CÁC BÍ QUYẾT CỦA MỘT HÔN NHÂN HẠNH
PHÚC
02
– BÍ QUYẾT NHIỆM TÍCH
Tác
giả: Dr. Allen Hunt
Chuyển
ngữ: Louis Tuấn
Trích
từ: “The 21
Undeniable Secrets of Marriage”
WHĐ (18.1.2021) – Thiên
Chúa tỏ hiện trong lời thề hứa. Mọi ngày.
Hôn
nhân là một huyền nhiệm. Có điều gì đó tồn hữu trong hôn nhân sâu xa hơn nữa
chứ không chỉ là bốn mắt nhìn nhau.
Chỉ một
từ mô tả được điều ấy, là huyền nhiệm (mystery). Có từ ngữ nào
mô tả được thực tại hai con người hòa nhập thành một, hai cuộc đời kết nối với
nhau thành một không? Mỗi cuộc hôn nhân mang lấy một cuộc sống duy nhất và mọi
sự trong cuộc sống của hai người phối ngẫu hoàn toàn chỉ cho mối quan hệ đó. Đó
là một huyền nhiệm. Và đó là huyền nhiệm của bí tích.
Một “sự
kết hợp huyền nghiệm” (“mystical union”) có lẽ là cách nói
tốt nhất mô tả một cuộc hôn nhân lành mạnh. Nhưng “kết hợp huyền nghiệm” không
phải là từ ngữ thông dụng chúng ta dùng hằng ngày.
Tuy
nhiên, Thiên Chúa muốn kết hợp trong huyền nhiệm với bạn, kết hiệp giữa các
ngôi vị trong tinh thần. Bạn hãy cố nghĩ đến chuyện ấy. Thánh Kinh là một câu
chuyện tình yêu. Thật vậy, từ đầu đến cuối Thánh Kinh là một chuyện hôn phối.
Khởi đầu với câu chuyện tạo dựng Ađam và Evà, hôn phu và hôn thê đầu tiên,
trong Sáng thế. Thánh Kinh đạt đến đỉnh cao và kết thúc ở Khải huyền, với thị
kiến về lễ cưới vinh hiển của Con Chiên. Ở lễ cưới thiên quốc ấy, mọi người dân
trung tín của Thiên Chúa sẽ được kết hiệp với Ngài một lần dứt khoát, và mãi
mãi. Sách Thánh cho chúng ta thấy ước muốn sau cùng của Thiên Chúa là kết hôn
với chúng ta. Chúng ta là dân yêu quí của Ngài. Chúng ta sẽ là Hiền thê của
Ngài. Đó là một sự kết hợp huyền nghiệm.
Thiên
Chúa kết hợp một đôi bạn trong hôn nhân giống như Ngài kết hợp bạn và tôi trong
chính Ngài vào ngày cánh chung đó. Cuộc hôn nhân thế gian này của bạn bây giờ
là một nhiệm tích vì nó chỉ đến cái viễn tượng cánh chung đó của Khải huyền,
khi chúng ta sẽ được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa. Các bí tích, như Rửa tội,
Thánh Thể, Thêm sức, và Hôn phối, tất cả là dấu chỉ bề ngoài của thực tại Thiên
Chúa đang làm bên trong chúng ta. Trong hôn nhân, Ngài kết hợp hai con người
lại với nhau một cách thiêng liêng, giống như Ngài sẽ đích thân làm với mỗi
người chúng ta tại lễ cưới cánh chung.
“Và tôi
thấy Thành thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn
sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang”. (Kh
21,2).
Hôn phu
và hôn thê bây giờ giống như khi ấy sẽ là Thiên Chúa và Hội Thánh Người. Một
huyền nhiệm.
Huyền
nhiệm ấy là huyền nhiệm của bí tích. Hai cuộc đời thực sự trở thành một. Người
chồng và người vợ kết hợp với nhau, cả trong thể xác, tình cảm và linh hồn,
trong mọi thể thức. Chồng và vợ cùng chung sống, cùng nhau tạo lập một cuộc
sống trong tư cách một đôi, và họ có tiềm tàng khả năng là đối tác giao ước với
Thiên Chúa để tạo dựng sự sống mới qua con cái. Vợ chồng sẽ vui hưởng hạnh phúc
cùng nhau, chịu khổ chịu cực cùng nhau, và luôn giúp nhau cho đến khi răng long
tóc bạc. Đời sống và kinh nghiệm của họ sẽ trở thành một kết hợp huyền nghiệm,
một bí tích. Hãy nhớ lời của thánh Gioan Thánh Giá: Mục đích của Thiên Chúa là
muốn làm cho linh hồn bạn nên vĩ đại. Các bí tích đều có ý hướng như thế. Nói
cách khác, Chúa Thánh Thần ước muốn dùng cuộc hôn nhân của bạn để chia sẻ ân
sủng vô hình và sự thánh thiện bên trong cho linh hồn bạn. Đó là sự hoạt động
của một bí tích.
Bạn
nghĩ xem bạn đã thường nghe như thế nào, người ta nói li dị như là một cái
chết. Bởi hôn nhân không giống như mọi mối quan hệ khác. Nó không chỉ là một
cuộc sống chung; cũng không phải là một hợp đồng, một thỏa ước. Hôn nhân cung
cấp cho ta một cái gì sâu xa hơn và mầu nhiệm hơn nhiều: đó là vì nó là huyền
nhiệm bí tích.
R. và
M. lấy nhau và cùng phục vụ trong môi trường giáo dục được vài mươi năm. Hai vợ
chồng được mọi người quí mến bởi khả năng giảng dạy và lãnh đạo tuyệt vời của
họ. R. trở thành chủ tịch của một trường cao đẳng và phục vụ trong nhiệm vụ ấy
hơn hai mươi năm. Anh và M. có nhiều bạn hữu khắp nơi trên thế giới và nhiều
người phải ganh tị khi thấy đôi bạn này sống say mê và có lí tưởng cuộc đời và
niềm tin của họ.
Khi hai
người đến độ tuổi ngũ tuần, một ngày nọ, trong khi kể chuyện về một sự kiện ở
Florida, M. kể lặp lại lần nữa cùng một câu chuyện chỉ trong vòng sau đó có 5
phút. R. nhận thấy hơi kì lạ. Xưa nay chưa hề có chuyện ấy. M. chỉ mới có 55
tuổi thôi.
Việc
lặp đi lặp lại trong khi M. phát biểu giữa công chúng bắt đầu thấy xảy ra
thường xuyên hơn, nhưng chưa đến mức làm R. quá lo lắng. Mãi đến ba năm sau,
khi M. bị đau và đi khám tim ở bệnh viện, bác sĩ mới báo tin chấn động: cô ta
mắc bệnh Alzheimer. Và như thế có nghĩa là sẽ bắt đầu một quá trình M. từ từ bị
tổn thất và hao mòn dần sự tinh anh sắc sảo cùng những tài năng đặc biệt của
cô.
Tuy
nhiên, cô vẫn còn nhận việc nói chuyện với công chúng và tham gia giảng dạy. Cô
vẫn có những lúc, trong một vài khung cảnh nào đó, nói lặp sự kiện, rồi quên
(không biết) mình đang ở đâu trong những lúc khác, và nói không mạch lạc trước
mặt mọi người, về nhà cô cảm thấy kiệt quệ, buồn tủi vì đã không còn làm tốt
được như xưa nữa. Bệnh Alzheimer ngày càng phát trầm trọng hơn, từ từ như dòng
băng giá tan chảy lẻn dần vào trí óc và linh hồn cô.
Chẳng
bao lâu R. cảm thấy sợ để mặc M. ở một mình, nên từ đó họ đi đâu cũng có nhau.
Bất cứ ở đâu họ đến, nếu anh chỉ rời mắt khỏi nàng chỉ một chốc lát cô liền đi
lạc. M. đang vuột khỏi tay anh, cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Người
làm giúp việc nhà cũng rời bỏ càng khiến nhiệm vụ chăm sóc M. thêm nặng nề.
R. lúc
nào cũng phải đi bên cạnh nàng, chẳng bao lâu làm anh quá tải. Một lần hai người
đi Atlanta, chuyến bay bị hoãn lại hai tiếng đồng hồ. Trong khi đợi ở phi
trường, M. cứ hỏi đi hỏi lại một chuyện gì đó. Cứ khoảng mỗi 5 phút M. lại rảo
bước đi loanh quanh không mục đích dọc ngang sân ga phi trường mênh mông. R.
phải hối hả đi theo mới bắt kịp nàng. Một lần sau vô số những cuộc đi bộ rượt
đuổi bở hơi tai như thế, một chị nhân viên ngồi ở băng ghế đối diện mới thốt
lên với một người bạn, “giá mà tôi cũng sẽ gặp được một người đàn ông yêu
thương tôi như thế!”.
Rốt
cuộc sự căng thẳng đến mức giới hạn của nó. R. phải xin từ nhiệm chức chủ tịch
hội đồng trường cao đẳng đang lúc rất thịnh phát. Ban quản trị trường rất ngạc
nhiên trước quyết định từ bỏ vị trí lãnh đạo ấy của anh. Họ sẵn sàng trả chi
phí chăm sóc M. toàn thời gian để cho R. có thể tiếp tục công việc của anh. Bạn
bè khuyên R. chỉ cần đưa vợ vào nhà an dưỡng để anh có thể “rảnh tay tiếp tục”
nhiệm vụ.
R. bình
thản nhưng kiên quyết từ chối ý kiến đề nghị của ban quản trị. Anh nhẹ nhàng
nhắc lại lời thề hứa của anh trước mặt Chúa bốn mươi hai năm trước: Khi
ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe để yêu thương và tôn trọng M. mọi ngày suốt đời
anh.
Thế là
anh từ nhiệm và chăm sóc M., người bạn đời thiêng liêng của anh, toàn thời
gian. Trong bức thư xin từ nhiệm anh viết: “Có nghĩa vụ, có công bằng, chính
trực, nhưng ở đây còn có điều gì lớn lao hơn nữa, đó là tôi yêu M. Cô ấy là
niềm vui của tôi… Tôi không buộc phải, nhưng tôi được cơ hội
chăm sóc cô ấy! Một vinh dự lớn để được chăm sóc một con người tuyệt vời như
thế”.
Năm
tháng trôi qua, bệnh Alzheimer lần hồi khóa chặt dần con người của M., thì cũng
đồng thời khép từng phần con người của R. lại. Sau cùng, M. không còn nhận biết
được R. là ai nữa. Nhưng thật trớ trêu, bệnh tình M. càng xấu đi, R. càng yêu
thương nàng sâu sắc hơn, dòng yêu thương thấm rỉ ra từ mọi ngóc ngách linh hồn
anh.
Vâng,
quả thật anh có mất kiên nhẫn. Vâng, quả là anh thấy cô đơn. Vâng, quả là anh
có cảm thấy thất vọng. Thế nhưng, còn có cái gì đó mạnh mẽ hơn, sâu thẳm, lớn
lao hơn chống đỡ anh.
Anh tựa
nương vào gia đình và bạn bè. Anh cậy dựa vào những kỉ niệm đẹp, bình yên mà
anh và M. đã xây dựng bao năm qua. Nhất là anh kín múc giải khát được từ nguồn
tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa.
Sau một
đời yêu mến và phụng sự Chúa, R. học biết ca tụng Ngài trong cả những ngày đen
tối nhất và không còn hi vọng gì. Lời ca tụng đã đem lại bình an khuây khỏa cho
linh hồn mệt mỏi nặng nề của anh.
Như thế
đó, dẫu không còn giao tiếp bình thường được nữa, sau hai mươi lăm năm M. trôi
tuột dần cho đến ngày qua đời ở tuổi tám mươi mốt, R. vẫn ở đó bên cạnh vợ.
Lòng thương yêu vợ của anh được tình yêu Chúa ấp ủ hai người, nuôi dưỡng.
Dĩ
nhiên, rất nhiều người không hiểu được ý nghĩa của bí quyết của nhiệm tích này.
Một nghiên cứu thực tế đã cho ta thấy rằng khi rơi vào tình cảnh bệnh nan y,
bảy trên mười cặp tan vỡ. Căng thẳng làm người ta quá sức chịu đựng. Đáng tiếc
thay, thường là người chồng lìa bỏ chính vào cái lúc người bạn đời cần ông
nhất. Trong phần nhiều hoàn cảnh đó, người chồng bỏ rơi vợ vì ông nhận hiểu hôn
nhân một cách sai lầm ích kỉ. Hôn nhân, theo ông, là cái gì đó chỉ liên hệ đến
ông và như ông mong muốn, hơn là một huyền nhiệm của bí tích.
Các bạn
tránh bi kịch ấy như thế nào? Bằng cách hãy ôm lấy huyền nhiệm bí tích hơn là
chùn bước trước gian nan. R. hiểu rằng anh giúp M. lên trời bằng việc yêu
thương nàng và giúp nàng hoàn tất cuộc hành trình trần gian tốt nhất. Anh cũng
khám phá ra rằng phục vụ M. đau bệnh như thế là làm cho anh thành con người tốt
hơn. Linh hồn anh dần lớn lao lên khi mỗi ngày qua đi. Khi phục vụ nàng, R. tìm
thấy được cơ hội để triển nở nên dịu dàng hơn, nhân hậu hơn, và quảng đại hơn.
Phát triển như thế cho anh kinh nghiệm yêu mến trong cuộc đời này và tình yêu
Thiên Chúa ở một mức độ anh chưa bao giờ khám phá được bằng cách nào khác.
Có dễ
làm như thế không? Hẳn là không. Điều đó có đáng cho ta tìm kiếm không? Chắc
chắn như thế rồi. Khi tình yêu trở nên sâu sắc và nở hoa tươi thắm, nó tuyệt
đẹp để cho người ta ngắm nhìn tán thưởng.
Khi một
cặp vợ chồng thực sự khám phá rằng họ đang sống một huyền nhiệm bí tích, thì sự
khám phá đó sẽ biến đổi mối quan hệ của họ. Họ bước ngay vào một mức độ mới mẻ,
sâu xa hơn, phong phú hơn. Thiên Chúa đang hoạt động trong họ và qua họ. Họ
không chỉ là đối tác phối ngẫu của nhau; họ còn là đối tác của Thiên Chúa nữa.
R. và
M. đã ôm lấy huyền nhiệm bí tích không chỉ vào ngày cưới, nhưng mỗi ngày trong
cuộc hôn nhân của họ như Thiên Chúa đã tỏ hiện nơi lời thề hứa của họ.
Khi tôi
nghe câu chuyện thật ý nghĩa này, tôi nhận ra rằng không phải ai cũng sống câu
ngạn ngữ “Nếu bạn cảm thấy điều ấy tốt đẹp, hãy làm đi”. Đơn giản là có cái gì
đó còn đẹp hơn là việc bạn có cả khối tri thức phức tạp. Trong cuộc sống có một
số việc gì đó còn quan trọng hơn làm được những gì bạn muốn và chỉ biết tìm vui
thú.
Trong
tất cả, yêu thương là từ ngữ đẹp nhất. Không phải bất cứ loại
tình yêu nào, nhưng là tình yêu nhân hậu, tình yêu biết hi sinh, cho đi, xem
người bạn trọng hơn mình, như Chúa Giêsu đã yêu và vẫn còn yêu thương chúng ta.
Tình yêu hóa thân trên thập giá, tình yêu tự hiến.
Trong
một thế giới điên cuồng đi tìm thực hiện chính bản thân, Thiên Chúa cho ta thấy
còn có cái gì hơn nữa.
Nhưng
tôi sẽ cho bạn thấy một cách thức tuyệt diệu hơn.
“Giả
như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa,
mà không có đức mến, thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí
nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà
không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ
nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến,
thì cũng chẳng ích gì cho tôi.
Đức mến
thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không
làm điều khiếm nhã, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến dung
thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.
Đức mến
không bao giờ mất được….
Hiện
nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức
mến”. (1Cr 12,31tt).
Đức mến
chính là tình yêu thương quảng đại biết hi sinh. Tình yêu triển nở, chín muồi
theo thời gian. Tình yêu của con người phản ánh tình yêu sống động của Thiên
Chúa trong các mối quan hệ. Đó là huyền nhiệm bí tích, hay bí quyết của
nhiệm tích.