Bí
Tích Hôn Phối
(Phần 2)
Vũ Hồng
“Sự gì Thiên Chúa kết hợp
người ta chớ có phân ly”. (Mt 19:6)
Bí tích Hôn Phối
Bí tích là một sự kết hợp giữa Thiên Chúa và loài người,
nói rõ hơn, giữa Chúa Giêsu và người chịu Bítích.
Lời Chúa Giêsu hứa với hội thánh qua các tông đồ khi về
trời: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế", hôm nay đã
nên trọn nhờ Bí tích. Vậy có thể nói: Bí tích là sự ở lại của Chúa Kitô Giêsu
với hội thánh và trong từng tín hữu.
Sự kết hợp linh thiêng và thắm thiết này khởi đầu bằng Bí
tích Rửa Tội. Qua Bí tích đó tín hữu được trở nên thân mình của Chúa Giêsu, rồi
sau mới có khả năng lãnh nhận hồng ân Bí tích khác.
Bí tích Hôn phối là sự "Thiên Chúa kết hợp."
Việc kết hợp thánh thiêng này là Chúa Giêsu làm cho hai người nam nữ trong hôn
nhân nên một với nhau và với Ngài, bằng tình yêu của Trái Tim chảy máu nơi Thập
giá. Thần Khí Chúa Giêsu phục sinh sẽ bảo vệ tình yêu của hai người trước sự
tội và sự dữ, để họ sống hạnh phúc với nhau mọi ngày đời, không thể phân ly.
Tình yêu ấy mạnh đến độ dù mẹ chồng nàng dâu, dù phong tục tập quán, dù giặc
giã tù đầy, dù đau khổ bệnh tật, cũng không thể làm cho họ phân ra. Mà cho dù
họ có bị những bạo lực bắt buộc phải chia cách, họ vẫn là vợ chồng gắn bó thủy
chung với nhau ở trong Chúa suốt đời. (Rm 8: 35-38).
"Sự gì Thiên Chúa kết hợp người ta chớ có phân
ly." Câu này không chỉ cắt nghĩa đơn giản theo luật buộc đôi nam nữ đã lấy
nhau thì phải sống chung suốt đời, nếu bỏ nhau thì có tội trọng. Như vậy là đã
cột hai người với nhau chung một cái còng, còn gì là hạnh phúc hôn nhân gia
đình? Không phải như thế, vì Ðức Giêsu nói: "Ách của Ta thì êm ái, gánh
của Ta lại nhẹ nhàng."
Sự "Chúa kết hợp người đời không được phân ly",
là lời khuyến cáo 2 vợ chồng cũng như cha mẹ của hai bên.
Về phía bậc làm cha mẹ, vì Chúa đã kết hợp con cái họ nên
vợ chồng bằng một tình yêu tự do, có ý thức, và chân thành. Cha mẹ họ hàng phải
bồi đắp và câù nguyện cho con cái mình, đừng có làm trở ngại cuộc hôn nhân của
họ. Xúc siểm, đun đẩy cho vợ chồng bất hoà chia rẽ nhau. Tội này nặng lắm.
Còn về phía hai vợ chồng lúc đã nên một với nhau qua
Bitích, thì đã thành xương thịt của nhau trong một thân mình (Kn 2: 23), thì
phải để Chúa Kitô làm chủ, điều khiển cuộc sống hai người hồn cũng như xác: Từ
cuộc sống gối chăn, đến cuộc sống đời thường. Từ công ăn việc làm, đến sinh
dưỡng con cái v.v. Gặp khó khăn thì để Chúa Giêsu giải quyết bằng kiên trì cầu
nguyện và Bitích, rồi cứ yên tâm bỏ ngỏ cho Ngài. Hai người cứ ở lại trong
Chúa, thì hạnh phúc tươi vui. Nều bên nào, phần thịt xương nào tự ý phân ra,
thì bên ấy, phần ấy sẽ chết, giống cành nho rời khỏi cây nho, sẽ héo khô đi
thành củi.
Bởi vì khi hai người kết hợp nhau bằng Bí tích hôn nhân,
thì Chúa Giêsu sẽ xin Cha cho họ được nên một với nhau trong thân mình của
Ngài: "Ðể tất cả chúng nên một, cũng như lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta." (xem Yn 17: 21 & Ep 5:
32).Cùng lúc ấy , cả hai được Thiên Chúa ban một tình yêu mạnh hơn sự chết ấy,
nên họ có đủ sức mạnh chống trả tội lỗi, và vượt qua những gian nan thử thách
như bệnh hoạn, đói nghèo, tuổi tác, để sẽ yêu nhau cho đến hết đời.
Từ chân lý này, mà hội thánh rất ngại làm phép chuẩn cho
những đôi Nữ hoặc Nam đã chịu phép Rửa kết hôn với Nữ hoặc Nam chưa chịu phép
Rửa. Vì cho dù họ có được phép chuẩn, thì chỉ một người đã Rửa tội được thông
chia sự sống hạnh phúc của Chúa, người kia, vì chưa là thân mình của Chúa
Giêsu, nên không nhận được, cuộc đời hôn phối sẽ gặp nhiều khó khăn về mặt tâm
linh. Nhất là khi đã có con cái, cuộc sống vợ chồng rất dễ xảy ra: Ðồng Sàng Dị
Mộng.
Và mặt khác nữa, hội thánh khi nhìn ra có những đôi hôn
nhân công giáo, tuy đã chịu Bí tích nhưng trước mặt Chúa, sự thật đã không được
Ngài liên kết họ với nhau, nên họ vẫn không là một thân mình với nhau trong
Chúa Kitô, mà chỉ là sự kết hợp theo xác thịt. Những đôi này, hội thánh có thể
giải hôn ước bítích cho họ.
Chính vì như đã nói trên, trong sứ mạng làm Mẹ và làm
Thầy, đối với con cái mình đang sống giữa trần gian, Hội thánh đã ra những luật
lệ cụ thể như kim chỉ nam, để chỉ dẫn cho những đôi nam nữ sắp hoặc đã bước vào
cuộc sống hôn nhân, nhờ đó họ có thể biết thế nào là một hôn nhân thành hay
không thành Bí tích.
Xin ghi một ít điều khoản của luật hôn phối, trích trong
bộ giáo luật Codex Juris Canonici, (Code of Canon Law) gồm 1752 điều.
Trong Kitô Giáo, Bítích hôn nhân và Khế ước hôn nhân chỉ
là một (1055,2). Qua khế ước này, hai người nam nữ có quyền trên thân xác nhau.
(1057,2). Do đó, cũng đòi hỏi một số điều kiện như sau:
Hôn nhân đã là một khế ước, thì cần được bảo vệ khế ước ấy
bằng luật pháp. Giáo luật đã dành 111
khoản cho hôn nhân (1055-1165), và 37 khoản liên quan đến tố tụng hôn nhân.
(1671-1707).
Vì là luật của Hội thánh nên chỉ bắt buộc và có giá trị
đối với các tín hữu, những người đã chịu Bítích Rửa tội. Chính vì lẽ ấy, nên
trong nghi thức hôn phối khi hai người nam nữ làm Bítích cho nhau, phải cử hành
chính thức trước mặt vị đại diện hội thánh, cùng với 2 người làm chứng.
Hội thánh đã có những qui định rõ rệt về thành sự, hay vô
hiệu của Hôn nhân, có nghĩa là, những gì thuộc về luật Chúa, hội thánh không có
quyền thay đổi hoặc miễn chuẩn. Những gì do hội thánh quy định thì hội thánh có
quyền miễn chuẩn.