TÌNH YÊU KẾT TRÁI VÀ
TRÁCH NHIỆM
Bài thuyết trình của Ðức Thánh Cha
Gio-an Phao-lô II,
khi Ngài còn là Hồng Y KAROL WOJTYLA,
Tổng Giám Mục thành phố Cracow,
tại Ðại Hội Ðồng Quốc Tế ở Milan, Ý, vào tháng 6 năm 1978.
1. Kỷ niệm Năm Thứ 10.
Ðại Hội Ðồng này là dịp
để kỷ niệm năm thứ 10 sự xuất hiện của Thông Ðiệp Humanae Vitae ( Sự Sống Con
Người ) được Ðức Thánh Cha Phao-lô VI ban hành ngày 25 tháng Bẩy năm 1968.
Centro Internationale Studi Famiglia -C.I.S.F.- (Trung Tâm Quốc Tế Tìm Hiểu Ðời Sống Gia Ðình) mời chúng tôi
để cùng nhau tái thẩm định chủ đề chính yếu của thông điệp: Tình Yêu Kết Trái
và Trách Nhiệm. Chúng tôi thảo luận nó không những chỉ như một chủ đề của một
văn kiện của Giáo Hội, vang lên giáo huấn của giáo quyền tối cao, mà còn đồng thời
như một vấn nạn mục vụ, trong đó toàn thể Dân Thiên Chúa tham gia bằng nhiều
cách khác nhau. Ðiều này được nhấn mạnh cách rõ ràng trong phần thứ 3 và phần
cuối của Thông Ðiệp Humanae Vitae,
và cả ở thời điểm sơ khởi của Hiến Chế Gaudium
et Spes ( Vui Mừng và Hy Vọng ), Hiến Chế Mục Vụ của Công Ðồng
Vatican II. Văn kiện của Ðức Thánh Cha đã triển khai những đường hướng mục vụ cách mạch lạc, thúc đẩy các thế
quyền chung và các khoa học gia, trực diện với những ai liên quan trực tiếp đến
vấn đề - đó là: những cặp vợ chồng Ki-tô hữu và gia đình - và với cả những ai ,
một cách gián tiếp quan tâm đến trách niệm của bậc làm cha mẹ: như quí bác sĩ
và quí vị liên quan đến ngành y tế, và sau hết là quí cha sở, quí linh mục và
Giám mục của toàn thể Giáo Hội trong thế giới hôm nay.
Buổi hội họp của chúng ta
hôm nay, ở một mức nào đó, cũng là câu trả lời cho những thỉnh nguyện khác nhau
của Giáo Hội - của Ðức Thánh Cha Phao-lô VI, và của Công Ðồng Vatican II. Nó là
câu trả lời được đưa ra sau 10 năm, và cũng từ quan điểm của chính 10 năm đó,
10 năm của triển khai dọc theo những tiếng nói phản kháng và chống đối, là một
nỗ lực có phương pháp để đưa ra mức khả thể của việc tôn trọng thiên luật trong
cuộc sống lứa đôi đã được Ðức Thánh Cha Phao-lô VI nhấn mạnh rõ ràng trong
Thông Ðiệp Humanae Vitae # 20
. Nỗ lực này, được mổ xẻ
từ nhiều phía, tự nó là một luận cứ được đưa ra từ một phạm vi rộng lớn của
kinh nghiệm và nói lên trong việc bênh vực sự thật của tín lý chứa đựng trong
Thông Ðiệp Humanae Vitae và trong
giá trị căn bản của nó.
Trên hết, vì sự thật và
sự công chính liên quan đến chính vấn đề, cùng điều hợp sự hài hoà của tình yêu
vợ chồng và của sự tạo sinh, nên rất là thích hợp để chúng ta đặt trọng tâm vào
đề tài này trong buổi Ðại Hội này.
2. Thông Ðiệp Humanae Vitae và Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et
Spes.
Ðể được như thế, chúng ta
phải trở về chính nguồn gốc của nó. Rất nhiều người biết là Thông Ðiệp có liên
hệ mật thiết với Hiến Chế Mục Vụ của Công Ðồng Vatican II, trong đó đoạn thứ
nhất của phần thứ hai mang tựa đề: Nuôi
Dưỡng sự Thanh Cao của Hôn Nhân và Gia Ðình, nói đến một trong những
điểm chính là: Hài Hoà Tình Yêu Vợ Chồng với
việc Tôn Trọng Sự Sống Con Người ( GS # 51). Chúng ta cũng biết rằng
một số vấn đề trong lãnh vực này, những vấn đề cần được tìm hiểu và kiểm xét kỹ
lưỡng hơn nhiều, đã được trao cho Ủy Ban Ðặc Nhiệm ( Vấn Nạn Dân Số, Gia Ðình
và Di Giống ) mà Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thành lập năm 1963 và được Ðức
Phao-lô VI mở rộng thêm vào năm 1964. Ủy Ban này chỉ có tính cách tham vấn mà thôi;
quyết định tối hậu trên sự việc thì trực tiếp thuộc về Ðức Giáo Hoàng trên
cương vị giáo quyền cá biệt của Ngài. Ðó là lý do tại sao chúng ta không thể
tìm được trong văn bản của Hiến Chế Mục Vụ những giải đáp cụ thể, trong khi lại
rất cần thiết phải đối chiếu với văn bản ấy, bởi vì chính tác giả của Thông
Ðiệp đã làm như thế, - khi dùng đến hình thức văn kiện của quyền bính tối cao -
nhắc lại điều gì đã được chuẩn nhận mới đây trong việc này bởi Công Ðồng
Vatican II trong Hiến Chế Mục Vu Gaudium et
Spes( HV # 7 ).
Trong thực tế, việc giải thích của Gaudim et Spes về đề tài tình yêu
vợ chồng ( # 49) và rồi về hoa trái của hôn nhân ( #50 ) còn bao
quát hơn Thông Ðiệp Humanae Vitae nhiều. Nó còn có vẻ nặng phần phân tích hơn,
trong khi Thông Ðiệp nói về đề tài tình yêu vợ chồng một cách nặng về phần qui
nạp hơn. Hiến Chế Mục Vụ xử dụng phương pháp diễn tả, nhấn mạnh đến khía cạnh
Ki-tô luận và Bí-tích học của hôn nhân và phong phú hóa văn bản bằng nhiều câu
"trong ngoặc". Nó hàm chứa như là toàn thể ngành giáo dục và luân lý
Ki-tô giáo vậy. Việc giải thích của Humanae Vitae thì lại cô đọng hơn, mang
tính chất rất mực thần học và có hệ thống. Nó nhấn mạnh đến sự kiện là tình yêu
vợ chồng thì "bắt nguồn" từ "Thiên Chúa", Ðấng vừa là "Tình
Yêu" vừa là "Cha"; và sự kiện là " vì nhờ vào quà tặng hai
chiều đúng đắn và độc chiếm cho nhau, mà chồng và vợ hướng tới việc kết hợp bản
thể của mình dưới ánh nhìn tới sự hoàn thiện hỗ tương cá nhân, để cộng tác với
Thiên Chúa trong việc truyền sinh và giáo dục những mầm sống mới" ( #8 )
Thế nên Ðức Phao-lô VI đã
liệt kê ra những đặc tính của tình yêu vợ
chồng. "Tình yêu này trước hết phải là hoàn toàn nhân bản, trọn
vẹn, thủy chung và độc quyền, và đơm hoa kết trái". Mỗi đặc tính này đều
được diễn tả rất mạch lạc. Tình yêu là hoàn toàn nhân bản, do đó, "cùng
một lúc nó vừa mang cảm tính vừa thuộc tinh thần", được khởi động và hình
thành do một người nam và một người nữ không phải chỉ như "một chuyển vận
đơn thuần của bản năng và cảm tính", nhưng còn là "một hành động
chính yếu phát sinh từ ý chí tự do". Khi định nghĩa về sự trọn vẹn của
tình yêu vợ chồng, tác giả Humanae Vitae nhấn mạnh rằng "đó là dạng thức
rất đặc biệt của tình bạn cá nhân, trong đó chồng và vợ chia sẻ với nhau mọi sự
một cách vô cùng quảng đại, không chừa lại một chút quan ngại hoặc toan tính cá
nhân nào. Khi ai yêu người phối ngẫu của mình, thì không phải yêu chỉ vì những
gì mình nhận được mà còn yêu vì chính bản thể của người bạn đời nữa, người ấy
vui mừng vì rằng mình làm cho người bạn đời thêm phong phú bằng món quà là dâng
tặng chính bản thân mình". Sự trọn vẹn của tình yêu vợ chồng nếu được hiểu
như thế sẽ nối liền với phẩm chất tiếp theo: đó là "thủy chung và độc
chiếm đến chết. Ðiều này, trong thực tế, cô dâu và chú rể đã lĩnh hội trong ngày
mà họ tự do và ý thức chấp nhận trách nhiệm của ràng buộc hôn nhân". Và vị
tác giả của Humanae Vitae thêm rằng:." Lòng chung thủy , điều mà đôi khi
rất là khó khăn, nhưng luôn luôn là điều có thể ..vì không ai có thể chối từ.
Sự chung thủy không những chỉ phù hợp với bản tính của hôn nhân, nhưng nó còn
là cội nguồn của niềm hạnh phúc sâu xa và lâu bền" ( #9 ).
Một tình yêu như vậy,
tương ứng với món quà độc quyền chiếm giữ giữa hai con người đến tận cùng của
cuộc sống của họ, phải được quyền trở nên một tình yêu đơm hoa kết trái. Ðây là
đặc tính thứ tư, đặc tính chung cục làm ấn tín cho tất cả các đặc tính trên:
"Tình yêu này rất phì nhiêu vì nó không thể kiệt quệ do sự kết hợp vợ
chồng, nhưng như một định mệnh để tiếp nối, tạo dựng những cuộc đời mới".
Như chúng ta đã đọc trong Gaudium et Spes #
50 " con cái . món quà tuyệt đỉnh của hôn nhân và làm tăng phần
rất lớn lao vào mối an sinh của cha mẹ".
Như chúng ta thấy, hình
ảnh tổng hợp của tình yêu vợ chồng, trong đó những phẩm chất chính yếu được đề
cao và hệ thống hóa, hướng về việc đơm hoa kết trái như một tóm kết của sự kết
hợp giữa cá nhân mà Gaudium et Spes # 48 định nghĩa như là một "giao ước
hôn nhân". Nơi khác Gaudium et Spes còn nói rằng " vợ chồng, được tạo
dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, đồng thời vui hưởng phẩm giá đích
thực như những con người . từ những hoan lạc và những hy sinh do ơn gọi của
mình, và xuyên qua tình yêu đầy hoa trái của họ . trở thành nhân chứng cho mầu
nhiệm tình yêu mà Chúa đã mạc khải cho thế gian bằng cuộc tử nạn và bằng việc
Ngài trỗi dậy để sống lại ( # 52 ).
3. Tình Yêu và Trách Nhiệm.
Như thế Thông Ðiệp Humanae Vitae, thường xuyên trích dẫn Hiến
Chế Gaudium et Spes, là một tài
liệu đặc biệt, đưa ra giáo huấn của Giáo Hội hôm nay về tình yêu vợ chồng.
Trước khi đề cập đến chủ đề chính của tài liệu này, nói rõ ra là vấn đề trách
nhiệm của bậc làm cha mẹ, cũng cần nói sơ qua về chiều kích căn bản của trách
nhiệm mà người vợ và người chồng phải tự mình lãnh lấy, đó là, trách nhiệm đối
với chính tình yêu của mình. Bởi vì chính
tình yêu này, như những phẩm tính đặc thù trình bầy trong Humanae
Vitae nhắc nhớ chúng ta, là căn bản rất tốt
cho hôn nhân, cũng như nó là căn bản rất tốt cho bản chất con người
và cho cả nhân loại. Nó đã được chính Ðức Ki-tô mạc khải như thế, cùng với
nguyên nhân đích thục của nó phát sinh từ Thiên Chúa: "Thiên Chúa đã đổ
tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta
( Rom. 5:5 ). Sự tốt lành này, mà vợ chồng tham dự một cách chuyên biệt và đặc
thù, là đối tượng căn bản cho trách nhiệm của họ. Chỉ những ai đủ khả năng để
lãnh nhận một tình yêu trách nhiệm trong hôn nhân mới thấm nhuần được trách
hiệm sâu đậm của chính món quà tình yêu. Vì trên tất cả, tình yêu là quà tặng,
là dung lượng căn bản cho kinh nghiệm lần đầu cũng như mãi mãi về sau. Cho dù
mọi sự xem ra như xác định rằng tình yêu là điều gì "thuộc về thế
gian", nhưng nó thực sự được phát sinh từ trong tâm hồn cũng như thể xác,
như là kết quả của tri giác đầy cảm tính và sự hấp dẫn nhục thể, để tiến tới
chiều sâu bí ẩn của sự kiến tạo tình dục trong cảm giác sướng ngất tột cùng.
Tuy thế, xuyên qua tất cả và vượt trên tất cả những chuyện trên, tình yêu vẫn
là quà tặng nhưng không. Nó như món quà biếu tặng những người đang yêu, cho
phép họ tìm hiểu và chuẩn định lẫn nhau để phát triển cho tới lúc họ đạt được
mức điểm đã trưởng thành đủ, đồng thời phù hợp với điều mà Công Ðồng Vatican II
gọi là "giao ước hôn nhân", mà theo Thánh Phao-lô, thì đó là một
nhiệm tích cao cả, giống như tương quan giữa Ðức Ki-tô và Giáo Hội của Ngài (
xem Eph. 5: 32 ) .
Trách nhiệm về món quà
tình yêu này được diễn xuất trong ý thức trường tồn của việc chấp nhận món quà
ấy, nhưng đồng thời cũng phân biệt và trân quí những bổn phận kèm theo món quà
đó nữa. Trách nhiệm về tình yêu không phải là một ý niệm trừu tượng, nhưng được
liên kết với một tổng hợp của những giá trị, mà chỉ có tình yêu cho phép chúng
ta cảm nghiệm được đầy đủ. Những giá trị này đến với chúng ta vừa như là món
quà vừa như là bổn phận. Như thế, một nhãn quan mới về cuộc đời và sinh hoạt
được khai mở, hướng về việc thể hiện và thành toàn những giá trị này. Nếu như
chúng chỉ là tặng phẩm suông thì chúng không thể thành toàn được, nhưng chúng
chỉ vẫn ở trong trạng thái của một dự án tuyệt vời và hấp dẫn mà thôi. Ðời sống
phải chứng nghiệm được thực tại đầy đủ của nó. Vì thế, trách nhiệm về tình yêu
đã trở thành trách nhiệm trong cuộc sống. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể
nói rằng tình yêu tạo nên trách nhiệm, rằng tình yêu là cội nguồn đặc biệt của
trách nhiệm.
Giá trị chính yếu, mà mọi
giá trị khác của tình yêu dựa vào, là giá trị của con người nhân linh. Chính vì
con người nhân linh mà những giá trị này nhắm tới. Những văn bản của Công Ðồng
Vatican II xác định nhiều lần rằng, tình yêu theo nghĩa tổng quát và tình yêu vợ
chồng theo nghĩa đặc thù, bao gồm tặng phẩm của cá nhân mình lẫn cho nhau, tặng
phẩm thâu gồm toàn thể bản thể con người, cả hồn lẫn xác. Một tặng vật như thế giả định rằng, người này mang
lại được một giá trị đặc thù cá biệt cho người kia, điều mà có thể
nói cách chính xác là, qua mức độ và nồng độ của nó, tự nó diễn đạt ra trong
trách nhiệm đặc biệt cho giá trị ấy. Xuyên qua trách nhiệm được hiểu như thế,
thì một cấu trúc căn bản của hôn nhân, một ràng buộc tức thời cả tinh thần lẫn
đạo đức, đã được tạo thành. Ràng buộc này thâu gồm và thẩm thấu mọi sự, tạo nên
tài nguyên tinh thần và thể lý của nó, và mọi sự đã được ấn định trong nam tính
và nữ tính của những người kết hợp trong hôn nhân, giống như tặng dữ chuyên
biệt về tinh thần và thể chất của họ vậy. Ðiều này liên quan đến cả khối lượng
của nhiều tầng lớp giá trị, mà mỗi một giá trị lại theo đường hướng riêng của
mình mà đi vào trách nhiệm căn bản giữa người chồng và người vợ. Trách nhiệm về
tình yêu cũng còn là trách nhiệm cho con người với tất cả những gì là riêng tư
đối với họ. Trách nhiệm về tình yêu được thai nghén như thế sẽ tự nó lại trở
thành căn nguyên cho sự thăng tiến của tình yêu này, cả hai cùng xuôi trong một
dòng hiệp nhất bất khả phân ly giữa hai con người, và trong những chi tiết và hoàn
cảnh khác nhau được nảy sinh từ những cá nhân riêng lẻ cuả nam nhân hay nữ
giới, mà tất cả đối với họ thì thanh cao và mỹ miều, nhưng cũng khó khăn, xung
đột và nhiều khi còn là thảm trạng nữa.
Như chúng ta đã nói ở
trên, Hiến Chế Mục Vụ dùng cách diễn tả để liệt ke, có lẽ còn nhiều nguyên tố
giãi bầy và những giải thích tường tận chiều kích này của tình yêu và trách
nhiệm đối với tình yêu hơn nữa:
" Lời Chúa trong
Sách Thánh nhiều lần thúc giục những người đã đính hôn hoặc đã kết bạn để vun
bồi và thăng tiến hôn nhân của họ bằng một tình yêu vợ chồng tinh tuyền và bằng
một tình mến không thể phân chia. Nhiều người trong thời đại chúng ta cũng tôn
vinh tình yêu đích thực giữa vợ chồng như nó tự chứng tỏ qua nhiều dạng thức
khác nhau tùy thuộc vào những phong tục cao quí của các dân tộc và của từng
thời điểm. Tình yêu này là tình yêu rất nặng phần nhân bản vì nó được hướng
định từ một người sang người khác qua một cảm mến của ý chí tự do. Nó liên quan
đến sự tốt lành của toàn thể con người đó. Chính vì thế mà nó làm giầu thêm
những diễn đạt của thân xác và trí tuệ với một phẩm cách duy nhất, và thăng hoa
những diễn đạt này bằng những dữ liệu và dấu chỉ đặc biệt của tình bạn rất đặc
thù của hôn nhân. Tình yêu này được Chúa xét là xứng đáng được hưởng những ân
huệ đặc biệt, chữa lành, toàn thiện và những ân huệ cao vời của thánh sủng và
đức ái. Tình yêu như thế, hoà lẫn giữa nhân linh và thần linh, đưa dẫn vợ chồng
tới việc họ nhận được ân huệ tự do và tương giao cho chính bản thân mình, một
ân huệ tự chứng minh qua mối ái tình êm dịu và qua những hành động cụ thể. Thật
thế, qua những hành động bao dung, tình yêu đó phát triển mỗi ngày mỗi tốt đẹp
thêm lên. Vì thế, nó vượt qua giới hạn của hướng chiều nhục thể, là điều mà nếu
theo đuổi cách ích kỷ, sớm muộn gì cũng sẽ tàn theo đổ vỡ" ( # 49 ).
4. Trách Nhiệm của Bậc Làm Cha Mẹ.
Xem ra như là không thể
hiểu được trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, theo như Ðức Phao-lô VI đề cập đến
một cách rất điêu luyện trong Thông điệp Humanae
Vitae của Ngài, bằng bất cứ cách nào khác, nếu không hiểu bằng cách gắn liền trách nhiệm của bậc làm cha mẹ với trách
nhiệm đối với tình yêu vợ chồng. Như một hình thức luân lý tách
biệt, nguyên tắc về trách nhiệm của bậc làm cha mẹ thì vừa phải đúng thật vừa
phải xác tín, mặc dù được hiểu theo một cách trừu tượng. Tiềm lực ban phát sự
sống bất khả miễn trừ là cần thiết cho một nguyên tắc tạo nên đời sống của
những cá nhân cụ thể phát xuất từ tình yêu, một tình yêu trách nhiệm được hiểu
rõ và sống qua, trong cách thế mà chúng ta đã phác họa trên kia.
Chính vì thế mà tại sao
tác giả Humanae Vitae đã đặt việc
diễn tả chi tiết về trách nhiệm của bậc làm cha mẹ trên tính chất thần học của
tình yêu, và trên cả định đề về viễn ảnh toàn bộ của con người, một viễn ảnh
chỉ trở nên hoàn toàn vững chắc và cô đọng trong tình yêu và qua tình yêu. Nếu
tình yêu nêu rõ lên trách nhiệm đặc thù của người này đối với người kia, trong
mối liên hệ tương quan giữa người đàn ông và người đàn bà, thì từ trách nhiệm
này, cũng sẽ phát triển đời làm cha mẹ trong hình thái trách nhiệm như là vấn
đề đương nhiên.
".Trong khi không
làm cho những mục đích khác của bí tích hôn phối kém đi phần quan trọng, việc
thể hiện đích thực của tình yêu vợ chồng và, do từ tình yêu ấy, của toàn bộ ý
nghĩa cuộc sống gia đình, thì nhắm vào mục đích này là: một cặp vợ chồng với
đôi tim dũng cảm để cộng tác với tình yêu của Ðấng Tạo Thành và của Ðấng Cứu
Thế, mà qua họ, sẽ nới rộng ra và làm cho chính gia đình mình mỗi ngày mỗi
phong phú thêm lên" ( GS # 50 ).
Như thế, nếu chiếu theo
cùng một lý luận, lý luận của khoa học nhân bản, cũng như của niềm tin Ki-tô,
thì chúng ta chấp nhận trách nhiệm của bậc
làm cha mẹ như là một yếu tố, hoặc nói rõ hơn, như là một nguyên tố, tạo nên
trách nhiệm cho tình yêu đôi lứa theo hình thái và ý nghĩa vợ chồng.
Chúng ta còn đọc được thêm trong Hiến Chế Mục Vụ:
" Cha mẹ phải coi là
sứ mệnh riêng biệt của mình trong việc sang truyền đời sống con người và giáo
dục những kẻ mà họ đã truyền giống. Họ phải ý thức rằng họ là những cộng tác
viên với tình yêu Thiên Chúa, Ðấng Tạo Thành, và cũng có thể nói, họ là những
người đã chuyển đạt được tình yêu ấy. Vì thế, họ đã hoàn tất trách vụ của mình
qua trách nhiệm nhân sinh và Ki-tô của họ. Với lòng tôn kính ngoan hiền phục
tùng Thiên Chúa, họ sẽ đạt được một quyết định đúng, vì họ cùng chung nhau bàn
hỏi và cố gắng. Họ sẽ quan tâm cặn kẽ tới mối an sinh của cá nhân họ cũng như
của con cái họ, những con trẻ đã được sinh ra hoặc sẽ được sinh ra sau này. Vì
sự quan tâm này mà họ phải tính đến những điều kiện, cả về phần vật chất lẫn
tinh thần, hiện tại cũng như ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống. Sau
hết, họ phải bàn thảo về mối phúc lợi của gia tộc, của xã hội tạm thời và của
chính Giáo Hội nữa. Chính những người làm cha mẹ phải tự mình đưa cái quyết
định cuối cùng trong ánh sáng soi dẫn của Thiên Chúa" ( GS # 50 ).
Trong cách này, được khởi
sự bằng ý niệm về trách nhiệm của bậc làm cha mẹ - hình thức đặc thù và ý nghĩa
rất phùhợp với tình yêu vợ chồng - chúng ta tiến tới vấn đề cụ thể được nêu lên
dưới nhãn hiệu "trách nhiệm của bậc làm cha mẹ". Ðây là chuyện bất
khả miễn trừ, cả trên phương diện lý thuyết của khoa học và giáo dục, lẫn
phương diện áp dụng thực tế, để bảo toàn
được trong vấn đề này một lập trường vững chắc, bởi vì chỉ có sự
kiên trì mới cho phép chúng ta hiểu được nó cách đúng đắn, để nhận xét và giải
quyết vấn đề mà thôi. Ðây là chuyện kiên trì trong lập trường cũng như trong
chương trình hành động: trách nhiệm của bậc làm cha mẹ phát sinh từ tình yêu vợ
chồng, được thông suốt và nghiệm sinh với trách nhiệm, nghĩa là phù hợp với tất
cả sự thật nội tại của nó, trong việc thỏa mãn tri giác và ý nghĩa của tình yêu
ấy. Nếu được hiểu và nghiệm sinh như thế, thì trách nhiệm của bậc làm cha mẹ
cho phép người chồng và người vợ đặt thành vấn đề cách đúng đắn về mối trách
nhiệm của bậc làm cha mẹ ngay trong suy tư của họ, trong lượng định và quyết
đoán của họ, và nó cũng còn cho phép họ giải
quyết vấn đề đúng theo cuộc sống và lối hành xử của họ nữa. Nếu như
việc chuẩn định đúng đắn này rơi vào qũy đạo của phương pháp được mệnh danh là
việc kiểm soát sinh sản, thì ngay cả ở đây, vợ chồng cũng không thể bỏ qua được
điều gì đã trở thành cân thước đo lường trách nhiệm cho tình yêu, nghĩa là cả
về giá trị nhân bản thiết yếu của một con người, lẫn phẩm giá được gắn liền với
nó là sự kiện được làm cha làm mẹ. Nói cách giải dị hơn thì: họ không được dựa
vào việc ngừa thai, vì tự bản chất nó đối chọi với tình yêu và bậc làm cha
mẹ".
Ðây là cứu cánh và đòi
buộc của Giáo Hội đã đề ra trong Thông Ðiệp Humanae
Vitae, đồng thời chúng ta đọc thấy trong Hiến Chế Mục Vụ như sau:
" Trong khi hành sự, vợ chồng không được tự tiện tiến hành bừa bãi. Họ
phải luôn luôn được hướng dẫn bởi một lương tri được chuyên cần uốn nắn theo
đúng với chính thiên luật, và họ phải phục tùng quyền bính giáo huấn của Giáo
Hội, là những thẩm quyền giải thích thiên luật trên trong ánh sánh Tin Mừng.
Chính thiên luận này đã mạc khải và bảo vệ ý nghĩa vẹn toàn của tình yêu vợ
chồng, và thúc ép nó đến sự viên mãn rất mục nhân bản" ( GS # 50 ).
5. Một Lương Tâm Ngay Thẳng.
Giáo huấn hiện đại của
Giáo Hội về trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, như chúng ta thấy, đã dựa vào thiên
luật, vào cảm tính đích thực của tình yêu vợ chồng, và vào viễn ảnh toàn bộ của
con người. Xuyên qua những điểm trên, nó cố gắng để trực diện với lương tâm con
người, đích điểm mà mọi sự đều quy tụ về, và cũng từ đó đưa ra những phán đoán
để hành động, và kể cả chính những hành động nữa, trong hình thái đầy hiểu biết
và tự nguyện. Trụ điểm của chính vấn đề là lương tâm. Nó tự hiển hiện rất rành
mạch trong mọi lãnh vực luân lý của con người, cũng như nó là mối phân tích cuối
cùng của yếu tố quyết định, và những giá trị nhân bản của việc con người làm,
trực tiếp lệ thuộc vào nó. Vậy mà trong chính phần đoạn về luân lý này, lương
tâm lại trở thành điểm quyết định của một thời trang đặc thù. Chúng ta hiện
đang nói ở đây về một phạm vi của hành động và hợp tác, trong đó hai người, một
nam một nữ, hoàn toàn một mình với nhau, chứng tỏ tất cả những gì họ là, không
phải chỉ trong tư thế của nam tính và nữ tính thể chất, nhưng còn trong tư thế
của cảm nghiệm nội tâm người này đối với người kia, và trong cuộc nghiệm sinh
ấy, mà chính bản tính tự nhiên của nó đã mang một đặc tính mật thiết, được giấu
nhẹm khỏi thế gian và khỏi sự xét đoán của người khác. Trong trạng huống như
vậy, lương tâm của người ta xem như đã quyết định một phần: một lương tâm ngay
thẳng và trưởng thành, một lương tâm vừa nhân bản vừa đạo đức Ki-tô sẽ nêu lên,
ở đây và bây giờ, mức độ hợp thời của phần trách nhiệm. Chúng ta đã đọc trong
Gaudium et Spes # 50: "chính những người làm cha mẹ phải tự mình đưa ra
cái quyết định cuối cùng trong ánh sáng soi dẫn của Thiên Chúa". Trách
nhiệm đối với tình yêu và trách nhiệm của bậc làm cha mẹ cuối cùng được thâu
tóm vào trong những quyết định của lương tâm của vợ chồng, vào những quyết định
mà cả một hệ thống giá trị được diễn tả đúng đắn hay sai lầm, và còn vào cả
toàn bộ hệ thống giáo dục chứa đựng trong mỗi hành động đó nữa. Mỗi lần hành
động như thế là một lần khơi mở lương tâm, để chứng thực nó, củng cố nó hay hạ
yếu nó, tìm lại được nó hay phá hủy nó đi.
Ðó là lý do tại sao tất
cả những gì chứa đựng trong Hiến Chế Gaudium
et Spes, trong Thông Ðiệp Humanae Vitae, vàtrong hàng loạt những
thông tư khác nhau như: thư luân lưu, thông báo, tông thư và rất nhiều nữa
trong báo chí, sách vở, thư mục, và dĩ nhiên, trong các buổi đại hội và thuyết
trình - tất cả những gì chứa đựng trong chúng để truyền đạt giáo huấn của Giáo
Hội, thì cuối cùng, cũng đều nhắm tới việc
đào luyện một lương tâm ngay thẳng và trưởng thành nơi người chồng và người vợ.
Ý nhgĩa mà Ðức Phao-lô VI
qui cho trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, song song với Công Ðồng Vatican II và
toàn bộ truyền thống và giáo huấn Ki-tô về đức tin và luân lý thì, tự căn bản,
là rất đạo đức. Nhờ như thế, Ðức Phao-lô VI đã hết sức nhấn mạnh để phân biệt
cách chính xác giữa hình thức "kiểm soát sinh sản" mà Giáo Hội chấp
nhận là phù hợp với thiên luật, khác hẳn với chuyện mà thường được gọi là
"ngừa thai", chuyện mà văn kiện tòa thánh định nghĩa là "kiểm
soát sinh sản cách nhân tạo". Trong trường hợp thứ nhất, vợ chồng tự hiến
cho nhau trong cách thế đúng đắn như một sở hữu đặc thù chắc chắn được ban tặng
cho họ theo bản tính của hôn nhân; trường hợp thứ hai, họ cản trở cuộc tiến
hành của một diễn trình tự nhiên liên quan đến việc truyền sinh đời sống, cho
dù đúng là trong cả hai trường hợp , với sự đồng ý rõ ràng giữa hai người là vợ
chồng đều muốn tránh việc truyền sinh, và muốn được bảo đảm là một thai nhi
không thể được thành hình. " Thật rất đúng là trong cả hai trường hợp, cặp
vợ chồng đã cưới, đồng ý với nhau trong sự tự do quyết định tránh có con vì
những lý do chính đáng, tìm cách thế chắc chắn nhất để mầm non sẽ không xuất
hiện. Tuy nhiên lại cũng rất đúng là, chỉ ở trong trường hợp trước, họ mới có
thể từ bỏ hành động gối chăn trong thời kỳ có thể thụ thai, vì những động lực
chính đáng mà họ không muốn việc truyền sinh, trong khi họ lại ăn nằm trong
thời kỳ không thể thụ thai để chứng tỏ tình thương yêu của mình và để bảo toàn
tính chất thủy chung hỗ tương vợ chồng của họ. Vì làm như thế, nên họ nêu lên
được chứng tích của một tình yêu chân thật và tuyệt đối thành tâm" ( HV #
16 ).
Tác giả của Thông Ðiệp ý
thức được những khó khăn tâm sinh lý, và có lẽ cả những khó khăn tinh thần, như
mấu chốt mà Giáo Hội có thể sẽ phải đối diện. Chính vì thế mà bất cứ ai đối
diện với điểm mấu chốt này phải có một sự hiểu biết tỏ tường, không phải vì chỉ
để tự mình quyết định, mà còn vì tất cả các lý lẽ mà họ dựa vào để quyết định
nữa. Ðặc biệt là trong thực tế, họ không thể để tính chất luân lý của hành động
lẫn lộn với kỹ thuật của hành động, hay để nguyên tắc lẫn lộn với phương pháp.
Một trong những sai lầm căn bản trong việc diễn dịch Humanae Vitae phát xuất từ chính từ sự lẫn lộn này. Tâm thức
thời thượng về "kỹ thuật" chỉ muốn thấy phần "kỹ thuật" (
thao túng ) vượt trên mọi thứ khác, kể cả trong khi chỉ có hai người, một nam
một nữ như vợ chồng, phải đối diện với nhau
trong sự thật toàn bộ về món quà của họ biếu tặng cho nhau, dưới sự hướng dẫn
của một lương tâm ngay thẳng và trưởng thành. Giáo Hội muốn dành lại
tri thức đích thực của tình yêu và phẩm giá trưởng thành trong lối hành xử xứng
đáng với con người, cho họ. Ðó cũng là lý lẽ đích thực của lương tâm, được tạo
nên như một điều kiện không thể không có, không phải chỉ vì trách nhiệm của bậc
làm cha mẹ, mà còn vì trách nhiệm đối với chính tình yêu vợ chồng.
Một trong những nguyên tố
căn bản của tình yêu này, một tình yêu mà chính Ðức Ki-tô là vị tôn sư không
thể thay thế được, là khả năng của đòi hỏi và chấp nhận những yêu sách như thế,
mà nếu không có chúng, thì tình yêu không còn là tình yêu nữa. Quan tâm về một
hình thái chân truyền như thế về tình yêu nhân loại cũng đã định đặt ra những
đòi hỏi, mà Ðức Phao-lô VI đã viết trong Humanae
Vitae, hợp với truyền thống và giáo huấn Công Giáo. Chẳng lẽ chúng
ta không cảm nhận được mối quan tâm này sao? Hãy xem như phần trích đoạn sau
đây:
"Thật là dễ sợ nếu
người chồng, khi lớn lên đã quen với các tập quán xử dụng việc chống thụ thai,
cuối cùng sẽ đánh mất sự kính trọng đối với vợ, và khi không còn lo lắng cho sự
bình đẳng cả về thể lý lẫn tâm sinh lý của vợ nữa, thì một lúc nào đó, sẽ tới
điểm họ coi vợ như một dụng cụ để hưởng thụ ích kỷ cá nhân, mà không còn coi
như một người bạn đời đáng kính và được yêu nữa" ( HV # 17 ).
6. Mối Quan Tâm Chung
Tất cả chúng ta hiện diện
nơi đây hôm nay, tề tựu lại với nhau vì cùng một mối quan tâm, đã được các vị
Giáo Phụ của Công Ðồng Vatican II diễn đạt bằng những lời lẽ đề cao phẩm giá
của hôn nhân và gia đình, và được Ðức Phao-lô VI nói lên trong Humanae Vitae, mà không để ý tới những
tiếng nói phản kháng và chống đối dễ dàng nhận thấy. Nhân dịp kỷ niệm 10 năm sự
xuất hiện của văn kiện này, khi đọc lại nó theo văn mạch của Hiến Chế Gaudium et Spes, chúng ta sẽ tìm gặp những
lời văn thích đáng một cách đặc biệt như sau: "Ðể cứu được thế hệ này và
để phân biệt những thực tại đời đời khỏi những hiển lộ mau qua của chúng, Ki-tô
hữu phải tích cực đề cao những giá trị của hôn nhân và gia đình, cả bằng gương
sáng của nếp sống cá nhân mình và bằng sự cộng tác với những người thành tâm
khác. Như thế, khi những trở ngại nổi lên, Ki-tô hữu sẽ cung ứng được, trên
danh nghĩa của nếp sống gia đình, những nhu cầu và hỗ trợ phù hợp với thời hiện
đại. Ðể đạt mục đích này, trực giác Ki-tô của các tín hữu, lương tâm luân lý
ngay thẳng của con người, và sự khôn ngoan cùng kinh nghiệm của mọi người, được
sử dụng trong những môn khoa học thánh, sẽ phải đóng góp rất nhiều" ( GS #
52 ).
Nguyên nhân kêu gọi chúng
ta họp lại với nhau đây thì thật xứng đáng cho một mối quan tâm chung, và cũng
xứng đáng với sự cố gắng và dấn thân hết mình của chúng ta. Hôn nhân và gia
đình là bất định ngay tự căn nguyên cho mọi hoạt động của con người và xã hội.
Có thể nói là, mặc dù tự bản tính, đó là mối
quan tâm rất mực riêng tư, một chuyện của riêng hai người, của vợ
chồng, của nhóm xã hội nhỏ nhoi nhất, gồm có họ và con cái, nhưng số phận của quốc gia và lục địa, của nhân loại
và của Giáo Hội cũng lại lệ thuộc vào nó. Có lẽ đối với một số quí
vị hiện diện ở đây, thì vấn đề kiểm soát sinh sản đạo đức là quan trọng, vì mức
sinh sản ở quốc gia của mình khá cao; trái lại, cũng có những vị lại lo lắng
đến tiến trình thụt lùi, hoặc không đồng đều theo từng địa phương tại quốc gia
họ. Rất rõ ràng thấy được là, những diễn biến chính trị và kinh tế lớn lao tạo
nên nền tảng đích thực, cho cả từ khởi điểm lẫn mục tiêu, cho từng cặp vợ chồng
và cho mỗi gia đình. Nếu Công Ðồng Vatican II nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải
nuôi dưỡng phẩm giá của nếp sống hôn nhân và gia đình, thì đó là đưa ra một
phương pháp căn bản và một hướng dẫn để giải quyết vấn đề trong lãnh vực này.
Phương pháp và hướng dẫn này, tiên vàn, không nhắm tới số lượng, nhưng căn bản
là nhắm vào phẩm chất, bởi vì công chuyện này được gắn chặt rất sau xa vào
trong ý nghĩa của cuộc sống con người: chúng nêu lên chính giá trị của con
người, đồng thời cũng tạo nên giá trị đó nữa.
Tất cả những điều này
đang là, và phải là, đối tượng cho một mối quan tâm lớn lao, một mối quan tâm
chung. Vì mối quan tâm này mà chúng ta hội họp nơi đây. Nguyện xin Chúa Thánh
Thần, Thần Khí của Chúa Giê-su Ki-tô, qua lời cầu bầu của Mẹ Thánh Ngài, Mẹ
thiêng liêng của tất cả mọi người, đồng hành với chúng ta khi thảo luận. Chớ gì
buổi họp của chúng ta, buổi hội họp của những người thành tâm, của tâm thành
tuyệt hảo, được thông chia vào với "cảm tính Ki-tô", với "lương
tâm ngay thẳng", với " khôn ngoan và kinh nghiệm" mà tài liệu
Công Ðồng nói tới.
Những ân sủng của Chúa
Thánh Thần, những đóng góp của trí tuệ, của lòng thành và của con tim thì không
thể thiếu được trong công cuộc này, công cuộc nhắm tới việc " nuôi dưỡng
phẩm giá của hôn nhân và của gia đình".