Hôn
nhân trong xã hội Do Thái
Trong xã hội Do Thái, phong tục
cưới hỏi bắt đầu với người mai mối. Thường thì ý tưởng mai mối khởi đi từ cha
chú rể, nhưng người mai mối cũng cần nhận được sự đồng ý của cô dâu. Sau khi
mai mối thành công, luật Do Thái đòi có một số tiền cưới cho nhà gái. Số tiền
này thường sẽ tương xứng với thế giá của nhà trai. Suốt thế kỷ thứ nhất, số
tiền này khoảng 100 denari, tương đương với khoảng 100 ngày công lao động.[1] Sau khi trao tiền cưới, chú rể tương lai sẽ tặng quà cưới cho cô
dâu tương lai để bày tỏ tình yêu. Nhà gái cũng trao của hồi môn cho cô dâu và
đây cũng là một phần thừa kế. Hôn ước được ký gồm những thông tin chẳng hạn
như: số tiền cưới, những quyền mà cô dâu có cũng như những yêu cầu hoặc lời hứa
của chú rể.
Việc đính hôn diễn ra khi hôn
ước được ký. Thời gian đính hôn kéo dài khoảng một năm; người nam và người nữ
lúc này có thể sống chung với nhau. Điều này cũng có thể xảy ra trong Kinh
Thánh Tân Ước: Giuse nghe tin Maria có thai trong khi hai người chưa chung sống
với nhau nên Giuse định bỏ Maria. Cuối cùng, đám cưới mới diễn ra khi cha của
chú rể quyết định thời điểm thích hợp. Trong truyền thống cũng có những trường
hợp chú rể đến bắt cô gái đi một cách bất ngờ và lấy cô làm vợ. Truyền thống
này đã có từ xưa và cũng được thấy nơi những nền văn hóa khác. Chẳng hạn việc
bắt vợ cũng diễn ra trong văn hóa Hy Lạp và La Mã.
Vấn đề quan trọng nhất trong xã
hội lúc đó có thể là của hồi môn. Cha cô dâu trao của hồi môn cho chú rể để
giúp cô dâu và gia đình mới trong tương lai, nhưng chú rể không được lạm dụng
hay lãng phí số tiền này. Trong thời cổ, của hồi môn, nếu là đất đai hay tiền
của, chú rể sẽ sử dụng và có trách nhiệm gìn giữ tài sản ấy. Tuy nhiên, của hồi
môn thường là những vật dụng cần thiết cho đời sống gia đình, chẳng hạn như bàn
ghế, quần áo, chén đĩa…Nếu hai vợ chồng li dị thì của hồi môn được chia cho
người vợ hoặc nếu người vợ là người có lỗi thì của hồi môn sẽ thuộc về chồng.
Nếu người vợ mất, của hồi môn hoặc được trả về cho nhà vợ hoặc là cho con cái
thừa kế[2]. Giá trị của hồi môn tùy thuộc vào vị thế của gia đình người nữ.
Nếu gia đình người nữ muốn con mình cưới một người thuộc một gia đình giàu có,
thành công, họ sẽ tăng giá trị của hồi môn để người mai mối có thể dễ dàng ăn
nói với gia đình nhà trai. Hôn ước có phần tương tự như ngày nay nhưng đặc biệt
có đề cập đến giá trị của hồi môn.
Hôn ước cũng dự phòng chi tiết
về người thừa kế. Điều này quan trọng giúp cho việc xác định ai là người thừa
kế tài sản khi một người qua đời và người kia tái hôn. Ví dụ, nếu người chồng
và vợ có hai người con, hôn ước sẽ xác định rằng phân nửa tài sản sẽ dành cho
những người con, mỗi người con sẽ được 25% tài sản, số còn lại sẽ dành cho
người chồng hoặc người vợ còn sống. Điều này sẽ giúp đảm bảo cho những người
con khi bố hoặc mẹ chúng tái hôn. Hôn ước dường như một hợp đồng kinh tế nhưng
thực ra mục đích của hôn ước ở đây có ý bảo vệ những người liên hệ và dự phòng
những bất trắc có thể xảy ra.
Đính hôn
Việc đính hôn là lời hứa kết
hôn được thực hiện vào một khoảng thời gian trước lễ cưới. Thuật ngữ “đính hôn”
xuất hiện 11 lần trong Kinh Thánh.
Các sách lịch sử không cho thấy
nhiều thông tin về tục lệ này. Tuy nhiên, việc đính hôn của I-xa-ác và Gia-cóp
là những trường hợp khá đặc biệt. Mặc dầu Rê-bê-ca đã được hứa hôn với I-xa-ác
ở
Theo luật pháp, việc đính hôn
được thừa nhận trước pháp luật. Theo Đnl 20, 7, một người đan ông đã đính hôn,
mặc dầu chưa cưới cô gái, nhưng được miễn đi chinh chiến. Đnl 22, 23-27 cũng
giả thiết trường hợp cô gái bị cưỡng đoạt bởi một người đàn ông khác không phải
vị hôn phu tương lai. Nếu kẻ phạm tội ấy ở trong thành, người đàn ông đó sẽ bị
ném đá; cô gái cũng sẽ bị ném đá vì cô không chịu kêu cứu. Nếu cô bị cưỡng đoạt
ở vùng quê thì chỉ có người đàn ông bị ném đá vì ở vùng quê cô gái khó kêu cứu.
Trong 1 Sm 18, 21, ta sẽ thấy
công thức của một cuộc đính hôn hợp pháp: “Hôm nay, con sẽ là rể của ta”. Số
tiền cưới được thỏa thuận và trao ngay lập tức cho gia đình cô gái lúc đính
hôn.
Ta cũng thấy tục lệ đính hôn
này tồn tại ở
Lễ cưới
Thật thú vị khi thấy rằng cả ở
Những đoạn Kinh Thánh vừa kể
trên có lẽ không minh nhiên nói đến khế ước viết tay; chỉ có trong câu chuyện
của Tô-bi-a (Tb 7, 13) mới có đề cập rõ ràng khế ước viết tay. Chúng ta hiện có
những khế ước viết tay từ thời người Do Thái ở
Công thức được sử dụng trong
hôn ước được đưa ra trong những bản hôn ước ở Elephantine vốn được làm nhân
danh người chồng: “Cô ấy là vợ tôi và tôi là chồng cô ấy từ bây giờ cho đến trọn
đời.” Người phụ nữ không tuyên bố điều gì. Một công thức tương tự cũng được
thấy trong Tb 7, 11 khi cha của Sa-ra nói với Tô-bi-a: “và từ đây cháu là anh
của nó và nó là em của cháu.” Trong một hôn ước sau thế kỷ II được tìm thấy
trong sa mạc Giu-đa, công thức của hôn ước là: “em sẽ là vợ anh”.
Đám cưới chắc chắn là một dịp
vui mừng. Nghi lễ chính là việc cô dâu tiến vào nhà chàng rể. Cô dâu đội một
vòng hoa trên đầu (Dc 3, 11, Is 61, 10), và có các bạn của cô dâu đi theo sau
với các loại nhạc cụ (1 Mcb 9, 39). Cô dâu trang điểm trang lộng lẫy (Tv 45,
14-15; Is 61, 10), nhưng nàng có đeo một tấm mạng che mặt (Dc 4, 1.3; 6, 7) và
chỉ tháo ra trong phòng riêng của cô dâu chú rể. Điều này giải thích tại sao
Rê-bê-ca vén khăn lên nhìn I-xa-ác, hôn phu của mình (St 24, 65), và điều này
cũng cho biết làm cách nào mà La-ban có thể thay thế Ra-khen bằng Lê-a trong lễ
cưới đầu tiên của Gia-cóp (St, 29, 23-25). Cô dâu với những người hầu cận (Tv
45, 15) được dẫn tới nhà của chàng rể (Tv 45, 16; Xem St, 24, 67). Những bài
tình ca được cất lên chúc mừng cô dâu chú rể (Gr 16, 9), những ví dụ như thế
cũng gặp trong TV 45 và trong sách Diễm Ca cho dù chúng ta hiểu chúng bằng
nghĩa đen hay nghĩa bóng.
Những người Pa-let-tin và
Sy-ri-a gốc Ả-rập đã duy trì phong tục tương tự như việc cô dâu tiến vào, những
bài ca chúc mừng trong đám cưới và cô dâu đeo mạng che mặt. Trong quá trình cô
dâu tiến vào, cô có đeo một thanh kiếm và thỉnh thoảng lại múa kiếm. Một số
người so sánh tục lệ này với điệu múa Su-la-mi trong Dc 7, 1. Ở một số chi tộc,
cô dâu giả vờ trốn chú rể và chú rể phải thực hiện trò đuổi bắt cô dâu. Những
trò chơi này giả thiết là những phong tục còn sót lại của tục bắt cóc; tục lệ
những người đàn ông chi tộc Ben-gia-min và những cô gái nhảy múa trong những
vườn nho ở Si-lô được thuật lại trong Cựu Ước (Tl 21, 19-23). Tuy nhiên, những
so sánh như thế này không có nhiều chứng cứ xác đáng. Việc múa kiếm là biểu
tượng diễn tả sự cắt bỏ đi những xui xẻo và trừ khử tà thần. Điều này cũng giả
thiết rằng không có mối liên hệ nào giữa điệu múa Su-la-mi và múa kiếm.
Kế tiếp là một bữa tiệc lớn (
St 29, 22; Tl 14, 10; Tb 7, 14). Trong ba đoạn Kinh Thánh vừa kể, bữa tiệc diễn
ra ở nhà cô dâu, nhưng đó là những trường hợp ngoại lệ. Quy luật chung chắc
chắn là bữa tiệc được tổ chức ở nhà chú rể (Mt 22, 2). Tiệc tùng thường kéo dài
trong bảy ngày (St 29, 27; Tl 14, 12) và thậm chí có thể kéo dài hai tuần (Tb
8, 20; 10, 7).
(Theo James W. Ermatinger)
--------
[1] Thật ra việc trao tiền cưới dưới một ý
nghĩa nào đó cũng cho thấy từ đây người vợ sẽ thuộc về người chồng nhưng tiền
cưới trong hôn nhân Do Thái khác với hình thức trao đổi phụ nữ như những món
hàng hay nô lệ vốn cho phép người trả tiền có thể sở hữu người phụ nữ làm nô lệ
hay bán cho người khác
[2] Những phong tục tương tự cũng phổ biến
nơi người Ả Rập gốc
[3] Tên một hòn đảo ở Ai Cập
http://dongten.net/noidung/10148