Lời Hứa Hôn Nhân
Vũ Hồng
Anh (em) nhận em làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ
lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh
hoạn cũng nhu lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt
đời anh (em).
Lời thề lời hứa của nhân gian
Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, khi muốn làm một điều
gì cho ai trong tương lai hoặc trong hiện tại, mà hoàn cảnh lúc đó không thể,
hoặc không thích hợp để làm, nên đã có lời hứa.
Trên cõi nhân gian này, sự hứa hẹn giữa cá nhân trong giao
dịch xã hội với nhau thì rất nhiều, nhưng giữ được lời hứa thì lại rất ít. Ðây
chỉ nói đến lời hứa đúng đắn, không nói đến lời hứa nhăng hứa cuội của những kẻ
cái gì cũng hứa, nhưng rồi không làm cái gì cả. Những kẻ họ Hứa này ở giai tầng
xã hội nào cũng có.
Không giữ được lời hứa, cái đó có thể do lỗi của chúng ta,
hứa rồi không làm. Cũng có thể do chúng ta muốn làm, nhưng đến lúc đó lại không
đủ sức, đủ tài, đủ tiền để làm, nên đành thất hứa.
Hứa mà giữ tròn được lời mình đã hứa thật khó vô cùng,
ngay cả đến một quốc gia đối với một quốc gia, lời hứa viết thành văn bản hiệp
ước, mà vẫn bội hứa như thường. Trường hợp này trong lịch sử Việtnam và thế
giới đã xảy ra rất nhiều.
Ðó là lời hứa của đời thường, nếu nói đến lời hứa của đời
tình thì lại càng thảm thương. Ngàn ngàn trái tim đã tan nát vì hứa. Hứa đủ
thứ, nhưng khi con ong đã tỏ đường đi lối về, hoặc gặp được một nhân tố khá
hơn, thì mất hút mất tăm không còn ngoái cổ lại. Vì thế, chúng ta thấy các bài
thơ bài hát về tình có bài nào vui đâu! Mười bài thì 9 bài rưỡi có nước mắt.
Những người ở thế hệ tiền chiến, không ai là không nghe những lời ray rứt trong
trong Hai Sắc Hoa Tygôn của TTKH: Tôi vẫn đi
bên cạnh cuộc đời. Ái ân lạt lẽo của chồng tôi. Rồi mùa thu chết, mùa thu chết.
Vẫn giữ trong tim một bóng người. Hoặc những lời ai oán của Nguyễn
Bính trong Lỡ Bước Sang Ngang: Người ta pháo
đỏ rượu nồng, mà trong lòng chị một vòng hoa tang. Hoặc: Ai đem nhuộm lá cho vàng, Nhuộm đời cho bạc cho nàng
phụ ta.
Và hôm nay không bạn trẻ yêu nhạc nào đã chẳng từng một
lần nghe lời than trách tình nhân trong Bảy Ngày Ðợi Mong của Trần thiện Thanh:
Anh hẹn em cuối tuần chờ anh nơi cuối phố.
Biết anh thích bầu trời, em đã bồi hồi chọn màu áo xanh. Chiều thứ bảy người
đi, sao bóng anh chẳng thấy. Rồi nhẹ đưa gót hài, chiều nghiêng bóng dài, áo em
dần phai. Sáng Chủ nhật trời trong, nhưng trong lòng dâng sóng, chẳng thấy bóng
anh sang . . .
Và còn tức tưởi hơn nữa, là những lời hận trong bản Tình
Phụ của Ðỗ Lễ:
Tuy anh đã phụ lòng em, đau thương anh
để lại, xót xa vô vàn . . . Những lời hẹn thề mà lòng tái tê. Thôi nhé anh! Còn
hận tình này, bao nhiêu đắng cay . . . cho em cô đơn mãi mãi mà thôi. . . .
Và còn rất nhiều, rất nhiều bài ca ai oán não nề
khác nữa. Thề hứa đó rồi nuốt lời đó.
Vì hứa dối thề gian qúa nhiều nên Việtnam ta có câu
mỉa mai: "Thề cá trê chui ống".
Tuy nhiên nhìn về mặt tích cực, lời thề hứa của chúng ta
lắm khi dù có thực tâm có chân thành đến mấy, cũng vẫn thấy nó vẫn cứ mong manh
làm sao!Vì chúng ta, con người trần thế không một ai làm chủ được tương lai của
mình. Tương lai của mỗi người đều nằm trong bàn tay một Ðấng nào đó. Chính vì
thế có người suốt đời rong ruổi cũng vẫn không thực hiện được lời của mình đã
thề hứa. Nhìn thấu sự hạn hẹp của khả năng con người, nên Ðức Giêsu đã nói:
"Anh em đã
nghe bảo người xưa: Anh chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Chúa. Còn Ta,
Ta bảo anh em. Ðừng thề thốt chi cả; Ðừng thề trời vì là ngai Thiên Chúa; Ðừng
thề đất, vì là bệ dưới chân người. Ðừng lấy đầu anh mà thề, vì anh không thể
làm cho một sợi tóc ra trắng hay đen được. Nhưng lời của anh em phải: Có, có!
Không, không! Còn ngoài ra là tự Ác tà mà ra cả." (Mt 5: 33-37)
Mưa chiều nắng sớm người ta bảo,
Cả đến ông Trời cũng đổi thay. (N.B.)
Trời đất còn đổi thay, huống hồ lòng người.
Vì cuộc sống có nhiều bất trắc, nên lời thề hứa của nhân
gian nó mong manh vô cùng, vậy thử hỏi lời thề hứa của đôi hôn nhân trong nhà
thờ, có gì vững chắc hơn? Và hôm nay thử hỏi những cặp vợ chồng đã ly thân ly
dị, xem họ có thấy khả năng lời thề ngày lễ cưới, có sức mạnh gì giữ họ lại với
nhau không?
Lời thề hứa hôn nhân trong lễ cưới, như ghi lại nơi đầu
bài trên đây, chúng ta thấy, chẳng có gì đậm đà hơn, tha thiết hơn, hoặc bảo
đảm hơn những lời thề hứa của đôi tình nhân bình thường, bởi vì nó cũng chỉ là
lời thốt ra từ miệng hai con người mà thôi. Có khi còn thấy khô khan nhạt nhẽo,
bởi vì nó đã trở thành công thức in vào giấy vào sách. Ðôi nào cũng phải cũng
phải đọc như thế. Có khác chăng là khung cảnh của lễ cưới. Nhưng cảnh đó chỉ
tăng thêm phần long trọng và làm vui lòng hai họ, chẳng có bảo đảm gì cho lời
hứa của hai người. Lễ xong, tiệc tàn, ai về nhà nấy. Việc của đôi hôn nhân, ai
để ý làm chi. Và như thế...
Tại sao phải có lời thề hứa trong
lễ cưới?
Tại sao phải
thề hứa trong lễ cưới? Thưa: bởi vì hôn nhân là một Bitich và cũng là một hôn
ước nên phải có lời thề hứa. Giáo luật số1055-2 cũng đã viết như thế. (Quare
inter baptizatos nequit matrimonialis contractus validus consistere, quin sit
ep ipso Sacramentum).
1- Hôn nhân là Bí tích. Ðã là Bí tích nói chung thì
không chỉ liên quan đến con người mà còn liên quan đến Thiên Chúa, và Chúa
Giêsu, chính ngài là Ðấng làm chủ. Riêng Bí tích hôn nhân lại có một tính đặc
thù, đó là hai người nam nữ làm Bí tích cho nhau, và khi họ ban Bí tích cho
nhau, Chúa Giêsu có mặt ở giữa họ và ở trong họ, Ngài tác thánh cho họ để thành
vợ chồng. Bí tích hôn nhân khác với các Bí tích khác, ví dụ Bí tích Giải tội,
tuy Chúa Giêsu tha tội cho người xưng thú, nhưng phải có linh mục nhân danh
Chúa Giêsu để nói lời tha tội. Còn Bí tích hôn nhân thì, khi đôi tân hôn trao
ban Bí tích cho nhau, linh mục không dính dự gì cả, chỉ chứng giám và chúc
lành. Mà Chúa Giêsu là Ðấng trực tiếp ban tình yêu của Ngài làm họ sẽ trở nên
một với nhau suốt đời với Ngài và trong Ngài.
Sự nên một này rất thánh thiêng. Một hôn nhân bình
thường, không Bí tích, hai người vẫn là vợ chồng thật sự suốt đời, nhưng dù có
chung giường chung gối, ban cho nhau trọn vẹn thân xác mình, họ cũng vẫn cứ là
hai, chưa nói đến sự đồng sàng dị mộng, hoặc khi gặp gian nan, vẫn rã rời tơi
tả, không thể nên một như cành liền cây, chim liền cánh. Chỉ có trong Thánh Tâm
Chúa Giêsu mới làm cho hôn nhân nên một với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc
gian nguy, khi tươi trẻ cũng như khi già yếu, cứ yêu mến nhau, tôn trọng nhau,
khăng khítnhau suốt đời. Bi tích là thế.
2- Hôn nhân là một Giao ước. Là giao ước, nên về
mặt pháp lý tự nhiên thì phải có lời hứa, có chữ ký, và có người làm chứng.Còn
về những kẻ tin đã chịu Bí tích Rửa tội, thì cuộc sống của họ như thánh Phaolô
nói: "Tôi sống nhưng không phải tôi, mà
là chính Ðức Kitô sống trong tôi." (Gal 2: 20). Hiển nhiên họ
đã được ơn nên một với Chuá Giêsu, thì khi thề hứa yêu nhau, họ không thề hứa
bằng trái tim hạn hẹp của họ mà bằng Trái tim Chúa Giêsu ở trong họ. Chính lúc
ấy Chúa Giêsu lấy tình yêu của Trái Tim Ngài bảo hiểm cho lời giao ước của họ
được bền vững suốt đời. Cho dù đời có lúc đổi thay, Trái Tim Chúa Giêsu lúc nào
cũng trung tín. (2Tm2:13). Ngài sẽ chữa lành họ trong mọi cơn sóng gió của gia
đình, để hạnh phúc của họ luôn tươi vui ấm áp. Chính vì mầu nhiệm này, (mầu
nhiệm ám chỉ về Ðức Kitô và hội thánh), mà lời thề hứa của đôi tân không còn là
một công thức nhạt nhẽo, hoặc suông miệng qua cầu gió bay, mà sẽ tồn tại vĩnh
hằng trong quyền năng Ðấng hằng có. Do đó câu: "Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly"
Không còn là một lời răn đe, một luật buộc dễ sợ, để dù có cay đắng trăm bề
cũng phải cắn răng chịu đựng nhau đến hết đời. Mà là một lời khuyến cáo đầy yêu
thương: "Hãy cứ ở lại trong tình yêu
của Trái tim Ta. Ta sẽ bảo đảm cho hai con, dù qua khó khăn nào, tuổi tác nào,
hai con vẫn được sống trong mật ngọt của Thiên Chúa trong Trái Tim Ta đến hết
đời." (xem Yn 15: 9tt).
Mầu nhiệm này người dạy Giáo lý Hôn nhân phải thấm nhuần
trước đã, phải cầu nguyện liên lỉ, và phải chỉ dẫn cho các đôi nam nữ, rồi cùng
với họ cầu nguyện suốt trong thời gian học giáo lý để được ơn chuẩn bị hôn nhân
ở trong Chúa Giêsu. Ðến khi họ làm Bí tích cho nhau, họ mới ý thức, sẵn sàng mở
lòng ra để đón nhận tình yêu của nhau trong tình yêu của Chúa Giêsu. Vì khi họ
tuyên đọc lời hứa và trao nhẫn cho nhau không phải nhân danh 2 người, mà là
nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần.