Vấn
nạn luân lý về phái tính. Bài 2.
TIẾNG NÓI CỦA GIÁO
HỘI VỀ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
Hội Thánh Công Giáo luôn khẳng định mình là Mẹ
và Thầy trong các vấn đề luân lý và nhân vị. Điều này cũng dễ hiểu, bởi không có tổ
chức, định chế nào có thể có một truyền thống lâu đời và vững
mạnh hơn tổ chức của Hội Thánh. Hơn nữa, Hội Thánh không nói
tiếng nói của riêng mình nhằm có lợi cho tổ chức của mình theo từng
thời gian, hoặc để đáp lại một áp lực từ một thế lực hoặc ưu đãi
cho một nhóm người nào. Tiếng nói của Hội Thánh là tiếng nói nhất
quán vì đến từ Chúa và nhằm bảo vệ lâu đài luân lý của nhân loại.
Các phương tiện truyền thông xã hội hôm nay tự nhận cho mình sứ mệnh
thay đổi thế giới khi làm ngược lại tất cả những gì Hội Thánh loan
báo và cổ võ. Họ rất tức bực khi không thể lay
chuyển thành trì này; khi Hội Thánh không hòa giọng với họ trong
“bài ca tiến bộ” của nhân loại.
1. Về giới tính: Trung
thành với mạc khải Thánh Kinh từ sách Sáng Thế 1,26
“Từ ban đầu Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ”, Giáo Hội
luôn cho rằng giới tính con người chỉ là hoặc nam hoặc nữ. Các biểu hiện khác về giới tính khác với hai giới tính
này là một rối loạn, chứ không phải là một sự tự nhiên. Vậy nên, Giáo Hội không cho phép giải phẫu chuyển giới,
nhưng cho phép giải phẩu để khắc phục tối đa các khiếm khuyết về
giới của mình. Có nghĩa là có thể giải phẫu
để có thể trở nên chính mình hơn về mặt giới tính.
Trong khi đó chủ thuyết về giới tính cho rằng: phái tính
(sex) nam hay nữ chỉ là một dữ kiện về pháp lý để con người ghi vào
trong hồ sơ Khai Sinh, nó không phải là dữ kiện sinh học. Đối với họ,
nam hay nữ chỉ có tính xã hội, nó được lịch sử đặt ra để giai cấp
đàn ông thống trị phụ nữ nên bây giờ cần gạt bỏ.
Họ loại bỏ vấn đề khác biệt giới tính thế
nào? Thưa “Thuyết về
giới phủ nhận sự khác biệt giới tính “tự nhiên” giữa nam và nữ. Họ phủ
nhận sự khác biệt sinh học đó và cho rằng sự khác biệt nam nữ chỉ là kết quả
của văn hoá, nó là một cấu trúc xã hội; nam và nữ chẳng qua chỉ là những vai
trò xã hội-văn hoá khác nhau mà xã hội tuỳ tiện đề ra, và do đó có thể phá đổ.
Thiên nhiên hay tự nhiên chẳng liên quan gì tới đây cả. Do đó, người ta cũng
bảo rằng không hề có xu hướng tự nhiên đẩy người nam và người nữ đến với nhau. Xu hướng này cũng chỉ lệ thuộc vào những điều kiện xã hội”.
Nhóm này chủ trương rằng quyết định giới tính của mình
hoàn toàn tự do thuộc về chọn lựa của cá nhân. Mình nhận biết căn
tính giới tính của mình qua xu hướng tính dục của bản thân–ví dụ đồng
tính, khác tính hay lưỡng tính–. Không có quy chiếu khách
quan nào làm chuẩn mực cả. Không ai có quyền nói người nào đó là
nam hay nữ hay giới gì cả. Điều đó tùy vào quyết định của chủ thể;
Đối với họ, hôn nhân là sự kết hợp của hai người theo sở thích tính
dục riêng, chứ không phải kết hợp của một nam một nữ để yêu thương
và duy trì nòi giống. Các chuẩn mực luân lý, quy tắc đạo đức xã
hội đều là dư thừa đối với người theo “thuyết
về giới tính”.
Tựu trung, lý thuyết này cho rằng khác biệt nam hay nữ chỉ
là do văn hóa xã hội. Đây là mô hình kiểu mẫu của cái gọi là tiến
bộ, là văn minh hiện đại: Không có chân lý khách quan, không có tiêu
chuẩn luân lý, không có điểm quy chiếu như Thiên Chúa hay thiên nhiên,
tự nhiên nữa, mà là và phải là theo chủ quan của cái “Tôi”.
2. Về đa thê: Đạo luật
đa thê của
Có ý kiến cho rằng, chẳng phải chính Thánh Kinh
chấp nhận đa thê đó sao?
Đây là cách đọc và hiểu Thánh Kinh của một số
người mà nổi bật trong đó là ông Joseph Smith người sáng lập đạo
Mormon, hay còn gọi là “Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau”. Ông ta luôn khư khư cuốn Thánh Kinh bên mình
và đồng thời có đến 34 vợ, thậm chí có tài liệu cho rằng 76 vợ
(!). Trong số đó có tới 11 bà chỉ từ 14 – 20 tuổi; có những
bà là chị em ruột, là hai mẹ con; có bà là cháu ruột, là em dâu
của giáo chủ này. Vâng cũng chỉ vì theo ông, sách Sáng Thế đã đề
cập đến Abraham, Giacop, vv... có nhiều vợ (x. St 4,19;
16,1-4; 29,18-30,24). Ông không biết hay vô ý bỏ quên chi tiết “tự ban
đầu Thiên Chúa sáng tạo một người nam và một người nữ”, và Chúa
Giêsu đã đến để kiện toàn lề luật (Ga 18,28),
về vấn đề hôn nhân một vợ một chồng mà Ngài đã nói rõ trong Phúc
Âm Mt 19, 4-5.
Về hôn nhân giữa những người đồng tính. Giáo Hội luôn nhất quán: hôn nhân là sự kết hợp của một
nam và một nữ, với mục đích là thiện hảo cho đôi vợ chồng và
truyền sinh. Hai mục đích này luôn song hành, nên Giáo Hội không thể
nhìn nhận Hôn Nhân Đồng Giới. Hơn nữa, bởi nhận thức rằng, những
người LGBT tự bản chất là những bất thường về tâm sinh thể lý, bất
thường của tự nhiên nên Giáo Hội không bao giờ phổ quát hóa các vấn
đề cá biệt bằng đạo luật. Sự khôn ngoan dạy ta không bao giờ nên phổ
quát hóa vấn đề cá biệt bằng một luật chung.
Chính vì thái độ trên mà Hội Thánh bị xuyên tạc
là kỳ thị người đồng tính. Trong khi đó, Hội Thánh vẫn là tổ chức lớn nhất, quy mô
nhất và quy củ nhất để chăm sóc và yêu thương những người LGBT.
Ngay cả trong Giáo Lý, Hội Thánh khẳng định rằng “Ðừng quên một số
người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Ðối với
đa số trong họ, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị,
tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý
Chúa trong cuộc sống và, nếu là Kitô hữu, họ nên kết hợp các khó khăn gặp phải
do hoàn cảnh đặc biệt của mình với hy tế thập giá của Chúa” (GLHTCG 2358). Như vậy là rõ ràng, dù rất yêu thương người có khuynh
hướng đồng tính luyến ái, Hội Thánh mời gọi họ cũng như mời gọi
tất cả mọi người khác, phải sống trong sạch.
KẾT LUẬN:
a. Vấn đề giới tính hiện nay hết sức phức tạp vì tạo ra
các ý niệm mới và được công nhận, được cổ võ. Hệ lụy của các giá
trị mới đến từ ý niệm đó là: Các định chế khác nhau về hôn nhân
gia đình, chẳng hạn đa thê, đa phu, hôn nhân đồng giới vv... Người không rõ giới tính của mình, cũng như người có
khuynh hướng tính dục đồng giới là điều trái tự nhiên. Và họ cần biết đó là điều bất thường. Sống căn
tính giới tính của mình sẽ làm cho chúng ta trở thành những con
người nam nữ đích thực. Bình đẳng nam nữ không có nghĩa là cào bằng
ai cũng như ai, nhưng chính là sống đúng với giới tính của mình, trở
thành những người nam bản lĩnh và những người nữ dễ thương.
b. Người đồng tính là người rất nhạy cảm. Khi nói về vấn
đề này hãy hết sức thận trọng và nói đúng chỗ. Đức Phanxicô, trong
cuộc trả lời phỏng vấn tạp chí của Dòng Tên, công bố vào ngày 19 tháng 09 năm
2013: “Chúng ta không thể cứ nhấn mạnh đến những vấn đề liên quan tới phá thai, hôn nhân đồng giới và việc sử dụng các biện pháp ngừa
thai. Không thể như thế được. Tôi đã
không nói nhiều về những chuyện này, và người ta đã trách cứ tôi về điều đó.
Nhưng khi chúng ta nói về những vấn đề này, chúng ta phải nói
về chúng trong một bối cảnh chính xác”.
c. Người đồng tính luôn cảm thấy mình bị lạc loài. Họ
mặc cảm bị bỏ rơi và vì thế họ cần đến nhau. Họ
cần được tôn trọng và được yêu thương. Tuy vậy, quan tâm đến họ,
chăm sóc mục vụ cho họ không đồng nghĩa với việc chấp nhận những
hành vi luân lý tự bản chất là sai trái, là thác loạn. Hãy giúp họ
nhận ra vấn đề của họ để có thể xoa dịu các xung động nội tâm, để
họ sống hòa nhập và làm phong phú cộng đồng. “Những
người đồng tính luyến ái được kêu gọi sống đức khiết tịnh. Nhờ các nhân
đức giúp tự chủ dạy cho biết sự tự do nội tâm, và có khi nhờ sự nâng đỡ của
tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện, ân sủng,
bí tích, chính họ có thể và phải dần dần và cương quyết tiến đến sự trọn hảo
Kitô giáo.” (GLHTCG số 2359).