“Discreta Caritas” –
Đức ái có nhận định
(dongten.net)
Trong cuốn Linh Thao, thánh I-nhã đã phác họa
ra một con đường giúp đạt đến tình yêu. Trong bản Hiến pháp, ngài mời gọi những
người được tình yêu thôi thúc, hãy dấn thân sống tình yêu ấy bằng một sứ vụ
tông đồ, hoàn toàn do đức ái tinh tuyền nhất dành cho Thiên Chúa và tha nhân thúc
đẩy. Tuy nhiên, ngay trong Linh Thao, thánh I-nhã cũng đã lưu ý rằng thứ tình
yêu ấy có thể mang tính cách vị kỷ và thế tục. Ngay cả khi đó là thứ tình yêu
dành cho Thiên Chúa đi nữa, thì chúng ta đều rất dễ có nguy cơ chỉ dừng lại ở
mức độ từ ngữ mà thôi. Vì vậy, bản Hiến pháp cũng dạy ta một cách nhận định hầu
gột sạch khỏi tình yêu của chúng ta mọi quyến luyến lệch lạc, mọi cường điệu
thái quá, hay mọi thái độ hấp tấp, thiếu suy xét. Lý do đòi hỏi thứ đức ái này “phải
luôn được nhận định,” dĩ nhiên không phải vì muốn giới hạn mức độ nồng nhiệt
của nó. Đức ái này vẫn phải luôn có tính cách vô giới hạn; nó giả thiết ta phải
dâng hiến trọn vẹn con người mình – “hết
lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí khôn” (Lc 10,27). Và nếu ta
học được cách phân biệt cho rõ mọi loại thần khác nhau (spirits) hằng bám sát
chúng ta trong bước đường hướng đến việc phụng sự Thiên Chúa trong “tình yêu tinh tuyền,” thì chắc chắn
chúng ta sẽ đạt đến tình trạng có thể sống chỉ dưới ảnh hưởng của thứ lề luật
nội tâm. Đó là luật của bác ái và yêu thương; luật mà Thần Khí viết và khắc sâu
trong các tâm hồn. Lấy các thuật ngữ được dùng trong bản Hiến pháp làm khởi
điểm chính yếu, bài viết này cố gắng nêu bật và làm sáng tỏ hơn đặc tính hết
sức tiêu biểu này của linh đạo I-nhã.
Phạm vi ngữ nghĩa của thuật ngữ discreta caritas xoay quanh các từ như:
discernir, discreción, và discretio. Động từ “nhận định” (discern) ngày nay có vẻ rất phổ biến,
chỉ xuất hiện ba lần trong bản Hiến pháp.
Và chỉ có một lần duy nhất (ở số 729), bản văn này dùng cụm từ ‘nhận định các
loại thần khác nhau.’ Bề trên Cả Dòng Tên nhất thiết phải là người luôn tìm tòi
học hỏi (a man of learning), bởi vì ngài có nhiệm vụ phải lãnh đạo một đoàn ngũ
đông đảo những người có học thức. Còn cần thiết hơn nữa, ngài phải là con người
có tính thận trọng, giàu kinh nghiệm về các vấn đề thiêng liêng để có thể phân
biệt (discriminate) rõ các
loại thần khác nhau và đưa ra chỉ dẫn cho một đoàn ngũ đông đảo những con người
đang có các nhu cầu thiêng liêng khác nhau. Bởi vì sẽ phải gặp gỡ và tiếp xúc
với rất nhiều hạng người khác nhau – ở trong nội bộ cũng như bên ngoài dòng Tên
– và sẽ phải đối diện với vô số các loại vấn đề khác nhau (chứ không chỉ các
vấn đề thuộc phương diện thiêng liêng mà thôi), nên ngài cần phải có khả năng discreción – tức là khả năng nhận định
(discernment) hay phân
biệt (discrimination). Mối
liên kết ấy – giữa khả năng nhận định và tính thận trọng – được đề cập đến, khi
có một vấn đề cần được giải quyết liên quan đến việc thu nhận một ứng viên tuy
đang gặp ngăn trở nghiêm trọng, nhưng lại có những khả năng trổi vượt. Trong
trường hợp đó, xử lý thế nào ‘là tùy nơi discreción
của người có thẩm quyền thu nhận.’ Một vấn đề khác – liên quan đến việc nhận
định/ discréción của người thu nhận người vào Dòng – đó là trường hợp đã quyết
định thu nhận các học viên mà trước đó đã không thận trọng cân nhắc cho kỹ
lưỡng. Bản văn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải có một sự hiểu biết đầy đủ để
có thể nhận định xác đáng hơn về vấn đề là liệu việc quyết định giữ lại những
học viên thuộc trường hợp nêu trên có phù hợp với mục đích “ngợi khen và làm
sáng danh Thiên Chúa và Chúa chúng ta hơn” hay không. Ba trường hợp bản Hiến pháp dùng đến từ discernir (nhận định) – như vừa đề cập
đến trên đây – cho thấy rõ ràng là hoạt động nhận định không bị gói gọn vào
việc phân biệt các thúc đẩy nội tâm khác nhau như được mô tả trong cuốn Linh Thao; đúng ra mà nói, hoạt động
nhận định có tính cách mở rộng bao quát đến bất kỳ một hoàn cảnh sống nào của
con người, vào bất cứ khi nào một tình trạng khác biệt nào đó xuất hiện và đặt
ra những phương án lựa chọn liên quan đến những gì góp phần vào việc làm sáng
danh Thiên Chúa hơn. Thái độ thận trọng (prudence)
được coi là tiêu chuẩn cốt yếu trong hoạt động nhận định, cốt yếu hơn cả đức ái
nữa. Thiếu thận trọng, thì đức ái sẽ chỉ là caritas
indiscreta – tức, đức
ái thiếu nhận định – mà thôi.
Từ discreción
được dùng đến bốn mươi lần trong bản Hiến
pháp. Trong một nửa số lần đó, bản văn dùng từ này để đề cập đến
hoạt động nhận định của người bề trên, coi đó như là yếu tố quan trọng trước
hết trong trách nhiệm của ngài. Việc quyết định phải làm điều này hay điều kia
như thế nào, chủ yếu tùy
thuộc vào sự nhận định của “người có trách nhiệm trên những người khác.” Bản Hiến pháp không gán quyền nhận định cho
những người khác ngoài các bề trên, mặc dù một cách thoáng qua, bản văn có đề
cập rằng “đối với những việc phải làm,” người ứng sinh dòng Tên cần có “khả
năng discreción, hoặc chứng
tỏ có óc phán đoán tốt là nền tảng để đạt đến khả năng này.” Cả đến khái niệm
về dạng hoạt động nhận định tập thể – tức nhận định cộng đoàn – cũng hoàn toàn
không thấy được đề cập trong bản Hiến
pháp.
Bản Hiến
pháp nêu bật hết sức rõ ràng sự cần thiết của hoạt động nhận định
trong các quyết định liên quan đến nơi chốn, thời gian, và con người.” Cả trong
những lãnh vực như việc hoạch định thời gian biểu ngủ nghỉ chẳng hạn, “không
thể có một qui định chi ly được”, bởi vì mỗi người mỗi tâm tính khác nhau. Bởi
thế, bản Hiến pháp để rộng
đường cho discreción của các
vị Bề trên trong việc quyết định rút ngắn hay kéo dài khoảng thời gian ngủ nghỉ
của người dưới quyền. Cũng trong một ngữ cảnh tương tự, bản văn dùng từ prudencia (thận trọng) thay cho từ discreción. Ở một đoạn văn then chốt –
trong đó đề ra những chỉ dẫn, cho hết thảy mọi người đang thi hành sứ vụ trong
Dòng, về cung cách “liên kết cộng tác với vô số những con người khác nhau ở
khắp mọi miền,” cũng như về việc tận dụng mọi phương tiện có thể được nhằm
phụng sự Thiên Chúa cho hữu hiệu hơn – thánh I-nhã đã nhấn mạnh rằng cung cách
hành xử (comportment) này “chỉ
có thể đạt được nhờ tác động xức dầu của Thánh Thần và nhờ sự khôn ngoan mà
Thiên Chúa thông ban cho những ai tin cậy vào Quyền Năng Chí Tôn của Người.” Đề
cập đến một người làm việc (worker)
đặc biệt quan trọng trong Dòng, tức bề trên cả, bản Hiến pháp đòi hỏi vị này phải để ý trông coi việc tuân giữ
các khoản hiến luật này “trong khi vẫn xét đến bối cảnh con người, nơi chốn,
thời gian, cùng những hoàn cảnh khác.” Ngài sẽ thực thi bổn phận này với khả
năng discreción mà Đấng là
Ánh sáng Vĩnh cửu sẽ trao ban cho ngài.
Phiên dịch từ discreción là “thận trọng” (prudence) thay vì “nhận định”
(discernment) không phải là sai. Đây là cách dịch đã có ngay từ thuở ban đầu. Ở
một đôi chỗ, danh từ discreción
trong tiếng Tây Ban nha được dịch bằng từ prudentia
trong bản dịch chính thức bằng tiếng Latinh. Bởi đó, không có gì là lạ khi song
song với thuật ngữ discreta caritas
– đức ái có nhận định – bản Hiến pháp còn dùng đến thuật ngữ prudenta caritas – đức ái có thận trọng – khi bàn về thái
độ hành xử mà bề trên cả phải có trong trường hợp ngài ra việc đền tội, dựa
theo những bối cảnh về con người và theo các hoàn cảnh khác, nhưng bao giờ thì
cũng luôn nhắm đến mục đích làm sáng danh Thiên Chúa. Có những chỗ ta chờ gặp
từ discreción thì lại thấy
thánh I-nhã dùng từ prudencia
. Chẳng hạn, khi đề cập đến vấn đề lựa chọn các giáo sư giảng dạy, thì bản văn
nói rõ là sự thận trọng (prudence) là yếu tố quyết định vấn đề– dựa vào những
hoàn cảnh về nơi chốn và con người, và với cái nhìn hướng đến việc phụng sự
Thiên Chúa cho hữu hiệu hơn –. Soạn thảo bản Hiến
pháp, thánh I-nhã không nhắm đến việc cho ra đời một cuốn cẩm nang
về linh đạo với một thứ luận thuyết nhất quán được xây dựng trên những khái
niệm rành mạch và từ ngữ chính xác. Đúng hơn, ngài đã khai thác tính cách đa nghĩa
của một số thuật ngữ nhất định để có thể vạch ra một con đường tiến về phía
Thiên Chúa, ngang qua hết mọi cảnh huống phức tạp của cuộc nhân sinh vốn đòi
hỏi con người phải tự mình chọn lựa, quyết định, phán đoán. Từ discreción vẫn tiếp tục mang lấy ý nghĩa
chỉ về mọi hoạt động liên quan đến việc nhận định thần loại; và như thế, discreta caritas – đức ái có nhận định
– là dạng đức ái có thể giúp “điểm mặt” được các loại “thần” đang tác động trên
chúng ta: điều tốt và điều xấu, điều ít tốt và điều tốt hơn, tình yêu hướng về
lợi lộc của bản thân (amour-propre,
lòng tự ái) và vinh quang cả sáng hơn của Thiên Chúa. Ý nghĩa đặc thù ấy của từ
discreción làm nên – hoặc
đúng hơn, xác nhận cho thấy – mối dây liên kết giữa hai bản văn là Linh thao và Hiến pháp. Chính sự đề cập đến hoạt
động nhận định, khiến cho bản Hiến pháp
được coi như là bản văn diễn dịch có tính định chế (institutional translation) của bản Linh Thao. Trong tiến trình nhận định
như thế, đo lường (measuring)
là một yếu tố đặc trưng quan trọng. Trong một tiến trình nhận định, đương sự dĩ
nhiên cần phải đo lường khả năng và năng lực của bản thân mình, hay là của
những người khác. Bản Hiến pháp
đề ra quy định không được kéo dài thời gian thể thao, “vượt quá chừng mực theo sự nhận định (discreción).”
Nhận định ra được hướng đi đúng đắn thường đồng nghĩa với việc tìm được điểm
trung dung vàng ngọc – sự chừng mực – ở giữa các thái cực khác nhau. Ta có thể
thấy khía cạnh này của discreta caritas
ở một đoạn viết gây tranh cãi trong bản Hiến
pháp. Trong phần thứ sáu, chương thứ ba đã trình bày cho các thành
viên trong Dòng những công việc họ nên làm và những công việc họ phải tránh xa.
Không được để các cá nhân tùy sở thích lựa chọn sắp đặt về thời giờ dành cho
việc cầu nguyện, học tập, và đền tội. Sự sắp đặt các giờ giấc đó phải thích ứng
với mỗi người tuỳ theo hoàn cảnh và nhu cầu cá nhân của họ dưới sự hướng dẫn
của bề trên, phù hợp với tinh thần discreta
caritas mà chính thánh I-nhã đã giải thích cách minh bạch. Bởi tiêu
đích mà thánh I-nhã nhằm đến qua tinh thần discreta
caritas chính là một tình trạng quân bình: không nên có sự thái quá
để làm suy giảm sức lực của người tông đồ và làm mất đi nghị lực để dấn thân
phục vụ tha nhân; đồng thời phải làm sao vừa giữ cho nhiệt huyết trong tâm hồn
không nguội đi, vừa ngăn những đam mê thấp hèn của con người đừng sôi dậy. Discreta caritas là vấn đề trạng thái
trung dung vàng ngọc: một sự chừng mực thích hợp giữa sự nhiệt thành quá mức và
sự trở nên nguội lạnh trong đời sống của một người tông đồ, và – cũng thế – một
sự chừng mực giữa một lối sống theo sở thích cá nhân và một quy luật có tính
cách bắt buộc đối với tất cả mọi người, bởi chẳng thể nào đưa ra được những quy
định cụ thể tương hợp với mọi mức độ của khả năng thể lý và hết mọi công việc
chung có liên quan đến bác ái và vâng phục. Trong khi mạnh mẽ xác quyết về nhu
cầu phải có một tinh thần discreta
caritas nhằm tìm ra con đường thích hợp giúp tiến về với Thiên Chúa
qua công tác phục vụ tha nhân, thánh I-nhã đã giả thiết là phải có một mức độ
trưởng thành thiêng liêng nào đó. Rõ ràng là Ngài chỉ nói về quy tắc discreta caritas với những Giêsu hữu đã
trưởng thành về mặt thiêng liêng, và đã tiến bộ đủ trên con đường bước theo Đức
Kitô đến mức có thể chạy được trên con đường đó.
Như thế, thánh I-nhã đã không nói với những ai
vẫn còn đang ở trong quá trình thụ huấn khi ngài tiên liệu khả năng thực tế là
một người có thể đạt tới một tầm mức trưởng thành thiêng liêng, đến độ không
còn cần phải truyền dạy người ấy một quy tắc nào khác ngoài quy tắc do chính
đức ái có nhận định chỉ dạy. Và ngay cả đối với những người đã hoàn tất quá
trình thụ huấn xét theo luật Dòng, vẫn cần phải áp dụng lưu ý sau của Tổng hội
31: “chúng ta vẫn là những tội nhân, và
đối với chúng ta, quá trình tiến lên trên con đường bước theo Đức Kitô vẫn là
một cuộc hoán cải liên tục.” Như thế, vị bề trên có thể sẽ phải đặt
ra quy định về thời gian cầu nguyện cho một số người nào đó – ở đây, thánh
I-nhã không phân biệt những Giêsu hữu đã thụ huấn xong với những người còn đang
ở trong quá trình thụ huấn – nếu thấy rằng đó là điều cần thiết nhằm giúp họ
loại bỏ được tình trạng thực hành các việc thiêng liêng ở mức độ quá nhiều hay
quá ít.
Trong lịch sử Dòng Tên, nhất là trên phương
diện đời sống cầu nguyện của cá nhân và cộng đoàn, không thiếu những trường hợp
có Giêsu hữu nại quy tắc discreta caritas
làm cơ sở để gạt bỏ mọi quy định; họ cho rằng quy định là đi ngược lại với đặc sủng I-nhã. Đặc
biệt là vào thế kỷ thứ mười sáu, các vị bề trên cả đã không ngần ngại ban hành
các quy định về cách thức và thời gian cầu nguyện, áp dụng cho toàn Dòng, chính
là nhằm tránh tình trạng thái quá hoặc bất cập trong sinh hoạt cầu nguyện.
Trong bản Hiến pháp, thánh
I-nhã đã không loại trừ khả năng hành động như thế trong những trường hợp xét
thấy là thích đáng; tuy nhiên, mặc dù như thế, ngài cũng đã mở ra chân trời của
một thứ discreta caritas mà
không quyền bính nào trong Dòng sẽ bãi bỏ hoặc thay đổi. Nhờ đó mà Tổng hội 31
(1965-1966), trong một sắc lệnh về cầu nguyện, đã có thể tuyên bố rằng mình
không muốn áp đặt lên mọi người một luật phổ quát về hình thức và thời gian cầu
nguyện. Tổng hội 31 đã để tâm lưu ý đến sự thay đổi về nhận thức của người thời
nay, tuy vẫn quả quyết nhấn mạnh đến tính cách tuyệt đối cần thiết của đời sống
cầu nguyện cá nhân. Quy tắc về một giờ cầu nguyện phải được áp dụng cách mềm
dẻo với từng người, tuỳ theo hoàn cảnh và nhu cầu của họ, dưới sự hướng dẫn của
bề trên và phải phù hợp với quy tắc discreta
caritas mà chính thánh I-nhã đã vạch ra cách minh bạch trong bản Hiến pháp. Qua mấy thế kỷ, tuy chưa bao
giờ bị gạt bỏ hay lên án, discreta
caritas đã từng bị coi như là một lý tưởng không thể đạt tới của
linh đạo I-nhã, và đôi khi cũng bị coi như chỉ làm cớ chữa mình cho những con
người có lối sống tự do thái quá và vô trách nhiệm. Tổng hội 31 đã phác họa discreta caritas như là một nét đặc
trưng nổi bật của linh đạo I-nhã, một sự kết hợp hài hoà giữa tình yêu và lý
trí, giữa lòng nhiệt thành và thái độ thận trọng, giữa tình trạng tự do thiêng
liêng và mọi quy định cần thiết. Tổng hội đã quyết định giữ nguyên thuật ngữ
Latinh discreta caritas để
không làm mất đi ý nghĩa phong phú và đa năng của nó qua những cách dịch khác
nhau vốn không biểu đạt được trọn vẹn ý nghĩa của lý tưởng thiêng liêng này.
Những cách dịch đó có thể là: “đức ái sáng suốt” (enlightened charity), “đức ái thận trọng” (prudent charity), “đức ái chừng mực” (moderated charity), hay “đức ái có hiểu
biết” (intelligent charity).
Tương tự như thế, cả cách dịch được coi là rõ nghĩa và chuẩn xác như “đức ái
thận trọng,” (discreet charity) cũng có xu hướng giảm thiểu ý nghĩa của discreta caritas thành mối bận tâm làm
sao tránh được những nguy hiểm và, trên hết, những nguy cơ rủi ro. Quả là discreta caritas có bao hàm sự chừng
mực, việc tránh thái quá và bất cập, việc duy trì sự trung dung giữa các thái
cực khác nhau. Tuy nhiên, điều này không mâu thuẫn với tinh thần magis của thánh I-nhã, hay với bậc
khiêm nhường thứ ba, theo đó, “tôi ước ao bị coi là dại dột và điên rồ vì Chúa
Kitô, Đấng đã bị coi như thế trước, hơn là được coi như người khôn ngoan và cẩn
trọng ở thế gian này.” Chính đức ái thúc đẩy niềm khao khát này của Kitô giáo. Discreción ở đó không nhằm để hãm đà
của đức ái, hay để làm cho nó nhạy bén hơn, nhưng là để đặt niềm khao khát này
vào trong thánh ý Chúa, vì tôi phải được Chúa chọn “để tôi có thể noi gương và
phụng sự Chúa hơn, nếu vì thế
mà Danh Chúa chí tôn được cả sáng hơn.” Caritas
được coi như là hoa trái của hoạt động phân biệt thần loại.
Thế hệ các Giêsu hữu đầu tiên đã có xu hướng
thiên về việc thực hành các hoạt động khổ chế và sám hối, các hình thức đạo đức
và cầu nguyện lâu giờ. Điều này đã khiến thánh I-nhã phải tiết chế lại lòng
nhiệt thành quá mức của các anh em mình; và do đó, ngài đã mặc cho discreta caritas một ý nghĩa phụ là sự quân bình, không đi
quá đà “đến chỗ khắc khổ thái quá hoặc đến chỗ buông thả quá mức.” Tuy nhiên,
trong công tác huấn luyện học viên, luôn với một tinh thần nhận định, Viện
trưởng phải phán đoán xem từng học viên phải được chỉ định làm gì để đạt đến
mức “hơn” trong các việc thiêng liêng của họ. Nhằm có khả năng giúp ích nhiều
hơn cho tha nhân mình trong tương lai, các học viên được đòi hỏi phải tìm cách
xa tránh bất kỳ điều gì gây trở ngại và làm xao nhãng tinh thần học tập, chẳng
hạn như các thực hành đạo đức và khổ chế. Các việc đạo đức và khổ chế này, học
viên sẽ phải làm với một lòng ao ước không ngừng lớn dần lên, nhắm đến việc
phụng sự và làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng “ người có trách nhiệm chính phải
cân nhắc, với discreción, xem
học viên nên làm tới mức nào.” Một điều có ý nghĩa là khi ra khỏi mục bàn về
huấn luyện, bản Hiến pháp ít
sử dụng từ discreción hơn.
Việc huấn luyện được trình bày như là một tiến trình học hỏi nghiêm túc, nhằm
tới việc thủ đắc được tinh thần discreta
caritas.
Đến đây, bài khảo luận này đã trình bày về discreta caritas trong bối cảnh đời
sống cá nhân của các Giêsu hữu. Tuy nhiên, bản Hiến pháp dùng đến thuật ngữ này hai lần khi bàn đến vấn
đề sa thải người ra khỏi Dòng. Chính trong tinh thần discreta caritas mà vị bề trên cần phải
thận trọng cân nhắc trước mặt Chúa những lý do của việc thải hồi. Một tinh thần
discreta caritas được vận
dụng thích hợp, sẽ giúp đề ra được những biện pháp cần thực hiện nhằm giải
quyết trường hợp những người muốn rời bỏ nhà Dòng để đi vào một dòng tu khác.
Khi đề ra những phẩm tính mà vị bề trên cả cần phải có, bản Hiến pháp coi khả năng nhận định là “cực
kỳ cần thiết” trong các vấn đề bên ngoài, trong cách thức tiếp cận và xử lý các
vấn đề hết sức đa dạng, cũng như trong cung cách liên hệ với rất nhiều loại
người khác nhau, cả bên trong lẫn bên ngoài Dòng. Cũng thế, khi có ai đó mong
muốn đảm nhiệm các “công tác bác ái phần xác,” thì vị bề trên phải dùng đến discreción của mình mà định đoạt những
gì cần được ưu tiên – với giả định rằng những việc thiêng liêng thì “quan trọng
hơn”; và trong khi tiến hành việc nhận định như thế, thì vị bề trên “sẽ luôn
hướng cái nhìn của mình về mục đích phụng sự Thiên Chúa nhiều hơn, cũng như về
ích lợi phổ cập,” coi đó như thước đo giúp đánh giá xem “nên làm những việc đó
tới mức nào.” Hoạt động nhận định như thế cũng được áp dụng để xem xét việc đảm
nhiệm các “công tác bác ái” tuy không thuộc lãnh vực của Dòng nhưng lại có tầm
quan trọng đối với vịêc phụng sự Thiên Chúa. Chính tinh thần discreción sẽ dạy chúng ta biết nên
chọn điều gì. Và tất nhiên, chúng ta thường thấy thánh I-nhã nhắc đến tinh thần
discreta caritas trong các
thư của ngài. Một trong rất nhiều thí dụ điển hình là trường hợp thánh I-nhã đã
viết một bức thư khá dài (20.02.1555), đề ra những chỉ dẫn định hướng cơ bản về
sứ vụ truyền giáo tại Ethiopia, một sứ vụ tông đồ mà ngài thiết tha yêu mến.
Bởi vì không nắm rõ hoàn cảnh thực tế ở đó, nên thánh I-nhã nhấn mạnh rằng các
chỉ dẫn ngài đưa ra chỉ là những lời khuyên gợi ý mà thôi, và rằng cha Nunes
Barreto đừng nên buộc mình phải nhất nhất tuân theo các chỉ dẫn đó: “đúng hơn,
với ý thức về hoàn cảnh thực tế, [cha Nunes Barreto] cần tuân theo những gì mà discreta caritas và tác động xức dầu
của Chúa Thánh Thần – Đấng phải được coi là người hướng dẫn chính yếu cho cha
trong mọi sự – sẽ chỉ dạy” Mối liên kết nêu ở đây, giữa discreta caritas và tác động xức dầu
của Thần Khí, tuy cũng xuất hiện trong bản Hiến
pháp, nhưng ít gặp hơn. Thánh I-nhã ý thức rất rõ rằng “những sứ vụ
viên của Dòng” sẽ phải đối diện với những hoàn cảnh bất ngờ và không thể lường
trước. Đương nhiên, ít nhất thì ngài cũng có thể đưa ra một số lời khuyên về
cách hành động trong một lãnh vực hoạt động tông đồ hoàn toàn mới mẻ; tuy vậy,
mục đích thánh I-nhã nhắm đến khi đưa ra những lời khuyên như thế, là để giúp
chúng ta biết lưu tâm lắng nghe những điều mà chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể
chỉ dạy, dựa vào khả năng prudencia
mà Thiên Chúa thường ban cho những ai đặt lòng tin cậy vào Quyền Năng Chí Tôn
của Người.
Trong các thư liên quan tới các bối cảnh tông
đồ mà khó có thể đoán trước hoặc tiên lượng về những gì phải làm hay phải chọn,
khi thánh I-nhã nhắc tới discreta caritas
là Ngài liên kết chặt chẽ giữa một bên là tác động xức dầu của Thần Khí, Đấng
chỉ dạy mọi điều (x. 1Ga 2:27), với bên kia là hoạt động nhận định hay thái độ
thận trọng. Khi ngỏ lời với các bạn đồng hành được gửi đi vào sứ vụ (ngày
08.10.1552), thánh I-nhã nói rằng tinh thần nhận định vượt khỏi mọi quy luật,
bởi vì có nhiều hoàn cảnh khác nhau cả về thời gian, nơi chốn lẫn con người. Do
đó, các anh em này cần phải để tác động xức dầu của Chúa Thánh Thần hướng dẫn
mình. Nhờ chú tâm suy tư và quan sát, họ có thể học được cách hành động trong
sự liên kết phối hợp với tác động xức dầu ấy. Ở đây, chính thuật ngữ discreta caritas không được nêu lên,
nhưng nội dung lại được phác họa một cách đầy đủ. Cũng có thể thấy được điều
này trong bức thư mà Juan de Polanco đã nhân danh thánh I-nhã viết cho viện
trưởng trường đại học
Những gì nêu lên ở đây, liên quan đến thư từ
của thánh I-nhã, là điều quan trọng cần lưu ý. Trong bản Hiến pháp, thỉnh thoảng lại có sự trượt
nghĩa của từ discreción để
chỉ còn nghĩa là sự kín đáo hay cẩn trọng; và điều này có thể làm cho nhiều
người nghĩ rằng discreción
chỉ có nghĩa là “biết suy xét theo lẽ thường” (common sense), “có óc thực tế” (savoir faire), hoặc một khả năng phán
đoán tốt, giữ được sự trung dung vàng ngọc, không thái quá cũng không bất cập.
Nói cho cùng thì chẳng phải thánh I-nhã được nhìn nhận là một bậc thầy về nhận
định, theo nghĩa là một tấm gương về khả năng tự chủ và quân bình hoàn hảo đó
sao? Tuy nhiên, cách hiểu như thế về discreción
lại bỏ sót một yếu tố quan trọng trong tinh thần discreta caritas: luật nội tâm của đức
ái và của tình yêu Chúa mà Chúa Thánh Thần hằng ghi khắc trong các tâm hồn. Yếu
tố này biến đổi sự phán đoán hợp lẽ trong hoạt động nhận định thành một con
đường tình yêu hướng về Thiên Chúa. Chính vì thế mà hoạt động nhận định mới là
thánh thiêng, và là một ân huệ của Đấng là Ánh sáng vĩnh cửu. Những ai gia nhập
Dòng Tên, cần phải gác bỏ một bên “tất cả những gì là cảm tính thuần túy tự
nhiên” và phải nhận định để làm sao biến đổi mọi tình cảm con người tự nhiên
của mình thành lòng mến thiêng liêng, và phải làm sao để yêu mến những người
thân thiết với mình chỉ với tình yêu theo đòi hỏi của đức ái có trật tự – một
thứ đức ái cốt ở thái độ chết đi đối với thế gian và đối với tình yêu vị kỷ, để
chỉ còn sống cho Đức Kitô Chúa chúng ta, Đấng thế chỗ cha mẹ, bạn bè và mọi sự
đối với họ. Để làm sáng tỏ ý nghĩa của hình ảnh (kim của bàn cân) mà chính thánh I-nhã đề nghị trong cuốn Linh thao, discreción là tìm kiếm con đường thích hợp phải đi giữa
những ao ước và những sợ hãi, giữa những gì có thể làm được và những gì không
thể làm được, giữa những khả năng và các giới hạn, giữa thần tốt và thần xấu.
Việc ấy đòi phải biết để tâm cân nhắc các bối cảnh con người, thời gian, nơi
chốn và các hoàn cảnh khác. Và tất cả những điều này cốt nhắm đạt tới một tình
trạng cân bằng, như chiếc kim trỏ vào vị trí chính giữa bàn cân, mọi sự đều
được sắp đặt đâu vào đó để sẵn sàng đón nhận sự can thiệp của “đức ái,” hầu nhờ
đó một người có thể theo đuổi, với tinh thần discreta
caritas, những gì mình cảm thấy là thích hợp hơn cho việc tôn vinh
và ngợi khen Thiên Chúa Chúa chúng ta. Người đó sẽ trở nên “bình tâm,” theo
nghĩa của thánh I-nhã, trong một hoạt động nhận định vốn giả thiết phải có một
thái độ thực sự tự do cũng như một mối thân tình đích thực với Thiên Chúa, để
rồi chính Thiên Chúa là Đấng giúp họ phân biệt các khả thể khi phải chọn lựa
trong các tình huống cụ thể của thực trạng cuộc sống ngày hôm nay.
Thánh Phanxicô Xaviê cũng đã phải đưa ra những
quyết định lựa chọn thuộc dạng này. Trong các thư từ của mình, mặc dù không
nhắc đến thuật ngữ discreta caritas, nhưng ngài cho thấy là đã sống
trọn vẹn tinh thần này. Ngài đã đưa ra một quyết định quan trọng là rời bỏ Ấn
độ để chuyển đến Nhật bản; và ngài đã trình bày về quyết định này trong bức thư
đề ngày 20 tháng 06 năm 1549, gửi đến Vua Gioan III của Bồ Đào nha, và trong
một bức thư khác, gửi đến thánh I-nhã, đề ngày 12 tháng 01 năm 1549. Có tinh
thần Caritas trong các bức
thư này, bởi vì thánh Phanxicô thừa nhận là “Chúa Chí tôn đã vui lòng làm cho
tôi cảm nhận được trong tâm hồn mình rằng tôi đi Nhật bản là phụng sự Người.”
Việc thực hành discreta caritas
ấy của ngài dựa trên “vô số những thông tin tôi có được, về đất nước Nhật bản,”
và với ý thức về những nguy cơ rủi ro của thực tế là “cứ bốn chiếc thuyền, thì
có đến hai chiếc khởi hành mà không bao giờ đến được nơi đó.” Dẫu tình hình là
thế, nhưng “tôi sẽ không từ bỏ ý định đến Nhật, xét vì những gì tôi cảm nhận
dạt dào trong tâm hồn mình, cả khi tôi biết chắc là mình sẽ gặp phải những nguy
hiểm ác liệt hơn những gì tôi đã từng trải qua.” Tuy ngài có cái nhìn thực tế
như thế, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng can thiệp để đưa đến sự khác biệt
trong một tiến trình nhận định đã có cân nhắc đến những thuận lợi và bất lợi,
những lý lẽ đưa ra cho các phương án lựa chọn với “cái nhìn nhằm đến việc tôn
vinh Thiên Chúa hơn, cũng như hướng đến ích lợi chung.” Khi đứng trước những
giao lộ gay go nghiêm trọng, theo bước chân thánh I-nhã, thánh Phanxicô đã
triệt để dấn thân vào tiến trình hết sức phức tạp mà tinh thần discreta caritas đòi hỏi – thực ra,
những lời lẽ đơn sơ và cung cách biểu đạt nhẹ nhàng về tinh thần này, đã phần
nào làm che khuất đi tính cách phức tạp tiềm tàng bên dưới. Làm cách gì để đạt
đến được một thái độ hoàn toàn bình tâm như thế, đến mức độ một ngừơi dấn thân
trọn vẹn – đặc biệt là đối với một con người hằng sục sôi trong mình nhiệt tâm rao
giảng Tin Mừng, như thánh Phanxicô? Thánh nhân có thể làm được như thế là vì ở
phía bên kia giao lộ là chính Chúa đang đứng đợi ngài. Trong tiến trình nhận
định, Chúa cho con người được tự do để tìm kiếm và nhận ra, để thuận theo thánh
ý Người hoặc không, bằng một “lựa chọn có suy xét”; dù vậy, Chúa cũng là Đấng
mà tôi phải xin ơn được biết lựa chọn điều gì qui hướng nhiều hơn về vinh quang
Chúa Chí tôn và về phần rỗi linh hồn mình.
Tính cách phức tạp của tiến trình nhận định
theo tinh thần discreta caritas
cũng lộ hiện rõ ràng trong các thư từ và trong bản Memoriale của Chân phước Phêrô Favre. Ấn tượng nổi bật khi
đọc bản Memoriale là về việc
tinh thần discreta caritas
được nhắc đến liên tục. Favre không ngừng đưa vào trong hoạt động nhận định
tông đồ của mình những lựa chọn thực tế. Trong khi thực hành các việc đạo đức
và cầu nguyện, Ngài luôn cảm thấy nhu cầu cần phải có một ý hướng tinh tuyền,
và cần phải nỗ lực thanh luyện các thái độ của mình. Phêrô Favre đã rất hạnh
phúc mà thừa nhận rằng điều ngài yêu thích hơn cả chính là thái độ tuân phục
như là điều mang lại sự thánh thiện và tinh tuyền nhiều hơn: đây là sự vâng
nghe thụ động những khi mà discreta
caritas đòi hỏi một sự dấn thân tích cực và chủ động vào việc tìm
kiếm ý Chúa. Trong bức thư ngài gửi đến thánh I-nhã, đề ngày 27.04.1542, có một
đoạn viết rất khó dịch: mô tả về thái độ tuân phục, Favre đã dùng đến các từ “prudence”
(thận trọng) và “discreción”
vốn là những từ có liên quan đến discreta
caritas. Và Phêrô Favre sốt ruột chờ đợi bức thư phản hồi kèm theo
quyết định từ thánh I-nhã. Ngài muốn biết mình nên làm gì, bởi vì – như ngài
nhấn mạnh – có một sự khác biệt giữa việc hành động theo ý thích cá nhân và
việc hành động dưới sự dẫn dắt của tuân phục. Trong đoạn viết ấy, đề cao thái độ
tuân phục như là lời khuyên phúc âm hoàn hảo, ngài nhận định qua câu kết như
sau: đó là thái độ thận trọng đích thực và, trên hết, là “discreción trọn vẹn.” Phải chăng đây
chỉ là cách nói bóng bẩy của văn chương hùng biện? Có lẽ không phải như thế.
Trong một huấn thị gởi đến các học viên ở đại học Coimbra – có lẽ là vào tháng
12.1544 – Favre đã trình bày vấn đề theo cách sau đây: Hãy hình dung ra tình
huống một Giêsu hữu đang khát khao dấn thân vào một dự án tông đồ hữu ích, và
nhận thấy rằng niềm khát khao ấy của anh là từ Chúa mà ra; rồi hãy tưởng tượng
rằng điều mà cũng vị Chúa ấy thực sự muốn anh thực hiện lại là điều mà bề trên
của anh vạch ra, và điều này chẳng phù hợp chút nào với những gì anh đang khát
khao, mong muốn. Vậy thì, trong trường hợp này, Phêrô Favre đang mặc nhiên thừa
nhận là có sự hiện diện của tinh thần discreta
caritas, bởi vì chính Chúa là Đấng đang thôi thúc người Giêsu hữu
kia hướng về điều tốt. Tuy nhiên, khước từ mọi cảm giác cho đó là mâu thuẫn,
Phêrô Favre kết luận rằng sự tuân phục làm cho ta nghe được tiếng Chúa hòan
tòan, là một sự vâng phục “mù quáng”, đó là phương thế giúp ta gạt bỏ hết mọi
ước muốn, khả năng, và ý riêng, để vác lấy thập giá khi chấp hành trọn vẹn ý
muốn và ý kiến của các bề trên. Thái độ tuân phục triệt để ấy cũng được bản Memoriale đề cập đến, trong đó, có vẻ
như nó chính là mức độ tuyệt đỉnh của tinh thần discreta caritas. Hồi ấy, Đức Giám mục giáo phận
Chủ đề này còn trở lại trong phần sau của bản Hiến pháp: “Được phép tự do trình bày
những tư tưởng cùng điều xảy đến trong lòng. Tuy nhiên, như đã được bàn đến
trong Bản Khảo Sát, người đó phải sẵn sàng trong mọi sự để nhận là tốt hơn,
điều mà bề trên của người đó coi là tốt hơn.” Khi được bề trên sai đi sứ vụ,
sau khi đã làm cuộc nhận định, nếu một Giêsu hữu bị tác động bởi “những thúc
giục hoặc tư tưởng có tính cách trái ngược với mệnh lệnh đã nhận.”, thì có thể
bày tỏ cho bề trên thấy rõ kết quả cuộc nhận định của mình. Tuy nhiên, người
Giêsu hữu này sẽ phải “đặt hết thảy mọi phán đoán và ý muốn của mình dưới sự
phán đoán và ý muốn của bề trên mình là người thay mặt Đức Kitô Chúa chúng ta.”
Khi đó, xung đột có thể nảy sinh, và Tổng hội
32 đã xem xét vấn đề vấn nạn lương tâm có thể xảy ra (conscientious objection). Qua những
tuyên bố của mình về vấn đề này, Tổng hội 32 dự kiến là phải có những cuộc đối
thoại, tham khảo ý kiến và sự can thiệp của những người trung gian, cũng như
không loại trừ khả năng là sẽ có một sự chia tay để mỗi bên liên quan có thể
tôn trọng lương tâm đã được soi sáng của nhau. Những nét đặc trưng của tinh
thần discreta caritas không
bị mất đi trong một cuộc xung đột dạng này. Sở dĩ thế là vì nếu tinh thần discreta caritas thực sự được áp dụng
trong trường hợp này, nó sẽ giúp duy trì được – ngay trong cuộc xung đột – cả
tình bạn lẫn thái độ tuyệt đối tôn trọng tự do của nhau giữa đôi bên. Tình
trạng xung đột ấy chẳng qua là một dạng nỗ lực mới mẻ trong việc tìm kiếm thánh
ý Thiên Chúa. Không loại trừ khả năng xảy ra tình huống xung đột như thế, bản Hiến pháp khuyến khích đương sự hãy chủ
động và tích cực dự phần vào hoạt động discreta
caritas của bề trên mình. Nếu cảm thấy “một điều gì đó khác” là cần
thiết hơn điều mà bề trên đã quyết định, thì sau quá trình cầu nguyện và hồi
tâm suy ngẫm, đương sự nên trình bày vấn đề cho bề trên hoặc cho người mà bề
trên chỉ định, với thái độ xác tín rằng “những gì bề trên quyết định sau khi đã
nghe trình bày về vấn đề, là thích hợp hơn cả cho việc phụng sự Thiên Chúa, và
vì ích lợi lớn lao hơn cho đương sự, trong Chúa chúng ta.”
Chỉ nguyên mức độ xuất hiện của những cách biểu
đạt như “phán đoán trong Chúa,” cũng đã nêu bật được tầm ý nghĩa quan trọng
thực sự của “tính cách thận trọng,” “thái độ nhận định,” tinh thần discretio và discreta caritas trong bản Hiến pháp cũng như trong các tác phẩm
của những Giêsu hữu đầu tiên. Sau hết, có lẽ có người sẽ để ý nhận ra và lấy
làm lạ về việc không hề đọc thấy trong bản Hiến
pháp các cụm từ như “khôn ngoan” và “sự khôn ngoan” (wise và wisdom), ngoài các cụm từ “thận trọng” và “sự thận trọng”
(prudent và prudence). Khi soạn thảo bản Hiến pháp, thánh I-nhã quan niệm sự
khôn ngoan như một phẩm tính dành riêng cho Thiên Chúa. Chính đức khôn ngoan
của Thiên Chúa, ở mức độ tuyệt hảo tối cao, đã đoái nhìn để cho Dòng được khởi
sự; chính đức khôn ngoan ấy mới duy trì, hướng dẫn và làm cho Dòng tiến bước
được; đức khôn ngoan kêu gọi, hoặc không kêu gọi người ta vào Dòng; và đức khôn
ngoan ấy giúp sọan thảo bản Hiến pháp,
để ngợi khen và làm sáng danh Người hơn nữa. Quan trọng hơn cả, chỉ nhờ ánh
sáng toả xuống từ Đấng là Sự Khôn ngoan đệ nhất và tối cao, mà một người mới có
thể nhận định được điều mình phải quyết định. Chính vì lý do này mà hoạt động
nhận định qua cầu nguyện được coi là điều tất yếu. Tinh thần discreta caritas phải mặc lấy cùng phản
chiếu hình ảnh và dung mạo của Đấng Tốt lành và Khôn ngoan vĩnh cửu, để khi một
người đón nhận ý muốn và phán đoán của bề trên như là quy luật cho ý muốn và
phán đoán của riêng mình, là người ấy đang khuôn mình sát hơn theo quy luật đệ
nhất và tối cao điều khiển tất cả mọi ý muốn tốt lành cũng như hết thảy mọi
phán đoán: quy luật ấy là chính Đấng Tốt lành và Khôn ngoan vĩnh cửu. Bởi đó, discreta caritas xuất hiện trong bản Hiến pháp như là chuẩn mực mà một người
phải lo tuân giữ trong hết mọi sự: chuẩn mực đó là tác động xức dầu của đức
Khôn ngoan thần linh, là đức Khôn ngoan sẽ dạy dỗ cho những ai đã nhận bổn phận
ấy nhằm phụng sự và ngợi khen Người hơn. Và giờ đây, chúng ta đã hiểu được vì
sao tình yêu (caritas) khôn
ngoan của Thiên Chúa có thể thúc bách discreta
caritas để làm cho người ta trở nên những kẻ điên dại vì Đức Kitô.
Giang Trung Kiên, S.J và các bạn chuyển dịch