CHO HAY KHÔNG CHO NGƯỜI ĂN XIN ?

(xuanbichvietnam.net) Tháng Mười Hai 23rd, 2014.

Liên quan đến một vấn đề xã hội hiện nay, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết của cha Dominique Greiner, Giáo sư tại Học viện Công giáo Paris. Bài viết này chúng tôi lấy ra từ lớp học với ngài và chuyển ngữ.

NHỮNG VIỆC BÁC ÁI: BÁC ÁI VÀ TÌNH LIÊN ĐỚI

Dominique Greiner, Học viện Công giáo Paris

Lòng bác ái có thể được biểu lộ như thế nào? Xuyên qua những công việc bác ái. Nhưng đối với nhiều người, bác ái bị nghi ngờ, từ ngữ “bác ái” gợi lên một khuôn mẫu lỗi thời, vốn che giấu tồi một sự tiếp tay đối với một trật tự xã hội bất công. Trong Deus Caritas est, số 26, Đức Bênêđíctô XVI đã nhắc lại phong trào chống đối hoạt động bác ái của Giáo Hội từ thế kỷ 19, được tư tưởng Marxít triển khai cách rõ ràng. “Việc chống đối này cho rằng người nghèo không cần đến những công việc bác ái, nhưng đòi hỏi công bằng. Những việc bác ái – việc bố thí – trong thực tế chỉ là cách thức để người giàu bỏ qua việc tái lập công bằng, ru ngủ lương tâm, bảo vệ vị trí riêng của mình và tước đi quyền lợi của người nghèo….”. Đức Bênêđíctô XVI nhìn nhận “vài điểm trong lập luận này, nhưng nhiều điểm sai lệch”.

Quả đúng là bác ái luôn bị đe dọa bởi sự đồi bại. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng cần phải chối bỏ nó. Do đó, làm thế nào khôi phục danh dự cho nhân đức này?  Đâu là phân định luân lý được thực hiện trên các việc bác ái? Những câu hỏi này được đặt ra hôm nay trong một khung cảnh được đánh dấu bằng một sự biến đổi sâu xa tình hình bác ái. Bác ái được thể chế hóa, điều đó không phải là không đặt ra vấn đề tế nhị về căn tính của các thể chế có nguồn cảm hứng Kitô giáo? Từ ngữ bác ái dường như đã mất đi một phần ý nghĩa của nó: nó được áp dụng cho mọi tổ chức quan tâm đến những người gặp khó khăn. Vả lại, người ta thích nói đến tình liên đới hay lòng nhân đạo. Có thể nghĩ gì về sự thay thế này? Đâu là mối liên hệ giữa bác ái và tình liên đới? Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta thử phân định vấn đề ăn xin.

1.  Cho hay không cho?

Chúng ta đã từng gặp những trường hợp xin xỏ của những người ăn xin qua đường, những người gặp khó khăn… Những hình ảnh quen thuộc này mang lại một khuôn mặt cụ thể cho suy tư của chúng ta. Đối diện với những lời xin xỏ này, có nhiều thái độ khác nhau. Dù sao không ai có thể dửng dưng và mỗi người tự hỏi có nên cho hay không.

Giữa sự quảng đại, không bao giờ hoàn toàn ngây thơ, và sự dửng dung, luôn luôn ít nhiều giả vờ, chúng ta có thể lấy lại ba thái độ mà mỗi thai độ đều có lý do chính đáng của nó. Có những người thỉnh thoảng cho, kiểu trợ cấp. Thái độ này thể hiện một sự tách biệt giữa những người xứng đáng với việc chúng ta cho và những người không xứng đáng. Một số người chỉ đáp lại một loại xin xỏ: chẳng hạn chỉ cho những nhạc sĩ, hay chỉ cho những nhạc sĩ “giỏi”. Như thế họ đền bù cho nỗ lực của những nhạc sĩ này. Việc cho đi này cũng có thể là tùy theo một “diễn từ” (khả năng của người xin chinh phục chúng ta) hay khía cạnh của người ăn xin.

Tiếp đến, có những người không bao giờ cho. Họ có thể bào chữa cho lối hành xử này bằng nhiều cách khác nhau. Họ không muốn khuyến khích nạn ăn xin. Lời bào chữa này tương ứng với một phán đoán luân lý về việc ăn xin. Có những người không cho bởi vì họ nghĩ là đã cho đủ rồi (cho các hội đoàn…). Nói vắn gọn, người ta không thực thi bác ái vì người ta đã chi trả vì tình liên đới. Có những người không cho để tránh việc người ăn xin nhậu nhẹt hay nghiện ngập. Thái độ này vừa có một cái nhìn đặc biệt về việc ăn xin vừa lên án một số hành xử nhân danh việc sử dụng tốt mà nên làm đối với đồng tiền của mình. Nhưng đó cũng là quên rằng việc tiêu thụ rượu hay ma túy là một triệu chứng hơn là một nguyên nhân của việc ăn xin.

Sau cùng, có những người cho một cách hệ thống. Họ cho cùng một người (họ có những người nghèo của họ) hay quyết định một ngân sách thường ngày hay hằng tuần để phân phát hay họ ban của bố thí của họ theo một nhịp độ thỏa thuận gặp người ăn xin đầu tiên… hoặc tính toán dựa vào những sở thích nghệ thuật hay dựa vào sự nhạy cảm với một hình thức bất hạnh nào đó.

Nói tóm lại, mỗi người có thể hợp lý hóa thái độ của mình bằng việc đưa ra “những lý do tốt”. Những người không cho thì nghi ngờ về bản chất của việc xin xỏ. Nhưng đó là quên một dữ kiện nền tảng. Người xin xỏ lập tức bị đặt vào một hoàn cảnh nghịch lý. Người xin thường ở trong một hoàn cảnh tế nhị với công bằng. Để là một hành vi cầu xin, việc cầu xin phải đáp lại những bó buộc. “Cách chung chung hơn, người nào chỉ tỏ ra công bằng đối với chính mình thì ít khi khả tín và dường như luôn luôn đáng ngờ việc chỉ đòi hỏi sự công bằng cho chính mình, cho dầu việc đòi hỏi này được biện minh, vì việc đòi hỏi cho bản thân là thiên vị, đang khi sự công bằng thì không như thế[1]“. Đồng thời, người qua đường không có cảm giác là bất công khi không làm gì cả, đang khi mà trên thực tế, người ấy thuộc về một sự phân phối mà loại trừ những người yếu thế nhất. Trái lại, những hoàn cảnh đặc thù nhờ phương tiện truyền thông có thể làm cho một trường hợp nên lôi cuốn hay đánh động cách đặc biệt – mà họ không đáng sự chú ý này.

Đồng thời, có một sự ngờ vực đối với những người cho. Cử chỉ cho của họ phải chăng là thực sự nhưng không? Các khoa học xã hội bị chi phối bởi tư tưởng duy lợi tỏ ra bất tín nhiệm đối với việc tặng cho này. Chúng chỉ có thể thanh minh điều đó bằng việc giả thiết rằng cách này hay cách khác “người cho” được trả công. Hệ quả là ý tưởng “bác ái” bị yếu đi. Sẽ không có cử chỉ nhưng không. Sâu xa hơn nữa, sự ngờ vực đè nặng lên tất cả mọi thực hiện cách này hay cách khác được gắn liền với một truyền thống tôn giáo hay với Giáo Hội. Giáo Hội không thể tránh khỏi một đích nhắm luân lý hóa, thống trị hay chiêu dụ tín đồ. Bác ái chỉ là một thủ đoạn, một cái cớ: người nghèo phải tồn tại để nó có thể được thực thi.

Người ta cũng tố giác bác ái nhân danh công bằng. “Và cho dầu người ta tỏ ra sẵn sàng dựa vào lời nói mà tin vào các tác nhân khi họ viện ra các nhân đức Tin Mừng như lòng trắc ẩn, lòng quảng đại hay sự quên đi chính mình, thì người ta không quên nhấn mạnh rằng, dù các ý hướng có trong sáng đi nữa, thì chúng không đủ để giúp cho các hành động thoát khỏi vòng của các tương quan liên vị: qua phạm vi hoạt động chật hẹp của mình, sự giúp đỡ vẫn chưa đạt tới hành động liên đới…[2]“. Từ đó, người ta thích dùng kiểu nói nhân đạo hơn là bác ái.

Hành trình đầu tiên này cho phép làm rõ bản chất của các chất vấn luân lý được các thực hành bác ái khơi lên. Vấn đề không phải là nhượng bộ cho sự ngây thơ liên quan đến lòng quảng đại của những người cho mà chúng ta hết thảy đều có thể và đến đặc tính hàm hồ của những việc xin xỏ. Đồng thời, nhà xã hội học đề phòng chúng ta chống lại một số con đường tắt: “Vấn đề không phải là biện hộ cho có thêm sự bao dung hay hiếu khách, nhưng để nói rằng không được nhượng bộ cho cám dỗ về thành phố khử trùng. Rao giảng cách ngây ngô vì “tình yêu những người bị loại trừ”, như người ta có thể nghe trên các làn sóng, hay lên án những người khó khăn mà người ta không thể thấy, là không phải những giải pháp. “Họ” có đó và “họ” không có nguy cơ biến mất cách ma thuật chỉ bằng một chiếc đũa thần…[3]“. Bởi đó, vấn đề được đặt ra cho chúng ta dường như là thế này: sự ân cần nào chúng ta có thể và chúng ta phải biểu lộ đối với những người xin chúng ta? Đâu có thể là ý nghĩa của cử chỉ đúng đắn, của hành động bác ái ? “Hệ tại điều gì mà đức ái vẫn là dấu chỉ qua đó các kitô hữu được nhận biết và được phân biệt, nếu việc phục vụ là công việc của mọi người trong một xã hội đa nguyên?[4]“

2. Bác ái đích thực

Đâu có thể là ý nghĩa của cử chỉ đúng đắn này mà rõ ràng sẽ không giải quyết số phận của người nghèo? Chính cử chỉ bố thí không tránh khỏi ngờ vực. Người cho phải chăng không được đền trả lại? Do đó, một cử chỉ như thế không thể là nhưng không thuần túy. Quả thật, bác ái luôn dễ bị làm méo mó và phục vụ cho những lợi ích thầm kín.

Nhưng cho dù những động cơ ít nhiều vô thức của cử chỉ được thực hiện là gì, thì chắc chắn rằng thế giới hẳn phi nhân hơn nếu mối người không chịu chìa tay ra. Đôi bàn tay đưa ra đã diễn tả một khởi đầu ân cần. Nó là dấu của một thái độ không dửng dung. Nó đón nhận sự hiện diện của người khác. Nó biến lề đường, quán xá…thành những nơi gặp gỡ tha nhân. Nó là sự khởi đầu của bác ái: “Bác ái bắt đầu bằng những cử chỉ sơ đẳng tìm cách làm giảm cơn khát của con người mệt nhoài, chìa tay ra cho người bị ruồng bỏ…[5]“

Nhưng sẽ là cái nhìn thiển cận về bác ái khi chỉ dừng lại ở việc bố thí. Vậy đâu là những tiêu chí của một bác ái đích thực? Sự liên kết giữa bác ái và công bằng cho chúng ta một tiêu chí đầu tiên: bác ái đích thực cần quan tâm đến công bằng. Việc bố thí làm phúc không miễn chuẩn một sự dấn thân cho công bằng[6]. Ngược lại, sự dấn thân cho công bằng không miễn trừ cử chỉ cá nhân đối với người nghèo. Đức Gioan-Phaolô II cung cấp cho chúng ta một tiêu chí khác về bác ái đích thực này mà trái ngược với não trạng thời đại tìm kiếm một cử chỉ thuần túy vô vị lợi, hoàn toàn một chiều. Ngài biến sự hỗ tương thành điều kiện của bác ái đích thực: “Tình yêu thương xót, trong các tương quan của con người, không phải là một hành vi hay là một tiến trình đơn phương. Ngay cả trong các trường hợp mà tất cả dường như rằng chỉ một bên tặng và cho và bên kia chỉ lấy và nhận (chẳng hạn trong trường hợp bác sĩ chăm sóc, thầy dạy, cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục con cái, ân nhân giúp đỡ những người túng thiếu), thế nhưng, trên thực tế, ngay cả người cho vẫn luôn hưởng ích từ đó” (Dives in misericordia, số 14).

Xem xét lòng thương xót cách đơn phương, rốt cục đó là duy trì một khoảng cách giữa người làm việc thiện và người được hưởng. “Từ đó phát sinh tham vọng giải phóng các tương quan nhân loại và xã hội khỏi lòng thương xót và xây dựng chúng trên công bằng” (số 14). Công việc thanh tẩy các hành vi và ý hướng của chúng ta do đó hệ tại bước vào trong một sự hiểu biết song phương các thực hành của chúng ta, chứ không chỉ như là một thiện ích được làm cho người khác. Vì lòng thương xót “thực sự là một hành vi tình yêu thương xót chỉ khi, khi thực thi nó, chúng ta xác tín sâu xa rằng chúng ta lãnh nhận nó đồng thời từ những ai chấp nhận nó từ chúng ta. Nếu khía cạnh song phương và tính hỗ tương này thiếu đi, thì các hành động của chúng ta không còn là những hành vi thương xót đích thực nữa; sự hoán cải, mà con đường của nó được Chúa Kitô dạy cho chúng ta trong lời nói và mẫu gương của Ngài, cho đến thập giá, vẫn còn chưa được hoàn toàn thực hiện nơi chúng ta; và chúng ta vẫn còn chưa tham dự hoàn toàn vào nguồn mạch kỳ diệu của tình yêu thương xót, được mạc khải cho chúng ta nơi Ngài” (số 14). Chúa Kitô chịu đóng đánh được đề nghị cho chúng ta như là khuôn mẫu và “khi xây dựng cuộc đời chúng ta trên khuôn mẫu cảm động này, thì chúng ta, bằng tất cả lòng khiêm nhường, có thể biểu lộ lòng thương xót đối với những người khác, biết rằng Ngài đón nhận nó như thể nó được làm chứng cho chính Ngài (x. Mt 25, 34-40)” (ibid.).

Như thế, thay vì theo đuổi một cử chỉ làm phúc “thuần khiết về mặt luân lý”, hoàn toàn vô vị lợi, Đức Gioan-Phaolô II mời gọi chúng ta khám phá rằng chúng ta luôn hưởng ích lợi từ cử chỉ mà chúng ta thực hiện đối với những người túng thiếu. Các hành vi bác ái từ nay có thể được xem như là một ân sủng hơn là một nghĩa vụ: để “trả lại con người cho chính nó” (Dives in misericordia, số 14), để làm cho thế giới nhân bản hơn (x. GS số 40).

Như thế, tính đặc thù của Kitô giáo không hệ tại trong việc phục vụ tha nhân cách vô vị lợi – cái quan niệm vị tha của tương quan với tha nhân mà có nguy cơ chuyển sang những hình thức óc gia trưởng hay chủ nghĩa luân lý (x. Piô XI, Divini Redemptoris, số 46: “Nhưng vẫn còn một phương dược hữu hiệu hơn, mà phải tác động cách trực tiếp hơn đến sự dữ hiện nay, đó là giới luật đức ái. Chúng tôi muốn nói đến đức ái Kitô giáo « kiên nhẫn và tốt lành » (1 Cor 13, 4), vốn biết tránh những dáng vẻ bảo vệ làm mất thể diện và mọi sự phô trương; đức ái mà, từ ban đầu của Kitô Giáo, đã chinh phục được cho Chúa Kitô những nghèo nhất giữa những người nghèo, những người nô lệ). “Trái lại, nên suy nghĩ sự đảo ngược sâu xa và sự lật đổ tận căn qua đó chính chủ thể được hiểu như là một người khác[7]“. Vấn đề không phải là chúng ta chăm lo cho người khác, chú ý đến hoàn cảnh của họ, nhưng là nhìn nhận bản thân chúng ta như họ, nhìn nhận họ như là những người khác “chính mình như một người khác”, khám phá ra họ là những bạn bè huynh đệ.

Du ngôn người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-36) cung cấp một minh họa tốt cho sự đảo ngược này. “Quả thế, chìa khóa hệ tại trong cách thức lật ngược hoàn cảnh mà nó thực hiện. Đối với “luật sĩ” hỏi Ngài – về việc giải thích giới răn yêu thương kép – ai là tha nhân của ông, Chúa Giêsu, sau khi đã kể câu chuyện về người bất hạnh bị bỏ rơi bởi hai người đạo đức và được cứu giúp bởi một người Samaritanô, đã hỏi: “Theo ý ông, ai trong ba người này đã tỏ ra là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp? (câu 36). Như thế, Ngài đã dẫn người đối thoại của Ngài đến chỗ tự đồng hóa, không phải với người này hay người kia có thể cứu giúp, nhưng với người đang cần được cứu giúp. Quả thế câu hỏi “ai là tha nhân mà tôi phải yêu mến?” không bao giờ có thể là “óc gia trưởng” và, do đó, trái ngược với thực tại sâu xa của tình yêu. Tình yêu này chỉ thực sự có thể nảy sinh ở đâu người ta chấp nhận không phải trước tiên yêu mến và giúp đỡ, nhưng là được yêu mến và được giúp đỡ…ngay cả bởi một người Samaritanô, tức là một kẻ thù và là một người chẳng ra gì[8]“. Sự lật ngược này là nguồn mạch và là điều kiện của sự gần gũi của chúng ta với những người nghèo nhất, với những người bị tổn thương của cuộc sống. Như thế, chìa tay cho người nghèo, đó là một cách nào đó nhớ đến các nạn nhân và các người cùng khổ như là những chủ thể bình đẳng và nhớ đến sự cùng quẫn của chúng ta. Đức Gioan-Phaolô II cho thấy quà tặng được cho và được nhận biểu dương phẩm giá con người và củng cố mối liên hệ xã hội và tinh thần: “Người cho trở nên quảng đại hơn khi nó cảm thấy được đáp trả lại bởi người chấp nhận quà tặng; cách hỗ tương, người nào biết nhận quà tặng với ý thức rằng bản thân mình cũng làm việc thiện khi chấp nhận quà tặng, thì, về phần mình, phục vụ cho sự nghiệp cao cả nhất của phẩm giá con người, và do đó đóng góp vào việc hiệp nhất con người cách sâu xa hơn” (Divini Redemptoris, số 14).

3. Một đức ái sáng suốt

Tuy nhiên, lòng nhân từ, sự tử tế đối với người ăn xin không được chìm đắm trong sự mù quáng. Chắc chắn cần phải dè chừng “những lý do tốt lành” sai lạc của chúng ta về việc không cho mà rốt cục đi đến chỗ lên án người nghèo khổ. Truyền thống Tông đồ đã soạn thảo các tiêu chí trong việc phân cấp trợ giúp cho người nghèo. Bởi vì là vô hạn, nên bác ái có nguy cơ đưa đến việc khai thác những tâm hồn quảng đại. Bác ái do đó phải sáng suốt. Về vấn đề này, France Quéré đã cho thấy trong Didachè, một cuốn giáo lý luân lý cổ xưa, một giáo huấn mà các Giáo Phụ sẽ không ngừng lặp lại: “Có óc thực tế, tập sách Didachè đề phòng những lạm dụng có thể xảy ra, bằng cách xác định những giới hạn cho bác ái…Để sống yêu thương, nó không được nhượng bộ cho sự mù quáng. Đó sẽ là tự buộc mình phải bị sụp đổ, do những chi tiêu thái quá đối với những kẻ thiếu tế nhị và như thế chỉ phục vụ cho cái xấu. Cần phải đọc tập khảo luận luân lý thực hành thú vị này. Tác giả của nó bảo vệ những người cho mà thu nhập của họ nói chung là khiêm tốn, nhưng lại có ưu tư đối với phẩm giá của những người hưởng nhận: cảnh khổ cực thoáng qua của họ không miễn cho họ các bổn phận đối với cộng đồng mà họ không ngừng thuộc về. Do đó, sách Didachè dạy phân biệt người túng thiếu thực sự và kẻ bịp bợm:  nó giữ cân xứng sự trợ giúp cho công việc mà vị khách chấp nhận làm, khi anh ta có sức khỏe tốt. Sau cùng, nó đề phong các cộng đoàn kitô hữu chống lại việc lưu trú dài ngày: “Nếu anh ta cố chấp làm biếng, thì đó là một kẻ bịp bợm của Chúa Kitô. Hãy đuổi những người như thế”. Nhưng cuốn sách cũng khuyên tiếp đón mọi người xa lạ, ít ra thời gian của một chặng đường[9]“.

Người xin, dù anh ta là ai, phải luôn được tôn trọng. « Bởi vì mọi người đều là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và là người em của Chúa Kitô, nên người kitô hữu nhận thấy nơi mỗi người chính Thiên Chúa với đòi hỏi tuyệt đối của Ngài về công bằng và tình yêu » (Justitia in Mundo, số 49).

4. Một đức ái sáng tạo

Chúng ta kết thúc phần này bằng một suy tư về các tổ chức bác ái. Sắc lệnh về Tông đồ Giáo Dân dành một đoạn cho hoạt động bác ái : « Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải nhắm tới tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người, ở đâu có người bị đau khổ vì nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đày, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng. Thi hành bổn phận này trước hết là bổn phận của những người giàu và các dân tộc giàu » (số 8). Như thế, các giáo dân có trách nhiệm hàng đầu trong việc thực thi và biểu lộ bác ái : tìm kiếm và khám phá những ai đang sống trong sự khốn quẫn, an ủi họ, nâng đỡ họ. « Từ đó, bác ái sẽ có ý nghĩa xã hội là trao lại cho họ những người đối thoại[10] ».

Trong bối cảnh hiện nay,  vấn đề đối với các tổ chức Giáo Hội là biết làm thế nào chúng có thể còn làm chiếu sáng bác ái Kitô giáo. Những khai triển trên đây cho phép chỉ ra một vài đường hướng cho việc suy tư rộng rãi hơn.

a. Các tổ chức bác ái tôn giáo theo cách của mình phải biểu lộ sự biện chứng giữa công bằng và bác ái. Sứ mạng của chúng không thể khép mình vào việc phân phối các trợ giúp đủ loại khác nhau. Chúng phải làm cho bác ái lên tiếng nhưng cũng nhắc nhở những đòi hỏi  công bằng. Vì các hoàn cảnh mà chúng gặp cũng là những hậu quả của một số bất công. Điều này cũng cho chúng một trách nhiệm đối với các cấp chính trị và kinh tế để nói lên những gì thuộc về công bằng.

Do đó, chúng cũng phải đóng góp vào việc tố giác và làm cho luật pháp tiến triển khi luật pháp này tỏ ra bất công hay bất lực. Trong trường hợp trái lại, đó sẽ là biến bác ái thành một phạm trù phụ so với công bằng. Thế nhưng, đối với chúng, trước hết vấn đề là diễn tả xuyên qua các hành động của chúng rằng tình yêu thương xót là nguồn mạch sâu xa nhất của công bằng.

b. Các tổ chức bác ái có một vai trò đặc thù phải thực hiện, một vai trò không được lẫn lộn với vai trò của các cấp kinh tế và xã hội. Trước hết, chúng không tồn tại để sửa chữa những rối loạn chức năng của kinh tế hay của chính trị. Nhưng xuyên qua các hành động của mình, chúng phải biểu lộ ý nghĩa của con người, « trả lại con người cho chính nó » theo kiểu nói của Đức Đức Gioan-Phaolô II. Chúng được mời gọi cập nhật những hình thức nghèo khổ và sáng tạo nên những hình thức hiện diện và gần gũi mới mẻ nhằm khôi phục lại một tương quan nhân bản với những ai cách này hay cách khác đang sống trong sự túng thiếu. Vì thế, đức ái phải sáng tạo và làm nổi lên những hình thức can thiệp mới mẻ mỗi khi « Thiên Chúa bị đe dọa nơi con người và con người như là hình ảnh của Thiên Chúa bị đe dọa [11]».

c. Một đe dọa đè nặng trên mọi tổ chức : các việc thực hành trở thành lề thói. Các tổ chức bác ái phải canh chừng đừng để chìm đắm trong các thực hành hành chính, đừng nhượng bộ cho một lo-gíc cửa giao dịch hay một lo-gíc hiệu năng trong việc xem xét và cư xử các hoàn cảnh. Điều đó có nguy cơ làm biến mất chứng tá về « tình yêu thương xót ».

d. Các tổ chức bác ái cũng phải biết diễn tả sự biết ơn của chúng đối với các ân nhân giúp họ hành động và đối với các thụ nhân chấp nhận sự trợ giúp của chúng. Chính với điều kiện này mà các ân nhân sẽ có thể nhận ra ân huệ mà họ được đổ đầy khi đáp lại những lời cầu xin và các thụ nhân cũng sẽ có thể được mời gọi sống quảng đại đối với những người còn nghèo khổ hơn họ. Chính ở đó mà « không gian nên thánh » được mở ra cho họ và cho hết mọi người.

———-

Tý Linh chuyển ngữ


[1] Patrick Pharo, Le sens de la justice. Essai de sémantique sociologique, PUF, Paris, 2001, p. 19.

[2] Gilbert Vincent (dir.), La place des oeuvres et des acteurs religieux dans les dispositifs de protection sociale, L’Harmattan, Paris, 1997, p. 11.

[3] J. Damon, « La mendicité, traque publique, ressource privée », art. cit., p. 13.

[4] René Heyer, « Les ‘mots’ de la charité et le discours social catholique », in : Gilbert Vincent (dir.), op. cit., p. 211

[5] C. Chalier, « Equité et bonté », art. cit., p. 35.

[6] Về vấn đề này, Catherine Chalier nói đến “cái bẫy ngộ đạo thuyết » trong đó các kitô hữu đôi khi vấp ngã : một bác ái quá nhanh chóng rời bỏ công bằng : « Bác ái đích thực, bác ái mà không bap giờ quên sự cần thiết của công bằng, thật khó nghĩ và khó sống, biết bao nhiêu lần, viện cớ đến một lòng nhân từ được coi như là được cưu mang bởi lý tưởng imitatio Dei (bắt chước Thiên Chúa), con người có nguy cơ đầu hàng trước cám dỗ của một bác ái bất công, chẳng hạn nó cho kẻ tội phạm cư trú mà không đòi hỏi nó phải trả lẽ cho luật pháp của một nước » (Catherine Chalier, « Equité et bonté », Autrement, série Morale n° 11, avril 1993, p. 29).

[7] Denis Müller, « Estime et respect de soi, justice, reconnaissance » in Les passions de l’agir juste, Editions Universitaires, Fribourg, Cerf, Paris, 2000, p.112

[8] J.-F. Collange, « Foi, espérance, amour et éthique », art. cit., p. 43.

[9] France Quéré, « Un mot qui prend feu », Autrement, série Morale n° 11, avril 1993, pp. 43-44.

[10] Ibid., tr. 26.

[11] Règle de vie de la Congrégation des Augustins de l’Assomption, Rome, 1984, Chapitre 1, n° 4.

 

 


Trang Giáo Dục