ĐẠO THỰC DỤNG
Linh mục Giáo sư Nguyễn Trọng Viễn
Bệnh thực dụng không phải chỉ là
căn bệnh của giới trẻ ngày nay, cũng không phải chỉ là thái độ của một số người
trong cơn cám dỗ của nền kinh tế thị trường. Đây còn là căn bệnh có tầm mức nhân loại và chi phối sâu xa đời sống đức Tin Kitô
giáo. Thực dụng là giản lược cái huyền nhiệm vào những thành quả tức
thời; thực dụng là tìm những cách thức dễ dãi, cụ thể, rõ ràng để thực hiện vận
mạng cuộc đời mình; và sâu xa hơn, thực dụng là sử dụng phương pháp đối với sự
vật để thay thế cho thái độ gặp gỡ chân chính giữa con người với nhau và giữa
con người với Thiên Chúa.
Căn bệnh này có vẻ “nhẹ tội”, nhưng thật ra, nó là căn bệnh chính, là nguồn gốc
của mọi căn bệnh khác; nó là một dự phóng căn bản bao hàm thái độ từ chối tình
yêu thương.
Thách đố này đã được diễn tả trong
thái độ của nguyên tổ con người : Adong và Eva. Nguyên tổ được sáng tạo nên
giống hình ảnh Thiên Chúa :
“Và Thiên Chúa phán : Ta hãy làm
ra người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta”[1]
[St 1,26; x. c. 27]
Khẳng định ấy không chỉ giới hạn
trong một cơ năng riêng biệt nào đó của con người, như lý trí hay lòng yêu
thương, nhưng bao hàm ý nghĩa rằng vận mạng của con người chỉ được thành toàn
trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa. Đó là một hồng ân lớn lao của phận
người. Tuy nhiên, vì mang thân xác bằng bụi đất [x. St 2,7], có trách nhiệm
“canh tác và giữ vườn” [x. St 2,15; 1, 26b – 30], nên con người cần thực hiện
vận mạng của mình qua thời gian, bằng những công việc hằng ngày của cuộc sống.
Đó là cách sống đúng theo “qui chế hiện hữu” của con người. Hơn nữa, con người
lại được Thiên Chúa mời gọi sống liên đới với nhau, người với người tìm thấy
nơi nhau một sự “trợ giúp đương đối” [St 2, 20b-25]. Như thế, vận mạng của con
người chính là, qua từng ngày từng năm, sử dụng thân xác và vũ trụ để thiết lập
tình thân giữa con người với nhau; đồng thời qua cách sống ấy mà đạt tới cuộc
sống thân tình với chính Chúa. Con người được mời gọi để thể hiện “hình ảnh
Thiên Chúa”, qua trung gian thân xác và vũ trụ, bằng chính cuộc sống thân ái
người với người.
Đáng lẽ ra nguyên tổ cần thực hiện
vận mạng cao cả ấy bằng thái độ tuân phục thánh ý Ngài, bằng sự trung tín hằng
ngày và qua một quá trình lịch sử lâu dài. Đáng lẽ ra con người được mời gọi
thực hiện cuộc đời mình bằng tình thương, bằng mối liên hệ của tự do, tự hiến
và cùng sống với những ngôi vị khác[2]
trong hành trình lịch sử; thì Adam và Evà lại muốn chiếm đoạt ngay tức khắc vận
mạng của mình bằng một phương thế thực dụng,
mau chóng và không có tính nhân sinh : phương thức “ăn trái cấm”. Nỗi khát vọng
Thiên Chúa được phú bẩm như một năng lực sống cho suốt hành trình đời người lại
bị hoán đổi thành ý muốn được bằng Thiên Chúa ngay tức khắc; vận mạng cao cả của
nhân loại được sống trong tình yêu lại bị biến chất thành tham vọng khẳng định
mình bằng cách giành lấy quyền quyết định “biết lành
biết dữ”, tự mình quyết định điều thiện ác cho bản thân mình; tình thân
giữa con người với nhau đáng lẽ được trọn vẹn để thể hiện chính phẩm tính yêu
thương của Thiên Chúa lại trở thành sự liên kết của mưu đồ ích lợi riêng. . .
Vấn đề chính trong tội nguyên tổ
không phải là một hành vi xúc phạm đến uy danh Thiên Chúa, nhưng là hành vi phá
hủy bản chất con người, con người từ chối nẻo đường sống tình yêu thương qua
lịch sử từng ngày của phận người để đòi được mở mắt “nên như những Thiên
Chúa” [xc. St 3,5]. Tội nguyên tổ không phải được suy diễn ra từ nguyên lý
danh dự, nhưng nằm trong chính thực tại như một sự vong thân vì đã đánh mất bản chất của mình; tội ở đây phát xuất từ nguyên lý thực dụng
mà nguyên tổ, hay chính mỗi con người, đã lựa chọn cho bản thân mình.
Dấu ấn tội lỗi ấy đã trở nên một
vết hằn sâu xa trên hành trình làm người của nhân loại.
2.1 Từ chối gặp gỡ và đồng hành
Con người vẫn luôn đứng trước cám
dỗ muốn “đi đường tắt”, muốn loại trừ tha nhân
ra khỏi hành trình cuộc đời, muốn “chiếm đoạt” và hoàn thành vận mạng của mình bằng những
gì hoàn toàn thuộc về mình, hoàn toàn theo cách thế của mình. Thay vì an bình,
tin tưởng đi vào lịch sử nghĩa tình, từng ngày sống thái độ tín trung, từng
việc biết trao đổi, và nhất là biết nhận ra tính
cách độc đáo riêng biệt của tha nhân để khẩn cầu, để tri ân tình thương của tha nhân, thì
con người lại thường muốn một mình, dùng một phương thế có tính kỹ thuật, để thăng tiến bản thân và đạt tới mục đích đời mình.
Gặp gỡ và đồng hành với tha nhân
quả là một chuyện rắc rối. Cuộc sống với tha nhân làm cho ta phải bận tâm nhiều
chuyện : giận hờn, hòa giải, lo lắng, chiều ý, lễ nghĩa, liên đới, trách nhiệm
… Đó là chưa kể những mối tương quan đấu tranh mà ta cần phải cảnh giác, khôn
khéo, bản lãnh, nắm đàng chuôi, . . . Triết gia J.P. Sartre không phải không có
lý khi nói “Tha nhân là hỏa ngục”.
Trước bao nhiêu chuyện rắc rối như
thế, người ta càng ngày càng có khuynh hướng muốn ổn
định cuộc sống bằng hệ thống luật pháp chặt chẽ;
càng ngày càng muốn thay thế những mối tương quan tình nghĩa bằng những dịch vụ
tiện ích; càng ngày càng muốn tiêu chuẩn hóa tất cả mọi tương quan, thay vị tự
thể hiện mình trong tương quan người với người. Sống trong xã hội hiện đại ngày
nay, người ta cần hiểu biết các phương thức và khôn ngoan lựa chọn giải pháp
chứ không cần những thái độ “lãng mạn” của tình người. Cuộc sống trở thành một
kỹ thuật mà người ta có thể huấn luyện trong những khóa học cấp tốc.
Có một thời người ta lý luận rằng
gia đình không còn giá trị cho cuộc sống con người hiện đại. Những người ấy cho
rằng : xưa kia, người ta lập gia đình là để nương tựa vào nhau và củng cố sức
mạnh cho nhau về nhiều phương diện; đồng thời khi sinh sản con cái, nuôi dưỡng
và dạy dỗ chúng, người ta có thể cậy nhờ lúc tuổi già. Thế nhưng cách thức ấy
hiện nay không còn hiệu quả. Thay vào đó, người ta có thể thuê người nấu ăn,
dọn dẹp nhà cửa; gửi tiền vào ngân hàng hoặc có những biện pháp ngăn ngừa trộm
cắp khác; đóng tiền vào nhà dưỡng lão để an ổn tuổi già. Nhu cầu tình dục thì
không khó giải quyết. Thế là người ta có thể vui sống với một con chó, hoặc con
mèo thân thương của mình.
Phản ứng lại những đấu đá trong xã
hội, một số người khác lại muốn trốn tránh mọi rắc rối, tìm an thân bằng cuộc
sống cô liêu, không đua tranh, chẳng lụy phiền, không lý tưởng cũng chẳng tâm
huyết gì. Chúng ta cũng thấy thái độ tương tự trong những lập trường minh triết
của một số triết gia, một số tư tưởng thoát tục Tây phương và Đông phương : tìm
sự thanh thản[3].
Tuy vậy, từ thái độ sống “kỹ thuật” của con người thời đại cho
đến thái độ siêu thoát cao quí của những hiền nhân, chúng ta đều thấy một tính
chất thực dụng chung. “Thực dụng kỹ thuật” và “thực dụng hiền triết” đều là từ
chối gặp gỡ và đồng hành, đều là thái độ tự tìm thực hiện vận mạng của mình mà không cần đến tha nhân.
Con người chỉ có thể hoàn thành
vận mạng của mình qua sự gặp gỡ và đồng hành.
Bởi vì bản chất con người là yêu thương, nhưng không phải là tình yêu lãng mạn,
bay bổng mà là một tình yêu thể hiện trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chỉ khi
thể hiện vận mạng của mình theo như “qui chế hiện hữu” của con người, một hữu
thể tại thế, một sinh vật sống trong thời gian và hình thành đời mình qua một
quá trình lịch sử, thì con người mới thực sự biết yêu thương chân chính là gì.
2.2 Chết dí trong sự vật
Được làm chủ thế giới, đó là hình
ảnh hiên ngang cao cả của con người. Con người tìm thấy niềm vui khi lao động,
chiếm hữu và sử dụng muôn vật. Niềm vui đó làm cho nhiều người tưởng rằng tất
cả sứ mạng của mình, tất cả ý nghĩa đời mình hệ tại việc thống trị, khám phá,
uốn nắn và sở hữu thế giới sự vật. Nhưng đó lại chính là một mục tiêu có tính
thực dụng.
Thật ra nhiệm vụ “đặt tên cho muôn
vật” không phải là nhiệm vụ chính yếu của con người, vì chính khi Adong hoàn
thành sứ mạng đặt tên cho muôn vật, ông không gặp được người đương đối tương
xứng :
“Giavê Thiên Chúa đã phán : không tốt, nếu
người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó . . .
Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần
người, người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào đương đối” [St 2, 18.20].
Như thế, con người cần một bước
nhẩy để chuyển từ niềm vui chiếm hữu và thống trị sang niềm vui gặp
gỡ và hiệp thông giữa người với người, một bước nhẩy từ thế giới sự vật
sang thế giới nhân sinh. Con người cần phải đạt tới một cuộc bừng tỉnh trước vũ
trụ để nhận ra tầm quan trọng của tương quan ngôi vị giữa con người với nhau.
Từ cuộc bừng tỉnh ấy, con người mới biết sử dụng vũ trụ sự vật như phương tiện
để gặp gỡ nhau, biến những thành quả trên vũ trụ sự vật thành những món quà
dâng tặng cho nhau để thiết lập tình người.
Thực dụng chính là tình trạng,
thái độ chết dí trong thế giới sự vật; tình trạng không còn muốn vươn lên đến
thế giới nhân sinh và thế giới siêu nhiên. Tình trạng ấy làm nghèo nàn phẩm
chất người. Phẩm giá con người bị hạ thấp xuống hàng sinh vật.
Thái độ ấy càng biểu hiện mạnh mẽ hơn trong
thời đại ngày nay, khi nhân loại muốn dùng kinh tế để thỏa mãn mọi nhu cầu, chỉ
muốn dùng tài năng để “lập thân”. Với thái độ này, tất cả bản chất cao quí của
con người bị biến thành một sinh vật kinh tế.
Người ta tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu vật chất của
mình, đánh mất những giá trị tinh thần, đánh mất phẩm chất tình yêu. Bao
nhiêu những cuộc tranh giành quyền lợi, từ cấp độ thế giới đến cấp độ cá nhân;
bao nhiêu nỗ lực vươn lên bằng cách đạp lên người khác đã và vẫn còn đang biến
con người thành những sinh vật vồ mồi, xé nát thế giới
tươi đẹp.
Chỉ khi vượt lên trên cái nhìn
"duy nhiên" thực dụng để sống chiều kích nhân văn hoặc siêu nhiên, con người mới tìm thấy “môi trường sống” đích
thực của mình; chỉ khi thoát khỏi thái độ thực dụng để sống thái độ trân trọng
và chờ đợi, con người mới có thể sống với nhau trong tình nghĩa; chỉ khi
nhìn thấy đàng sau sự vật bóng dáng những ngôi vị, con người mới có thể sử dụng
sự vật như những người làm chủ; chỉ khi đặt sự vật trong mối tương quan ngôi
vị, như là những chiếc cầu, như là những quà tặng, thì sự vật mới góp phần làm
phong phú phẩm chất làm người chân chính.
2.3 Đối xử với tha nhân như sự vật
Thế rồi, khi thái độ làm chủ và
thống trị thế giới trở nên một “thói quen” của nhân loại, thói quen khiến người
ta thích áp dụng dụng cụ để thống trị muôn vật vào những mối tương quan ngôi
vị, tương quan giữa con người với nhau và tương quan với Thiên Chúa, thì con
người lại rơi vào một phương thức sống có tính thực dụng. Con người biến mối
tương quan ngôi vị trở thành mối tương quan thống trị,
chinh phục, quyền lực. Điều ấy đã được tuyên án sau khi nguyên tổ phạm
tội :
“Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon
đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi” [St 3,16].
Với phong cách này, con người trở
nên kẻ thích đi “con đường một chiều”, nghĩa là
tìm cách uốn nắn thế giới theo ý của mình mà
đánh mất đi một sự nhạy bén trong thái độ lắng nghe, đánh mất đi sự sẵn sàng để
đón nhận tha nhân và chiều ý tha nhân, cần thiết và khẩn cầu tha nhân như điều
không thể thiếu cho bản thân mình. Chiều hướng phát huy động lực chỉ còn là từ
phía chủ thể tới đối tượng, những phản hồi đều bị tắc
nghẽn.
Biểu hiện rõ rệt nhất của tình
trạng ấy là khát vọng quyền lực. Người ta luôn
đòi hỏi sự thay đổi của người khác theo ý mình mà không biết chờ đợi và trân
trọng tha nhân như một chủ thể tự do và độc đáo; người ta muốn thấu hiểu trọn
vẹn để làm chủ người khác chứ không biết chiêm ngắm và thán phục; người ta tìm đủ cách để uốn nắn, cắt tỉa, vặn vẹo tha nhân cho bằng
được. Thế nhưng, thái độ độc tài ấy không bao giờ làm thỏa mãn khát vọng
gặp gỡ chân chính. Do đó, người đi vào nẻo đường ấy càng ngày lại càng muốn gia
tăng sự thống trị, tăng cường thêm sự đàn áp để thực hiện cho được ý muốn cá
nhân của mình. Chính những nhà độc tài, muốn sử dụng người khác như dụng cụ, đã
đi vào nẻo đường này để rồi càng ngày càng độc ác hơn. Đó là nẻo đường cụt, vì
tha nhân chẳng thể bao giờ luôn luôn thực hiện đúng ý mình hoàn toàn cả.
Tất cả những thái độ thực dụng,
mục tiêu thực dụng và phương cách thực dụng đều không bao giờ có thể đi đến gặp
gỡ và hiệp thông để có thể cất tiếng reo vui :
“Và nó đã nói : Phen này, nàng là
xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đội danh là “đàn bà” vì đã được
rút tự “đàn ông”. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và
chúng sẽ nên một thân xác” [St 2,23]
3. NhỮng cơn Cám dỖ đỐi
vỚi đỨc Giêsu
3.1 Nẻo đường dễ dãi
Khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu
đã trải qua một loạt các cám dỗ của Satan. Những cám dỗ này không phải chỉ là
những cám dỗ lặt vặt liên quan đến của ăn cái mặc, một chút tự ái hoặc những
đam mê xấu của đức Giêsu, nhưng chính là những cám dỗ tinh ranh của satan, cám
dỗ về những cách thức thực hiện chương trình cứu độ khác với chương trình của
Chúa Cha. Cám dỗ biến hòn đá thành bánh, đó là cám dỗ dùng việc thỏa mãn những
nhu cầu vật chất để chinh phục con người; cám dỗ nhẩy từ thành thánh xuống, đó
là cám dỗ về cách thức làm những điều bí nhiệm, những phép lạ tỏ tường để dẫn
dụ lòng tin của người tín hữu; và cám dỗ quyền lực, đó là cách thức dùng quyền
bính để thiết lập Nước Trời, dùng một tổ chức cai trị, dùng những biện pháp bắt
buộc. . . Những nẻo đường ấy thực sự là những nẻo đường dễ dàng rất nhiều cho
sứ mệnh cứu độ Đức Giêsu, so với nẻo đường vâng ý Chúa Cha để chịu chết vì yêu
thương con người, vì chúng không cần đến sự đáp trả tự do, thái độ tự nguyện,
không cần đến lòng tín trung của con người. Dostoievsky diễn tả thái độ thực
dụng tầm thường ấy qua miệng viên Đại Pháp Quan Tôn Giáo nói với Chúa Giêsu như
sau :
“Đáng lẽ chiếm lấy tự do của con
người thì Chúa lại cứ mở rộng tự do thêm mãi ! Hay là Chúa quên rằng con người quý trọng sự yên
ổn và thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn trong sự nhận thức thiện ác ?
Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do cho lương tâm, nhưng cũng không
có gì khổ ải hơn. Thế mà thay cho những nguyên tắc nền tảng vững chắc để làm
cho lương tâm con người mãi mãi yên ổn, Chúa lại chọn tất cả những gì là phi
thường, bí ẩn và vu vơ, tất cả những cái không vừa sức con người, vì vậy Chúa
hành động như thể hoàn toàn không yêu họ, thế mà Chúa đã hiến cả sinh mạng của
mình cho họ đấy ! Đáng lẽ chiếm lấy tự do của con người, Chúa lại cứ tăng thêm
mãi lên và làm cho thế giới tinh thần của họ chồng chất thêm mãi những dằn vặt
vì tự do. Chúa muốn con người yêu tự do, để họ tự do đi theo Chúa, bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của
Chúa. Thay cho luật pháp cứng rắn cổ thời, con người từ nay với trái tim tự do
của mình, phải tự quyết định cái gì là thiện, cái gì là ác, mà chỉ lấy hình ảnh
của Chúa trước mắt để định hướng cho mình. Nhưng chẳng lẽ Chúa không nghĩ rằng
con người rút cuộc sẽ chối bỏ và thậm chí bài bác cả hình ảnh của Chúa và sự
thật của Chúa, nếu như họ bị đè ép dưới một sức nặng khủng khiếp là sự tự do
lựa chọn ? Cuối cùng họ sẽ la lên rằng sự thật không phải ở nơi Chúa, vì không
thể nào đặt họ vào tình cảnh bối rối và dằn vặt hơn là Chúa đã làm, Chúa đã để
lại cho họ biết bao lo âu và những nhiệm vụ không thể giải quyết nổi. . .”[4].
3.2 Nẻo đường coi thường con người
Những cách thức dễ dãi của Satan,
thực chất, là thái độ hạ giá phẩm chất làm người của người tín hữu. Theo cách
thức của Satan, đương nhiên đức Giêsu chấp nhận coi con người chỉ là những kẻ
hèn mạt, dễ bị các nhu cầu vật chất chi phối, dễ bị thu hút bởi những gì hào
nhoáng bên ngoài, thích ăn sẵn một cách nô lệ. Cám dỗ của Satan không là gì
khác hơn đề nghị những phương thức thực dụng, dễ dãi để không còn những rắc rối
của cuộc phiêu lưu trong mối tương quan ngôi vị.
Quả thật, Satan đã hết sức tinh
ranh trong những cám dỗ này. Chỉ cần loại trừ được sự tự do của con người trên
hành trình đức tin là có thể phá hủy được toàn bộ chương trình cứu độ của Chúa
Giêsu. Không có tự do, con người không có khả năng yêu thương, không còn có thể
được mời gọi đi vào nẻo đường yêu thương, và không có cách nào truy nhận Thiên
Chúa như là chính Ngài, một Thiên Chúa yêu thương.
Cám dỗ của Satan chẳng những phá
hủy nhiệm cục cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, nhưng còn “sửa lại” chính chương
trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi ấy, con người không thể hiện được hình ảnh
Thiên Chúa đã được ghi khắc trong bản chất người, nhưng biến thành những sinh
vật giữa muôn ngàn sinh vật khác.
Con người không chỉ “là người”,
nhưng còn phải “làm người”. Từ yếu tính “là người” cho đến phẩm chất “làm
người” là cả một hành trình khó khăn, chênh vênh, nhưng cũng đẹp đẽ và hiên
ngang biết bao. Hành trình ấy không thể theo chiều hướng đi xuống cách dễ dãi
để trở nên như các sinh vật khác; chẳng phải chỉ là một đường ngang bế tắc, bít
bùng; nhưng phải là hành trình siêu việt có khả năng vươn tới ngôi vị con người
và tới một Thiên Chúa ngôi vị.
4. VẬn mẠng con ngưỞi
là gẶp gƠ trong yêu thương
4.1 Vận mạng con người
Con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, đó là con người được mời gọi thể
hiện vận mạng của mình trong sự gặp gỡ, yêu thương
giữa con người với nhau và với chính Chúa. Công Đồng Vatican II đã khẳng
định điều đó như sau :
“Vậy con người là gì ? Con người
đã và còn đang đưa ra nhiều quan niệm về chính mình, nhưng quan niệm khác nhau
và đôi khi trái ngược nhau. Theo những quan niệm đó, thường con người tán dương mình như một mẫu mực tuyệt đối
hay lại chê bai
đến độ tuyệt vọng, từ đó con người hoài nghi và lo lắng. Thông cảm sâu xa được
những khó khăn này, Giáo hội, vì được Thiên Chúa là Đấng mạc khải dạy dỗ, có
thể đem lại câu giải đáp cho những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận
đích thực của con người, giải bày những yếu hèn, đồng thời có thể nhìn nhận xác
đáng phẩm giá và thiên chức của con người.
Thực vậy, Thánh Kinh dạy rằng con
người đã được tạo dựng ‘theo hình ảnh của Thiên Chúa’ có khả năng nhận biết
và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái
đất để cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa, vì ‘thế nhân là chi để
Ngài nhớ đến? Hay con người là gì để Ngài phải bận tâm ? So với thiên thần Ngài
có để cho thua mấy tí. Vinh dự huy hoàng là triều thiên Ngài ban tặng. Ngài cho
thống trị các kiệt tác tay Ngài làm, muôn sự Ngài đã đặt dưới chân’ [Tv 8,5-7].
Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên
con người cô độc; bởi vì từ khởi thủy ‘Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ’ [Stk
1,2-7]. Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người
với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể
có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không
thể sống và phát triển tài năng mình” [MV 12,b,c].
Như thế, phẩm chất người, một cách
chính yếu, không tùy thuộc vào khả năng của lý trí để thống trị muôn vật, nhưng
nằm trong những thái độ của con người đối với Chúa và
với nhau. Nói cách khác, “Thiên Chúa là tình yêu” [1 Ga 4,8b],
nên con người được sáng tạo nên giống Chúa cũng không thể là gì khác hơn tình yêu.
Do đó mà tất cả giới răn của Chúa cũng chỉ tóm lại trong giới răn “Mến Chúa
yêu người“ [xc. Mt 22,34-40], và như thánh Phaolô nói “yêu thương thì
chu toàn Lề Luật vậy” [Rm 13,10b], Thánh Gioan nói “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng” [1 Ga 2,10],
và ngược lại “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” [1 Ga
4,8a].
Tất cả những điều đó cũng là lời
khẳng định của Thánh Kinh về bình diện phẩm giá của con người, mà từ đó ta có
thể xác định được khía cạnh tương quan ngôi vị như một nét căn bản.
4.2 Hành trình gặp gỡ
Mối tương quan ngôi vị bao hàm ý nghĩa là : sống là sống
như một chủ thể đối diện với một chủ thể khác; và khi con người thiết lập nên
được mối tương quan chân chính với ngôi vị khác, mối
tương quan yêu thương chân chính, nghĩa là, người này với người kia,
phải biết khẩn cầu nhau như một chủ thể độc đáo không thể thay thế, thì khi ấy,
vận mang con người mới được hoàn thành. Triết gia Gabriel Marcel [1889-1973]
cho ta một vài “tiêu chuẩn” như sau :
-
Chỉ
có sự gặp gỡ của hai chủ thể chứ không có sự gặp
gỡ giữa chủ thể và đối tượng. Như thế ta chỉ đạt đến tha nhân nhờ sống với chứ
không phải bằng tư tưởng hiểu biết. Sự gặp gỡ là chân thực khi ta coi tha nhân
như một “anh/chị” [ngôi thứ hai] chứ không phải một “hắn” [ngôi thứ ba]. Hơn
nữa, với một chủ thể ta phải biết chờ đợi và hy
vọng chứ không phải thái độ xăm soi khám phá.
-
Như
thế, sự gặp gỡ chân chính bao giờ cũng phải là một sự dấn
thân, tức là đưa chính bản thân mình vào mối
tương quan như một cuộc phiêu lưu. Một cuộc dấn thân như thế chỉ có thể
là dấn thân cho tha nhân mà thôi, không bao giờ là sự dấn thân cho sự vật. Một
sự dấn thân chỉ vì lý tưởng của chính bản thân mình mà thôi cũng vẫn không thể
đạt đến sự gặp gỡ đích thực.
-
Cuối
cùng, thái độ dấn thân ấy đưa đến thái độ truy nhận tầm quan của tha nhân đối với bản thân
mình. Thái độ ấy bao hàm một sự khẩn cầu đối với tha nhân, và chỉ có thái độ
khẩn cầu mới mở đường cho tình yêu đích thực; bởi vì tình yêu bao giờ cũng là
một sự bổ túc nhân vị cho nhau chứ không phải chiếm
hữu, thống trị hay chỉ là một sự phát triển bản thân mà thôi. Khi đó, ta
tìm thấy cái chúng ta như chân trời rộng mở cho hữu thể của mình.
Không có cách nào khác, hành trình
của đời người phải là hành trình dấn thân, nghĩa là đi vào cuộc phiêu lưu với
những chủ thể khác. Chính trong hành trình ấy, cùng với niềm trân trọng, với
thái độ khẩn cầu tha nhân, con người tìm gặp được chính mình.
5. NhỮng lỆch lẠc trong
đỜi sỐng đỨc Tin Kitô giáo
Trong đời sống đức Tin hiện nay,
chúng ta có thể thấy tinh thần so đo tính toán vụ lợi,
thái độ nệ luật, lối sống vị luân lý… như là những biến hóa của thái độ thực dụng. Những lối sống này
luôn là những cách thức con người tìm an toàn cho bản thân, biến sứ mệnh đời
mình thành một con đường dễ dãi, con đường quay về bản thân mình chứ không phải
con đường liên đới, hiệp thông và chiều ý nhau trong tình yêu thương chân
chính. Chúng ta có thể thấy đường nét thực dụng ấy trong hầu hết những điểm
trọng tâm của đời sống đức Tin Kitô giáo hiện nay :
-
Người
Kitô hữu chỉ coi thái độ của con người trước mạc khải chính Chúa như là sự chấp
nhận những chân lý siêu vời, và cần phải nhắm mắt tin
nhận để được lên thiên đàng;
-
Người
Kitô hữu chỉ đón nhận ân sủng như là những sự
vật, nghĩa là những món quà từ Thiên Chúa mà không còn khả năng nhận ra “món quà” chính yếu là chính Đấng Ban ân sủng, tìm kiếm
“ân sủng thụ tạo” mà quên mất “ân sủng bất thụ tạo”[5].
-
Người
Kitô hữu tham dự các bí tích như là đến với
những “máy ban ơn phúc” chứ không phải sống lại giao ước ngôi vị
giữa bản thân mình và chính Chúa;
-
Người
Kitô hữu Công giáo đọc lời Chúa như là những bài học luân lý chứ không mấy khi nhận ra Lời Chúa là
lời ngỏ với chính bản
thân; và việc đáp lại lời ngỏ của Ngài làm nên một lịch sử nghĩa tình;
-
Người
Kitô hữu giữ đạo chỉ là giữ giới răn, và giữ
giới răn như một sự chịu vậy, nghĩa là không sống được thái độ tự do của con cái Chúa,
nhưng là tinh thần nô lệ.
-
Người
Kitô hữu mong lên trời để hưởng mọi sự vui
sướng chứ không phải để được sống trong tình yêu Thiên
Chúa.
-
Người
Kitô hữu cầu nguyện chỉ là xin ơn chứ không
phải một sự trao đổi thân tình như hiến tặng cho
Chúa chính tâm hồn của mình.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể nói
rằng, tất cả những căn bệnh trầm kha trong đời sống Giáo hội Công giáo Việt
Nam, “đạo” sinh hoạt, “đạo” hiếu kính, “đạo” thiêng liêng, “đạo” luân lý đều là
những biến thể của căn bệnh chính yếu, “đạo” thực dụng. Vì không gặp gỡ chính
Chúa, người Kitô hữu dừng lại ở thế giới sự vật và loay hoay ở mức độ sinh
hoạt, mức độ danh giá, mức độ thế giới “thiêng liêng” và mức độ hành vi luân
lý.
Những thái độ ấy biến đời sống đức Tin trở
thành những khuôn khổ cứng đọng mà người ta phải tuân giữ cách “nghiêm
nghị”. Vì thế, người Kitô hữu sống đạo không tìm thấy hạnh phúc của tình yêu
thương mà chỉ thấy gánh nặng và sợ hãi. Có quá
nhiều cái “phải” trong đời sống Kitô giáo; thậm chí có sách nghi thức còn viết
rằng : “Anh chị đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, giờ đây, anh chị còn phải
lãnh nhận một bí tích khác nữa là bí tích Thêm Sức”. Đúng là các anh chị
phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức thì sau này mới có thể lãnh bí tích Hôn Phối
hay Truyền Chức; nhưng đó là quan điểm hoàn toàn vụ
luật. Những thứ “phải” ấy phần lớn đều biểu lộ thái độ nô lệ cho sự vật,
nô lệ nguyên tắc, nô lệ lề luật chứ không phải
thái độ gặp gỡ chính Chúa và hiên ngang làm chủ mọi sự vật để dùng chúng làm
phương tiện diễn tả tình nghĩa với Chúa. Nhiều vị hữu trách trong Giáo hội vẫn
trình bày đời sống đức Tin với đầy dẫy những nghĩa vụ, những cấm đoán. Đời sống
của người tín hữu Việt Nam chỉ còn có “Mười Điều Răn” mà không có “Bẩy Ơn Thánh
Thần”.
Chính những thái độ ấy phá hủy hạt nhân căn bản của Kitô giáo và tạo nên một
sự khủng hoảng căn tính trong đời sống đức Tin. Bởi vì người Kitô hữu đã không
tìm thấy nét đẹp và niềm tự hào của con cái Chúa như ý nghĩa chân chính của
niềm tin có khả năng nuôi dưỡng trọn vẹn đời sống.
Cha mẹ thương con cái và diễn tả
tình thương ấy bằng cái bánh, món đồ chơi, chiếc áo mới . . . Đứa con nào chỉ
thấy đồ chơi, chỉ thấy bánh kẹo, chỉ thấy áo quần và so đo tính toán trên những
sự vật ấy, sẽ có nguy cơ trở thành đứa con hư. Ngược lại, đứa con nào cảm nhận
được chính bản thân cha mẹ, chính tình thương cha mẹ qua những tặng vật ấy, thì
có nhiều cơ may nên người. Những đứa trẻ thực dụng sẽ dễ trở thành những kẻ
suốt đời hưởng thụ và đòi hỏi. Những đứa trẻ sống tình người sẽ dễ dàng tìm
thấy động lực và ý nghĩa cho hành trình cuộc đời. Đời sống đức Tin Kitô giáo
cũng không ra ngoài quy luật đó.
Hơn nữa, tất cả những điều tuyệt
hảo nhất của Kitô giáo đều diễn ra ở tầm mức tương giao ngôi vị. Đánh mất tầm
mức này cũng là đánh mất chính bản chất Kitô giáo. Những sai lệch trong hầu hết
mọi nét chính yếu của đời sống đức Tin Kitô giáo[6] như thế có
lẽ không phải là một chuyện tình cờ, mà chính là nguy cơ rơi vào cơn cám dỗ của
Satan đối với Giáo hội của Chúa Kitô.
Dụ ngôn dành cho những nhà giáo dục tôn giáo
Một con cừu thấy
một
khe hở ở trong
hàng rào nên đã lách mình đi qua. Nó đã phiêu lưu khá xa và lạc mất đường về. Bấy
giờ nó nhận thấy một con chó sói đang đuổi bắt. Nó cong lưng chạy nhưng con chó
sói vẫn rượt theo cho tới khi người chăn cừu xuất hiện để cứu nó và âu yếm đem
nó về chuồng.
Mặc dù nhiều
người khuyên bảo, người chăn cừu vẫn không chịu đóng một miếng ván vào khe hở hàng rào.
Anthony de
Mello, Như Tiếng Chim Hót,
-
trang 150-151
[1] Những trích dẫn sách Sáng Thế trong bài
này lấy từ bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu Thế.
[2] Theo định nghĩa của Boèce [480-525], được
triết học Kinh viện sử dụng, ngôi vị là : bản thể cá thể thuộc bản tính có lý
trí. Nói cách đơn giản, con chó, con mèo… chỉ là những cá thể; nhưng con người,
thiên thần, Thiên Chúa [Thiên Chúa của Thánh Kinh] là những ngôi vị. Ngôi vị có
lý trí suy tư [nhất là suy tư giá trị], có ý muốn và có tự do quyết định. Trong
bài này dùng nhiều từ “tương quan ngôi vị”, được hiểu là mối tương quan giữa
các ngôi vị, thuộc bình diện ngôi vị, có tự do, suy tư, ý muốn…
[3] Chẳng hạn những học thuyết triết học Hy
Lạp sau thời kỳ của Aristote đều nhằm tìm cái ataraxia, sự thanh thản; nhờ thái
độ tự chủ [phái Khắc Kỷ] và hồn nhiên [Épicure], không vướng bận, không lo sợ,
không đòi hỏi điều gì quá sức mình…
[4] Fiôdor Dôxtôepxki, Anh Em Nhà Karamazôp,
Chương V, Viên Đại Pháp Quan Tôn Giáo, bản dịch của Phạm Mạnh Hùng, Nxb. Văn
Học, Hà Nội 1989, trang 78-80.
[5] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính
Chúa, Chân lý 2003, trang 181-186.
[6] Xc. Nguyễn Trọng Viễn O.P. “Gặp Gỡ Chính
Chúa” hay “Hành Trình từ Thái độ Thực dụng đến sự Tự do của con cái Chúa”, Chân
lý 2003. Những suy niệm trong tập sách này là một cố gắng giải gỡ tinh thần
thực dụng trong những điểm trọng yếu của đứcTin Kitô giáo.