và
mục tiêu của hôn nhân” (216).
Hôn nhân có bốn đặc tính: toàn vẹn,
hợp nhất, bất khả phân ly và trung tín, và sản sinh con cái. Đa thê đi
ngược lại ý định Thiên Chúa. Việc sinh sản và nuôi dạy con cái là một phần quan
trọng của hôn nhân; tuy nhiên, đó không phải là lý do duy nhất của hôn nhân.
Khi hai vợ chồng không thể có con thì “tính bất khả phân ly và giá trị
hiệp thông của hôn nhân vẫn còn” (218).
Bí tích Hôn Nhân (219-220)
Bí tích hôn nhân phát sinh từ tình
yêu phu thê của Đức Kitô đối với Giáo Hội. “Hôn nhân, với tư cách một bí tích,
là giao ước trong tình yêu giữa một người nam và một người nữ” (219).
Vợ chồng Kitô giáo giúp đỡ nhau trên đường nên thánh, “trở thành dấu
hiệu và công cụ cho tình yêu của Đức Kitô trong thế giới” (220). Đôi vợ
chồng ấy “tìm kiếm Nước Chúa bằng cách tham gia vào các việc trần
thế và sắp xếp chúng theo đúng kế hoạch của Thiên Chúa” (Đức Gioan
Phaolô II, Tông
thư Gia đình Kitô giáo, 47). Nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, gia
đình Kitô giáo được nối kết mật thiết với Giáo hội và trở thành “Giáo hội tại
gia” hoặc “Giáo hội thu nhỏ”.
III. Chủ thể tính xã hội của gia
đình (221-245)
Tình yêu và việc đào tạo một
cộng đồng các nhân vị (221-229)
“Gia đình là nơi cho cộng đồng các
nhân vị đích thực phát triển” (221). Trong tình yêu, mọi người được nhìn
nhận, chấp nhận và kính trọng. Phải quan tâm đến những người cao tuổi trong
gia đình. Sự có mặt của các vị này có thể mang lại giá trị lớn: các
vị là mối dây liên lạc giữa các thế hệ, nguồn phúc lạc cho gia đình và toàn xã
hội, một trường học quan trọng về cuộc đời, kho tàng các giá trị và truyền
thống và tiềm năng tài bồi những người trẻ.
“Con người được tạo dựng để yêu
thương và không thể sống mà không có tình yêu… Tình yêu không thể giản
lược thành những cảm xúc hay tình cảm, càng không thể rút gọn thành
những biểu hiện tính dục đơn thuần” (223). “Sự khác biệt và những
sự bổ sung về thể lý, luân lý và tinh thần, giữa người nam và người
nữ là nhằm hướng đến những ích lợi của hôn nhân và sự thăng hoa đời
sống gia đình” (224).
Tình yêu vợ chồng đòi hỏi hôn nhân
phải bền vững và bất khả phân ly. Việc đưa ly dị vào trong pháp luật
dân sự đã “tiếp sức cho một quan niệm tương đối hóa sự ràng buộc của
hôn nhân” và có thể gọi đó là “một nạn dịch thực sự cho xã hội”(225).
Tuy nhiên, “Giáo hội không bỏ rơi những người tái kết hôn sau khi đã ly
dị. Giáo hội cầu nguyện cho họ và khích lệ họ trong những khó khăn
họ gặp phải trong đời sống thiêng liêng, nâng đỡ họ trong đức tin và
đức cậy” (226).
“Hôn nhân thực tế” dựa trên một quan
niệm sai lạc về tự do và những cái nhìn cá nhân chủ nghĩa. “Hôn nhân không đơn
thuần chỉ là một sự đồng ý sống chung với nhau” mà còn là một công
cụ xã hội và phương tiện chính yếu nhằm “giúp mỗi người trưởng thành
toàn diện” (227).
Cần tôn trọng nhân phẩm của những
người đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là “hợp
pháp hoá một hành vi không phù hợp với luật luân lý” và “nhìn nhận
quyền kết hôn giữa những người đồng giới và coi việc ấy ngang hàng
với gia đình” (228). Pháp luật không bao giờ được làm suy yếu sự
nhìn nhận “hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly là hình thức
đúng đắn duy nhất của gia đình” (229). Các Kitô hữu phải tái khẳng
định rằng gia đình là “một cộng đồng yêu thương và liên đới”, thích
hợp để “truyền đạt những giá trị văn hoá, đạo đức, xã hội, tâm linh
và tôn giáo” (229).
Gia đình là thánh điện của sự
sống (230-237)
“Tình yêu vợ chồng tự bản chất
mở ra để đón nhận sự sống” (230) và “gia đình xây dựng trên hôn nhân
là thánh điện của sự sống” (231). Gia đình Kitô giáo phải “cổ vũ và
xây dựng nền văn hoá sự sống” và có sứ mạng “làm chứng cho và loan
báo Tin Mừng sự sống” (231).
Hai vợ chồng tham gia vào “công việc
sáng tạo của Thiên Chúa” và thiện ích xã hội qua việc làm cha làm mẹ.
Trách nhiệm rất nặng nề, nhưng hãy dám thực hiện quyết định đó dựa trên “việc
quảng đại đón nhận sự sống” (232).
Cần loại bỏ, không chấp nhận về mặt
luân lý, các phương pháp phá thai, triệt sản và ngừa thai. Tuy nhiên, các đôi
vợ chồng có thể quyết định sử dụng các phương pháp dựa trên sự tiết dục
định kỳ trong thời gian có thể mang thai của người phụ nữ. “Quyết
định về thời gian cách quãng giữa các lần sinh con và về số con
muốn có là quyền riêng của hai vợ chồng” (234).
“Ước muốn làm cha làm mẹ không có
nghĩa là được “quyền có con” bằng bất cứ cách nào, vì con cái chưa
sinh ra cũng có quyền của mình” (235). Đứa trẻ có quyền có những điều
kiện tối ưu để sống còn, một gia đình bền vũng xây dựng trên nền tảng hôn
nhân, được sự bổ sung của hai người, là cha và mẹ.
Giáo hội chống lại những kỹ thuật sinh
sản vô tính thay thế cho hành vi yêu thương trong hôn nhân. Huấn quyền nhận
định rằng những kỹ thuật đó trái ngược với phẩm giá của con người và gây ra
những quan ngại về sự thống trị toàn diện của cá nhân tiến hành việc sinh sản
vô tính trên cá nhân được sinh ra. “Các cha mẹ, với tư cách thừa tác viên
của sự sống, không bao giờ được quên rằng cần phải chú ý tới chiều
kích thiêng liêng của việc sinh sản hơn bất cứ khía cạnh nào khác: Vai
trò làm cha làm mẹ là một trách nhiệm, tự bản chất, không đơn thuần
chỉ về mặt thể lý mà còn về mặt thiêng liêng” (237). Qua vai trò này, “khai
diễn ra gia phả của con người, gia phả có khởi đầu ở trong Thiên Chúa và phải
dẫn dắt đưa trở lại đến Thiên Chúa” (Đức Gioan Phaolô II, Thư cho các Gia đình,
10).
Nhiệm vụ giáo dục (238-243)
Bằng cách thi hành sứ mạng giáo
dục, gia đình đóng góp cho công ích: gia đình là ngôi trường đầu tiên
dạy các đức tính xã hội, giáo dục về tự do và trách nhiệm và truyền
thông một số giá trị căn bản. Gia đình có nhiệm vụ nuôi dạy con cái, “một
vai trò hoàn toàn độc đáo và không thể thay thế” (239). Tình yêu của
cha mẹ làm sinh động hoạt động giáo dục. Cha mẹ có quyền và có bổn
phận giáo dục con cái, mà Nhà nước nên tôn trọng.
“Cha mẹ là những nhà giáo dục
đầu tiên, nhưng không phải là nhà giáo dục duy nhất, đối với con cái”
(240). Cha mẹ thi hành một cách có trách nhiệm hoạt động giáo dục này “bằng
cách cộng tác chặt chẽ với các cơ quan xã hội và Giáo hội” (240).
“Cha mẹ có quyền thành lập và hỗ
trợ các cơ sở giáo dục” (241). Cả cha và mẹ đều quan trọng ngang nhau
trong việc giáo dục con cái và “có trách nhiệm cung cấp một nền giáo dục
toàn diện” (242), đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục giới tính.
Phẩm giá và quyền lợi của trẻ em
(244-245)
Nhu cầu tôn trọng phẩm giá của trẻ em
là một đề tài thường xuyên được đề cập đến trong học thuyết xã hội của Giáo
hội. Các quyền của trẻ em phải được pháp luật bảo vệ, trước hết là quyền “được
sinh ra trong một gia đình thực sự” (244). Cộng đồng quốc tế cần tham gia
vào việc bảo vệ trẻ em bởi vì mặc dù Công ước về Quyền Trẻ em đã có hiệu lực
lực từ năm 1990, vẫn còn cảnh đông đảo các trẻ em trên thế giới sống trong tình
trạng bi đát: thiếu sự chăm sóc y tế, thiếu thực phẩm, chỗ trú ngụ, giáo dục
đào tạo cho các em, nạn buôn bán trẻ em, lao động trẻ em, hiện tượng “trẻ
em đường phố”, trẻ em bị sử dụng trong các cuộc xung đột vũ trang, nạn
tảo hôn và mại dâm trẻ em, vấn đề sử dụng trẻ em vào việc kinh doanh phim
ảnh khiêu dâm, khai thác các em tham gia các phương tiện truyền thông xã
hội hiện đại và tinh vi.
IV. Gia đình là chủ thể tích cực tham
gia vào đời sống xã hội (246-251)
Liên đới trong gia đình (246-247)
“Chủ thể tính xã hội của các gia
đình, một cách riêng lẻ hoặc liên kết với nhau, thể hiện tình liên đới và chia
sẻ không những giữa các gia đình với nhau mà cả dưới các hình thức đa
dạng của việc tham gia vào đời sống xã hội và chính trị” (246). Có thể
thực hiện tình liên đới này bằng cách phục vụ và quan tâm, chú ý đến
những người nghèo khổ và túng thiếu, những người mồ côi, tàn tật,
ốm đau, cao tuổi, những người sầu khổ vì tang chế, những người sống trong
nghi ngờ, cô đơn hoặc bị bỏ rơi.
Gia đình cần ý thức mình “là ‘vai chính’
trong ‘chính sách gia đình’ và hãy đảm nhận trách nhiệm làm biến đổi xã hội”
(247).
Gia đình, đời sống kinh tế và lao
động (248-251)
“Ngôi nhà đã từ lâu – và ở nhiều vùng
vẫn còn – là nơi sản xuất và trung tâm của đời sống. […]. Gia đình phải
được xem là một tác nhân chủ yếu của đời sống kinh tế, được hướng dẫn không
phải bởi não trạng thị trường mà theo lôgic chia sẻ và liên đới
giữa các thế hệ” (248).
“Gia đình và lao động được liên
kết bằng một mối quan hệ rất đặc biệt […] Quan hệ này bắt nguồn từ
tương quan giữa con người và quyền được hưởng thành quả lao động của
mình và liên quan đến con người không chỉ với tư cách một cá thể đơn lẻ
mà còn như một thành viên trong gia đình, được hiểu như một “xã hội
tại gia” (249). Giá trị của lao động ở chỗ lao động tạo điều kiện để thành lập
gia đình và phát triển con người.
Cần phải có “tiền lương gia đình”
(250), đủ nuôi sống cả gia đình và cho phép gia đình có thể tiết kiệm để
sau này mua sắm tài sản bảo đảm cho sự tự do của mình. Quyền tài
sản gắn chặt với sự sống còn của gia đình, bảo vệ gia đình khỏi sự
túng thiếu.
Xã hội cần công nhận đánh giá đúng mức “vấn
đề lao động của phụ nữ trong gia đình, nói rộng ra, là công việc “nội
trợ”, hiện nay cũng còn là trách nhiệm của những người nam với tư
cách làm chồng và làm cha” (251), đặc biệt là cần thực hiện việc bù đắp
về mặt kinh tế ngang bằng với các loại hình lao động khác. Cần “loại
bỏ mọi trở ngại khiến cho vợ chồng không thể đưa ra những quyết định
tự do liên quan đến trách nhiệm sinh sản của họ, và đặc biệt, những
quyết định không cho phép người phụ nữ thực hiện đầy đủ vai trò làm
mẹ” (251).
V. Xã hội phục vụ gia đình
(252-254)
Xã hội và Nhà nước cần “tôn trọng” và “thăng
tiến gia đình theo nguyên tắc bổ trợ” (252), nghĩa là cần tôn trọng tính ưu
tiên và “có trước” của gia đình, phát huy căn tính đích thực của đời
sống gia đình, bảo vệ các giá trị gia đình bằng các chính sách và pháp luật,
tôn trọng sự sống, tôn trọng quyền tự do lựa chọn trong việc giáo dục con cái.
Việc xã hội phục vụ gia đình bằng
cách “nhìn nhận, tôn trọng và thăng tiến các quyền của gia đình” cần
được cụ thể hóa bằng “các chính sách đúng đắn và hữu hiệu về gia đình”. Cần
công nhận (nghĩa là bảo vệ, trân trọng và phát huy) “căn tính của gia
đình, xã
hội tự nhiên được xác lập trên hôn nhân”. Sự công nhận này
phân biệt rạch ròi giữa “gia đình, được hiểu đúng nghĩa, với tất cả
các hình thức sống chung khác, tự bản chất, không xứng đáng được hưởng
danh xưng và địa vị của gia đình” (253).
“Việc xã hội và Nhà nước nhìn nhận
vị thế đứng hàng đầu của gia đình so với mọi cộng đồng khác, kể cả
thực thể Nhà nước, là sự vượt qua những quan niệm cá nhân chủ nghĩa đơn
thuần và là sự chấp nhận lấy chiều kích gia đình làm tầm nhìn về văn hoá
và chính trị không thể thiếu được trong việc xem xét những gì có liên quan
đến con người” (254).
Đan Quang Tâm tóm lược
[Từ trang web conglyvahoabinh.org]